2012/09/07

TRỨNG TRỜI

(Để nhớ ba)

Hôm nay, tôi rất xúc động khi tình cờ biết được tâm sự của một người bạn vắng cha từ lúc còn trong bụng mẹ đã tìm được lại tình phụ tử sau hơn nửa thế kỷ. Bạn đang tận hưởng hạnh phúc to lớn này mà bạn ngỡ rằng chỉ có thể gặp trong mơ. Hạnh phúc đã tỏa sáng ngời lên mặt bạn, ở ánh mắt long lanh, ở nụ cười rạng rỡ, ở lời tâm sự chia sẻ với bạn bè một cách tha thiết, nồng ấm…tình cha con. 
Bạn ơi,
Bạn chỉ vô phước nửa đời người thôi bạn ạ, nửa còn lại bạn hãy tận hưởng tình cha con thiêng liêng, tuyệt vời nhé bạn. Bạn hạnh phúc hơn tôi đó vì cha của tôi giã từ cõi đòi này khi tôi vừa lên năm và dỉ nhiên tôi vĩnh viễn mất cha.

***
Xưa, tuổi đời qúa ít ỏi, tri thức vừa mới chập chửng trong bộ óc non nớt, tôi chỉ nhớ một vài kỷ niệm với cha thân yêu mà tôi xem đó là những hạnh phúc hiếm quý nhất của đời mình. Nó cứ hiển hiện về thật ấm áp mỗi dịp gặp những tình tự về cha mà tôi xem đó là những hạnh phúc tìm lạị.
Ba má tôi vì hoàn cảnh sống đời trôi nổi, rày đây mai đó.
Có lần chúng tôi đã sống một thời gian tại Cái Khế (Cần Thơ) trong một ngôi nhà lá nhỏ nghèo nàn. Trước nhà là một con đường cho xe hơi cũ kỹ với đất đá lồi lõm vì không được bảo quản, bên kia là một con rạch nhỏ mà mỗi chiều tôi thường đến tắm rửa, vui đùa. Một hôm sau khi tắm xong vượt lộ về nhà, tôi đã bị một xe đạp đụng phải, té và trán bị thương đến nay vẫn còn vết xẹo:

Nhớ thuở xưa theo giòng đời xuôi ngược
Ba má tôi trôi nổi đến Cần Thơ
Sống lam lũ một thời gần Cái Khế
Cảnh cũ người xưa nhớ mãi đến giờ.

Có những lúc tình cờ tay xoa mặt
Chạm vết trầy trên trán: vết yêu thương.
Thương mẹ cha, thương giòng Bassac
Ấm áp lòng khi mỗi lúc soi gương!

Một chiều, qua bên kia đường đi tắm
Ở rạch con nho nhỏ nước lững lờ
Khi đùa giỡn vướng chân té ngã
Vết thương thành dấu ấn thuở ấu thơ.

(Trích Vết Thương Trên Trán_2010_AT)


Thuở ấy vì còn bé nên sự hoài niệm các khoảng đời không liên tục.
Tôi lại nhớ có lúc chúng tôi đã sống trên một chiếc tam bảng với cái mui tròn làm bằng lá (lá dừa nước thì phải?), nấu cơm bởi chiếc cà ràng ở phía sau lái. Cuộc sống gom gọn trong lòng chiếc tam bảng với cảnh gạo chợ nước sông không biết kéo dài bao lâu. Má tôi là người lo mọi việc cho cuộc sống lang thang này: cơm nước, chèo chống, thuốc men trị bịnh cho ba tôi… Một buổi sáng, chiếc tam bảng cấm sào trên dòng rạch nhỏ, nước ròng chảy siết cuốn trôi theo những trái mận chín rơi rụng từ những vườn cây của vùng đất phì nhiêu Chợ Lách. Ba tôi ở sau lái, tôi trước mủi tam bảng cùng nhau vớt trái, lựa những trái còn nguyên vẹn để ăn dần. Thỉnh thoảng cha con khoe với nhau mỗi lần vớt được trái ngon với nụ cười vui vô tư bất chợt có được.
Hôm nay hoài niệm về ba nhưng không thể nào không nhắc lại sự gian nan của má tôi, người phụ nữ hiền hoà miền quê sông nước Cửu Long, suốt đời chịu nhiều nỗi truân chuyên, cay đắng. Tay yếu chân mềm phải chèo bơi tam bảng di chuyển đó đây, có lần dòng nước chảy quá nhanh làm chiếc mui vướng một thanh cây của cầu khỉ bắt ngang dòng rạch, tưởng đâu nhận chìm “ cả nhà” xuống nước.
Không lâu sau đó, bịnh ba tôi trở nặng, ba mẹ quyết định về ngôi nhà tổ phụ nơi bác Hai của tôi đang quán xuyến. Chúng tôi phải vượt ngang sông Cổ Chiên. Không may khi đang giữa sông thì một cơn giông chợt đến, nước nổi cơn thịnh nộ, những đợt sóng to hăm dọa nhận chìm “cái nhà” và cả chúng tôi xuống lòng sông. Với sức cố gắng vượt bực cùng sự trợ lực yếu ớt của ba đang bịnh hoạn, và hơn hết chắc là sự phò trợ của Phật Trời mà chúng tôi đến bờ phía Vĩnh Long an toàn trong sự hải hùng …vừa giảm bớt. 


Về đến nhà bác Hai, tôi ngã bịnh. Đứa con nít năm tuổi thì chắc chắn còn “nhỏng nhẻo” “vòi vĩnh” cha mẹ cái này cái nọ, cả những cái mà cha mẹ không thể lo được dù là chiều con. Những “tánh con nít” này lại dai dẳng hơn khi bị bịnh hoạn. Lần đó vì khó chịu trong mình nên tôi khóc dai dù mẹ kiên nhẫn dỗ dành. Ba tôi nhỏ nhẹ hỏi: “Con muốn gì cứ nói, ba sẽ làm cho con”. Chắc có lần nghe thấy ai nói “gì đó” mà tôi trả lời : “Con muốn ăn trứng… trời!” và tay tôi chỉ lên trời. Ba tôi đã cười ngất và nói sẽ kiếm “trứng trời” cho tôi ngay. Ba đã nhờ người leo lên các cây cau tìm trứng chim cho tôi.
Chuyện nhỏ mà hạnh phúc ba đã cho tôi rất lớn; nó ngon tuyệt, béo ngậy…mà hương vị đến bây giờ như còn ở vòm lưởi…và cả trong tim tôi.

Anh Tú 
September 7, 2012


2012/09/01



NGÀY GIỖ MẸ 


Năm ấy đến,Vu Lan tôi chẳng nhớ
Mẹ nằm kia mặt nhợt nhạt xanh xao
Bịnh nan y gây những nỗi thương đau
Giết chết nhanh mẹ tôi giây phút cuối.

Đời mẹ gắn liền cùng hờn với tủi
Kiếp hồng nhan nhiều chuyện truân chuyên
Theo chân ba gian khổ khắp bưng biền
Đất Lục tỉnh chống chèo tìm nẻo sống

Ba mất sớm mẹ/con đành lạc lõng
Giữa đời đầy cạm bẩy phải gánh vai
Nuôi con thơ khôn lớn theo tháng ngày
Tròn lời hứa với người thương xa vắng.

Thời chinh chiến bao nhiêu lần cay đắng
Thuở đói cơm quần áo rách tả tơi
Đôi buồng cau lá chuối rổ mồng tơi
Gom từng cắc xây xài qua khốn khó.

Một mình mẹ cấy cày vuông đất nhỏ
Đến mùa khô vài gịa lúa đền công
Mồ hôi rơi giọt lệ tủi lưng tròng
Chén cơm hẩm muối dưa vui lòng mẹ.

Lúc ngã bịnh cắn răng không chia sẻ
Với con thơ chòm xóm lẫn bà con
Để đến khi thân xác đã hao mòn
Ôi quá trễ con xót xa chờ mẹ chết.

Nợ trần thế, giờ này đà trả hết
Mẹ thảnh thơi, hồn phách ở suối vàng
Không lợi danh, miên viễn với bình an
Thôi như vậy phải đành theo định mệnh.

Ngày giỗ mẹ: sau Vu Lan hai bửa
Mâm cơm chay tưởng nhớ mẹ kính thương
Một bình hoa, chung rượu nhạt, cây hương
Dâng hồn mẹ linh thiêng về chứng giám.

Anh Tú
September 1, 2012


2012/08/30


ƯỚC MƠ

(Từ truyện trên Internet)

-Cô mua giúp con vài tờ giấy số.
-Nếu số hên trúng giải cháu mong gì?
Lí nhí rằng: Xe đạp để con đi…
Bán vé số xong… liền ngay đến lớp.
-Có xe đạp con không còn trễ học!
Bổng ngập ngừng mắt liếc lẹ xuống chân:
-Con xin thêm món nữa được hay chăng?
Một đôi dép vì bàn chân chay cứng!

Số không trúng. Ngượng ngùng tôi thấy cháu
Mỗi ngày, đầu không nón vẫn chân trần.
Ước mơ này, suy nghĩ nọ: Buâng khuâng!
Mai sẽ gọi “Cháu ơi! Đây…nón, dép.”


Anh Tú
August 30, 2012

2012/08/21

NÓI VỚI MẸ CHA

Cha ra đi khi con vừa năm tuổi
Non nước đang dày xéo bởi ngoại nhân
Gia-đình mình dưới đáy vực cùng bần
Tình phụ tử phải đi vào l
ỡ vỡ!


Số mạng đẩy mẹ bơ vơ, bỡ ngỡ
Bao chông gai chờ đợi ở tương-lai.
Bốn mươi năm sau ngậm đắng nuốt cay
C
ả một đời mẹ luôn đau đớn khổ.


Bịnh nan y quật mẹ y
êu ngả đổ

Lúc quê-hương vào bước rẽ đau thương.
Mẹ theo cha, con nhận khúc đo
n-trường;

Rằm tháng bảy là ngày đầy ngấn lệ!

Nguôi nhớ thương mẹ cha không là dễ
H
ình bóng song thân thấm đậm tim con.

Vu Lan này nhớ phụ mẫu biển non;
Vài dòng mọn tỏ chút lòng tệ tử!

Anh Tú
 21/8/2012
(5 tháng 7 âm lịch, năm Nhâm Thìn)

2012/08/08

*NHỮNG LY CHÈ ĐẬU ĐỎ

(Về bạn Đỗ Hoàng Minh)
Đỗ Hoàng Minh lúc là SV Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức
Mùa tựu trường năm 1970, được về dạy tại trung học Đoàn Thị Điểm Cần Thơ, tôi có cơ hội gặp lại bạn thời trung học Đỗ Hoàng Minh, một bạn chí-cốt cũng đang làm việc tại Cái Răng. 
Bạn có cho biết gia đình bạn đang sống tại thị-trấn Phụng-Hiệp (Phong-Dinh) nhưng chưa một lần đến chơi vì chúng tôi có thể gặp nhau bất-cứ lúc nào tại phố-thị Cần-Thơ. 
Sau này, vào lúc muốn tìm thăm bạn để tạm-biệt đi xa, tôi đành phải cầu may đi hỏi thăm láng-giềng của bạn.
Bằng xe gắn máy, từ Cần-Thơ trên đường hướng về cuối miền đất nước, tôi đến xóm nhà trước khi gặp cầu Phụng-Hiệp như Minh chỉ dẫn lúc trước; rất may bà con cho biết gia-đình bạn vẫn còn ở nơi này.

Vợ của Minh ân-cần tiếp đón và cho biết chồng đang đi làm việc đến tối mới về nên chỉ đường cho tôi đến gặp bạn ngay.
Tại nơi làm việc là lò sản-xuất đường bên dòng kinh Búng Tàu hiền-hoà, cạnh những đống mía ngổn-ngang vừa chất lên bờ từ ghe thu mua, những đống bã mía vừa ép xong còn mùi thơm hấp-dẫn đám ruồi, với vẻ ngạc-nhiên cùng tột, với đôi chân không…cân-đối nhau (vì bị mìn khi còn trong quân đội, không chết là may), bạn “cà nhắc” ùa chạy đến ôm chầm tôi mừng-rỡ. Không ngờ hai đứa còn gặp nhau sau hơn mười năm từ khi bắt-buộc phải lìa bỏ Cần-Thơ, nơi hai đứa đã có thêm rất nhiều kỷ-niệm đầm-ấm không kém so với thời còn đi học.
Tức-khắc, bạn giao công việc cho người khác, cùng tôi trở về nhà để hàn-huyên. Một bửa cơm đạm-bạc được chị Minh nấu nhanh đải khách; ba món canh chua tôm bông so đũa, hột vịt xào khổ qua và cá trê vàng nướng chấm nước mắm gừng. Ôi bửa cơm tái ngộ rất “truyền-thống của dân Nam Bộ” sao mà hấp-dẫn vô cùng; càng ngon hơn khi nó chan-hoà tình bạn thân-thiết của hai hàn-sinh đã từng chia ngọt xẻ bùi cũng như cay đắng thuở nào. Tay vừa cầm đũa, miệng đã hỏi đáp “túa xua” từ lúc bắt đầu bửa cơm tái-ngộ dẫn cho đến khuya hôm ấy; đêm tôi ở nhà bạn lần đầu (và có lẽ là lần cuối). Hỏi han nhau những gì đã xãy ra khi chúng tôi phải lìa bỏ mọi công việc đang làm ăn ở Tây-Đô để trở về nguyên-quán năm nào
(1975). Khoảng thời-gian sau đó chúng tôi cùng trãi-nghiệm những tình-huống tương-tự với nhau; những truân-chuyên rồi cũng qua đi để cuộc sống trong hoàn-cảnh mới được hình-thành.

Thật là thoải-mái và hạnh-phúc khi chúng tôi có dịp quay về dĩ-vãng, thuở hai đứa được trúng tuyển vào trường Collège de Vĩnh-Long mà sau đó không lâu được đặt tên bằng quốc-ngữ Trung-Học Công-Lập Nguyễn Thông và tiếp theo đổi thành là Trung-Học Tống Phước Hiệp.
Đối với học-trò khờ khạo của trường nhỏ miền quê vừa đậu Tiểu-học như chúng tôi, chập chững lên phố-thị vào trường trung-học là một biến-cố vĩ-đại của đời mình. Bao nhiêu khó-khăn, ngỡ-ngàng khiến mình vừa lo sợ vừa bị kích-thích trên bước đường học-hành xây-dựng tương-lai.
Dạo đó, Minh và tôi chưa quen biết, mãi đến cấp lớp đệ nhị (hay 11) do một tình-cờ mà từ đó bắt đầu chơi thân khi biết hoàn-cảnh giống nhau: cùng là học-trò nghèo từ quê lên tỉnh-lỵ, được tha-nhân giúp-đở cho ở trọ miễn phí mà còn xem như con cháu trong nhà.
Cuối niên-khóa lớp đệ nhị, chúng tôi phải đi thi Tú-Tài 1 cho nên mọi môn học cần phải chăm-chỉ trau-giồi cẩn-thận nhất là những môn chánh như Toán, Lý Hóa và Việt văn . Năm ấy có một vị giáo-sư Việt Văn rất tích-cực dạy dỗ chúng tôi. Thầy soạn rất nhiều tài-liệu cho học-sinh tham-khảo, nhiều bài thơ của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Cao Bá Quát…bắt chúng tôi học thuộc lòng để có tài-liệu dẩn-chứng khi làm luận văn. Thầy cần “quay rô-nê-ô” bài vở để phát cho tất cả học-trò của thầy. Thầy giao cho hai đứa tôi làm việc này. Rô-nê-ô là lối in thông-dụng thời đó: đánh máy bài viết lên giấy stencil, loại giấy đặc-biệt rất dai không thấm ướt, máy đánh chữ sẽ đụt lỗ trên giấy khi đánh chữ. Sau đó giấy này được gắn lên “máy rô-nê-ô” quay bằng tay, bài viết in ra được đóng lại thành tập như quyển sách. Công việc này đòi hỏi phải kiên-trì, chăm-chỉ, kỹ-lưỡng…Thầy cho chút ít thù-lao trích ra từ tiền do học-sinh góp lại cho chi-phí. Sau giờ học, hai đứa “tác-nghiệp” bằng cách nhờ máy đánh chữ, và máy quay rô-nê-ô của văn-phòng của nhà trường. Một đứa đọc bài cho đứa kia đánh máy và thay phiên nhau…
Sau những giờ “làm việc” nhọc-nhằn, để tự tưởng thưởng cho mình khi có tiền thù-lao, hai đứa thường đạp xe lên miếu Bảy Bà*(nơi này lúc ấy có bán hàng ăn vặt,thức uống trên những xe đẩy nhỏ cho học sinh), tọa-lạc giửa Trung-Học Bán Công Nguyễn Thông (lúc ấy trường Trung-học công-lập Nguyễn Thông đã đổi tên thành Trung-học công-lập Tống Phước Hiệp và trường Trung-học bán công của tỉnh nhà mới dùng tên Nguyên Thông) và Trung-học Tư-thục Long Hồ, để thưởng-thức những ly chè đậu đỏ rất ngon, béo và ngọt và có lẽ …càng ngon ngọt béo hơn khi để tâm-hồn bay theo những tà áo dài trắng thướt tha trước mắt. Nhớ bạn tôi ăn chè đậu đỏ …với cái miệng rất dễ thương: không bao giờ thiếu những cái chép miệng và đôi lúc có cả …hít hà (tại sao chắc ai cũng biết)!!!


Say-sưa nhắc những kỷ-niệm khác nữa cho đến quá khuya, nhưng phải tạm dừng lại để đi ngủ khi chúng tôi nghe được tiếng “tằng hắng” của chị Minh vẫn chưa an giấc.

Anh Tú (Nguyễn Hồng Ẩn /NHA)
August 8, 2012

*Miễu đã trùng-tu và ghi là “Di-Tích Cửa Hữu Thành Long-Hồ”

2012/07/25


MỘT CẢNH ĐỜI

Tôi có ông anh họ không may mất sớm để lại ba con còn nhỏ và người vợ trẻ. Chị dâu của tôi, một phụ nữ miền quê sống nghề ruộng rẫy, bất chợt gánh nặng gia đình đè lên đôi vai ốm yếu của chị. Chị đã kiên gan làm việc cực nhọc để phụng dưỡng mẹ chồng và nuôi nấng ba con đến lớn khôn có đời sống đạo đức và hạnh phúc. Chị vẫn thủ tiết thờ chồng cho đến ngày nay mái đầu đã trắng phao. Hoàn cảnh của chị đã cho tôi cảm hứng, góp nhặt những mảnh đời khác nữa để tạo ra một câu chuyện tương tự sau đây; dỉ nhiên tên các nhân vật không thật và nếu có trùng tên thì chỉ là tình cờ.

***

Có một thị trấn bình thường, bình dị, bình an nằm bên giòng sông hiền hoà nước ngọt quanh năm nối liền sông Tiền và sông Hậu của Cửu-Long-Giang. Thị trấn này chỉ có một con đường với hai dãy phố gồm những căn nhỏ nhắn buôn bán đủ loại hàng hoá cung cấp cho nông dân quanh vùng.

Nơi đó có cửa tiệm vợ chồng chú thiếm Hai. Bà con bên ngoài thấy họ chăm chỉ làm ăn, hòa thuận, anh anh em em, nghĩ rằng đó là một cặp vợ chồng thật hạnh phúc.Bỗng nhiên không rõ vì lý do gì, người vợ bỏ đi, chồng phải quán xuyến mọi việc trong nhà.
Ở tuổi còn thanh xuân và cũng cần có người phụ giúp bán buôn, nên chú Hai có ý tìm người tục huyền.Cuối cùng chú ghé mắt đến cô Ba cùng lứa tuổi với chú, sắc vóc bình thường như bao người con gái quê của Nam Kỳ Lục Tỉnh trái ngọt cây lành nhưng hiền lành, đảm đang.

Ban đầu hằng ngày họ gặp nhau chào hỏi, nói chuyện nắng mưa dẫn lần đến thân quen rồi thương yêu. Chú nhờ cha mẹ đứng cưới xin cô Ba đàng hoàng theo mọi thủ tục cổ truyền rất đầy đủ.
Cuộc sống chấp nối của cặp đôi này, chồng một lần hôn nhân lở vở, vợ là gái còn son xem ra cũng hoà thuận và hạnh phúc vô cùng. Năm sau người vợ mới của chú Hai hạ sinh một trai kháu khỉnh.
Thời gian âm thầm trôi qua…..Bổng đất bằng dậy sóng, người vợ cũ của chú trở về với một đứa con nhỏ. Chú “hoan hỉ” đón người vợ cũ  vào nhà. Ai đâu ngờ chú Hai đã tráo trở phản bội cô Ba, “bắt cá hai tay”!. Họ phải sống chung một nhà và cô Ba đã bị người vợ cũ, thiếm Hai, ăn hiếp trước sự thờ ơ, không biết cố ý hay vô tình, của ông chồng.
Ai cũng nói: Chú Hai bị vợ bỏ, cưới hỏi cô Ba một cách đàng hoàng thì rõ ràng cô Ba ở cương vị vợ chánh hợp pháp dù là đến sau. Nhưng vốn hiền lành và không được sự che chở của chồng, cô đành chịu thiệt thòi, chán nản bồng con trở về nhà mẹ, bán buôn cò con để nuôi đứa trẻ vô phước của hôn nhân đổ vở một cách thật vô lý và bất công với cô.
Vì cách hành sử vô đạo lý của mình, Chú Hai đã đánh mất tình cảm tốt đẹp của bà con ở thị trấn dành cho. Người đàn ông này đã xem cô Ba và đứa con máu mủ của mình như người xa lạ; càng tệ bạc khi không có một sự cấp dưỡng, giúp đở dù nhỏ nhặt nào. Người đàn bà hiền hậu cam phận chịu đựng hoàn cảnh nghiệt ngã ấy, sống một mình nuôi con khôn lớn, không lời oán trách.
Chẳng những thiếm Hai chua cay, hách dịch với cô Ba …mà đám con của thiếm cũng giống như mẹ, đối xử  và xem mẹ con của cô như kẻ thù có lẽ vì sợ chia phần tài sản của chú Hai chăng?
Thời gian trôi qua âm thầm, người lớn thành người già, trẻ con thành người lớn, tất cả rồi cũng phôi pha. Đến một ngày chú Hai bịnh qua đời, thiếm Hai và đám con tiếp tục sống thoải mái với cơ ngơi của chồng/cha để lại.
Nay cô Ba cũng đã già, bịnh hoạn, bán buôn thua lỗ. Anh Thảo, con trai của cô nay đã lớn, lập gia đình,  phải thức khuya dậy sớm, làm việc cực nhọc kiếm tiền nuôi mẹ, bà ngoại và vợ con.
Ngày qua ngày vì lao lực , anh ngả bịnh và ra đi để lại người vợ trẻ; còn cô Ba phải chịu cảnh trẻ già khóc măng non. Một nét son đã điểm lên cho những người phụ nữ hiền thục của Việt Nam là người vợ trẻ của anh Thảo vẫn “ở vậy” thờ chồng, chắt chiu nuôi con,  một lòng kính mến /nuôi dưỡng mẹ chồng …. Những thập niên của thế kỷ trước có rất nhiều thiếu phụ miền quê đã hành xữ như vợ Thảo; còn bây giờ thì sao?

Và có phải là quả báo nhãn tiền hay không mà một số con cái của chú thiếm Hai đã sớm theo chú Hai và thiếm thì bị bịnh hoạn hành hạ khổ sở trước khi lìa đời?
Còn những đứa con của anh Thảo, dưới sự chăm sóc của chị Thảo, cộng với tình yêu thương rất mực của bà nội nay đã khôn lớn và thành danh trên đường đời. Những đứa con này là những người hiếu thảo đã  chăm sóc, nuôi mẹ và nội; dù làm xa cũng thường xuyên cố gắng về thăm hai người ruột thịt yêu dấu của mình.
Phải chăng đây là một bi hài kịch của xã hội con người vốn có trí óc, có suy nghĩ mà đã dẫm lên đạo lý làm người để mang tiếng xấu với hậu thế nói chung và cho bà con lối xóm của mình nói riêng, thường xãy ra trong một xã hội ngày càng băng hoại đạo đức? Và may thay cuộc sống vẫn còn ý nghĩa khi hiếm hoi có những người như gia đình anh chị Thảo còn giữ được những nếp sống đạo đức tốt đẹp của xã hội ta.

Anh Duy
25/7/2012


2012/07/11

HAI BỜ SÔNG HẬU

Quê mẹ không gian luôn bỏ ngõ
Chờ ta về tỏ rõ tâm tình
Thời gian trôi tưởng đâu mất dấu
Tiếng thơ ai réo gọi lòng mình.

Sông Hậu bình minh ngày lên hẹn
Hai chuyến phà đưa ngược hướng nhau
Em đến lớp anh đi đến sở
Nắng đón gió mai thở ngọt ngào!

Đất Vĩnh bờ đông quê em hở?
Tây Đô vùng nhớ áo trắng bay?
Mơ tương lai sáng, tình lên sóng
Yêu đương vương vấn? Vẫn còn say?

Sông Cửu đôi bờ dày mơ mộng
Bảng đen phấn trắng nghiệp đời tôi
Một thuở vung tay xây ước vọng
Bất phùng thời gió cuốn mây trôi!  

Anh Tú
July 11, 2012 

2012/06/18

*Xướng:

GỞI BẠN HIỀN

( về bạn TBT Houston-TX và
các bạn tôi bốn phương trời)

Bạn ở phương trời bạn có hay
Texas xa cách Cần Thơ nầy
Bạn thường ngồi Chat hàng đêm vẫn
Tôi nhận Email suốt cả ngày
Thờ thẩn xứ xa yêu bóng Nguyệt
Mênh mông quê Nội nhớ thương đầy
Cầu mong non nước…bình yên đến
Tôi bạn tương phùng : quý lắm thay !

Dương Hồng Thủy
June 14, 2012


Họa:

GỞI BẠN QUÊ NHÀ

Vẫn nhớ về anh, anh có hay
Quê hương ngàn dặm cách nơi nầy
Bài thơ tha thiết đong thương nhớ
Quyển lịch vô tư đếm tháng ngày
Bạn với quê hương vui đầy ắp
Tôi và xứ lạ khổ vơi đầy
Mơ sao có dịp ta tao ngộ
Cho thỏa lòng nhau. Mong lắm thay!

Anh Tú/Nguyễn Hồng Ẩn
June 18, 2012



2012/06/15

*Xướng:

23-ANH VẪN LÀ ANH…? 

Anh vẫn là anh của thuở nào? 
Vẫn là cánh gió cuốn mây sầu 
Hay là sợi nắng vườn xuân hạ 
Là bướm lang thang lạc chốn nao? 

Anh vẫn là anh của thuở xưa? 
Là tình nhân ảnh mùa thu mưa 
Vẫn là chiếc lá bay buồn bã 
Là ánh trăng sầu đêm gió thưa? 

Yên Dạ Thảo 

Họa:

*CHẲNG LÀ TÔI CỦA THUỞ NÀO

Tôi chẳng là tôi của thu nào 
Tựa mùa thu úa đón đông sầu 
Như ngày xuân cuối vào hè nóng 
Nghe tiếng ve buồn khóc thuở nao! 

Tôi chẳng là tôi những lúc xưa 
Nay hay héo hắt lúc nhìn mưa 
Chập chờn giấc ngủ đêm quạnh quẽ
Thơ thẩn thả hồn theo gió thưa!

Anh Tú 
June 15, 2012 

2012/06/01

22-CHỢT NHỚ MẸ NGÀY XƯA

“Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Buâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau”
*
Mẹ tôi nhìn trước ngó sau
Tìm cha hở mẹ? Cha nào biết đâu.
Giờ cha nằm dưới đất sâu
Mẹ tôi năm tháng âu sầu nhớ thương.
*
Nhạn Nam én Bắc đôi đường
Xót xa thương mẹ dặm trường cô đơn!


Anh Tú
June 1, 2012

2012/05/28

CÓ AI CHUNG NỖI NHỚ?

Mỗi tháng Năm về... lòng man mác nhớ
Hoa học trò màu phượng đỏ vấn vương
Kỷ niệm thương với bạn học chung trường
Cô thầy cũ chập chờn trong ký ức.

Thuở còn bé mùa bải trường háo hức
Mừng hè… như mặc áo mới mùa Xuân
Xa bạn thân lòng vươn chút bâng khuâng
Lại hớn hở... với niềm vui “không sách vở”.

Thuở nhìn trời, trời luôn luôn rạng rỡ
Thuở nhìn hoa, hoa đỏ sắc thẹn thùng
Khi Hạ sang, tim thoáng gợn nhớ nhung
Hỏi ai đó có cùng chung nỗi nhớ?

Năm học cuối ra trường buồn tim vỡ
Bạn và ta còn có dịp gặp nhau?
Tình trót trao mai này sẽ ra sao?
Lo, thương, nhớ ... chợt sầu lên chất ngất!


Anh Tú
Memorial Day 
May 28, 2012

Họa:

Tôi Có Chung Nỗi Nhớ

(Họa bài thơ"Có ai chung nổi nhớ" của Anh Tú Nguyễn Hồng Ẩn)

Cứ tháng năm... lòng tôi luôn luyến nhớ
Tuổi học trò hoa Phượng thắm vương vương
Lưu bút xưa với lủ bạn cùng trường
Màu mực tím phủ đầy trang ký ức .
.
Cứ hè đến...lòng sao luôn háo hức !
Mùa bải trường như hoa nở vào xuân
Áo ai bay mà chợt thấy bâng khuâng
Cô bạn gái chung đường cho mượn vở.
.
Xong mùa thi..lòng vui mừng rạng rở
Hỏi em sao ??..mà má đỏ thẹn thùng !
Phút giây nầy tim đã biết nhớ nhung
Niên học mới có còn chung...niềm nhớ ??
.
Ngày tựu trường..lòng buồn như tim vở
Em không còn đi học;chẳng bên nhau
Tình trao em nay xa cách làm sao ?
từ dạo ấy...tim lòng sầu cao ngất .! !

Song Quang


2012/05/23


21-PHÚT CHẠNH LÒNG

Lang thang dưới cơn mưa
Nhìn từng giọt lưa thưa
Nghe buồn lên man mác
Đời ta kiếp sống thừa?

Bao mươi năm đủ chưa
Nợ đời trả sao vừa
Khổ đau còn đeo đẳng
Theo ngày tháng đong đưa?

Anh Tú
May 23, 2012

2012/05/13

20-QUÊ NGOẠI TÔI

(Để nhớ ngoại và mẹ)

Bến sông nhà ngoại tôi. Ảnh Hồ Văn Cưng

Quê ngoại tôi một vùng đất quê mùa
Có dòng sông tím màu hoa rau mác
Và cánh đồng nước ngọt trộn phèn chua 
Đẫm mồ hôi lúa mới đơm đầy hạt.

Về ngoại khi cha yêu vừa khuất bóng
Mẹ cô đơn sống đạm bạc với bà
Cùng goá bụa, bà tôi cũng đã già
Nương tựa nhau sớm hôm nuôi tôi lớn.

Quê nghèo khổ ngày cơm rau hai bửa
Thời thực dân bọn“Tây bố”* thường xuyên
Đã tạo ra bao nhiêu nỗi truân chuyên
Tuổi thơ ấu của tôi như thế đó!

Nhắm mắt lại thấy gốc cây bụi cỏ
Hai bờ sông với đường đất quanh co
Ở đầu làng có ngôi trường nho nhỏ
Nơi thầy tôi đi chân đất “đưa đò”.

Nhớ những lúc mẹ thương… chèo tam bản
Hai bên bờ dừa nước lẫn cóc kèn
Như chào khi chúng tôi đi chợ Vãng** 
Cảnh đơn sơ, mộc mạc rất thân quen.

Dù dầu dãi trải qua nhiều gian khó
Luôn tưởng nhớ về vùng đất “nhà quê”
Nơi có mộ Ngoại, Mẹ già nằm đó
Một ngày nào tôi cũng sẽ quay về!

Anh Tú
Mother's Day 2012
* Lính Pháp bố ráp.
** Chợ Vĩnh-Long 

2012/04/27

Nguồn: Internet


NÓI VỚI NGÀY NÀY

Tháng tư năm ấy mưa tầm tả

Cỏ cây nghiêng ngã dáng eo xèo
Hoa mới nở tơi bời vật vã
Tình vừa thơm gió cuốn bay vèo.

Mắt héo hắt nhìn từng chiếc lá
Màu đang xanh vội vã thay màu
Theo nước chảy trôi ra biển cả
Tơi tả về đâu? Chìm đáy sâu?

Éo le cuộc sống theo ngày tháng

Mùa Xuân sao li đổ mưa Ngâu
Đất trời cũng khổ sầu ngao ngán
Nước non sao vẫn thấm đòn đau?

Nuôi niềm tin dạt dào lai láng
Nắng mưa chan chứa giọt yêu thương
Mong núi sông tương lai xán lạn
Dân ta thoát khỏi những đoạn trường.


Anh Tú 
April 27, 2012

2012/04/24

17-NĂM TRÊN NĂM

“Vốn” năm mươi năm mươi bình đẳng
Tình anh tình em nặng bằng nhau
Nghéo tay cùng vượt ba đào
Những gì cay đắng, ngọt ngào sẻ chia.

Theo ngày tháng “lời” là tình nghĩa
Anh bảy em ba có chịu không?
“Lời” này sâu tợ biển sông
Dành cho con cháu: đồng lòng nhé em?


Anh Tú

 24/4/2012