2014/02/20

NGÔI CHÙA BỎ HOANG

Lời Tác Giả: chúng ta thử trong một khoảnh khắc tưởng tưởng như đang sống lùi lại thời gian hơn nửa thế kỷ trước để đi vào câu chuyện có thật về một ngôi chùa trong Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung nằm ven đô thành phố Sàigòn năm xưa. Kính dâng lên hương linh của Thầy Tâm, cố Hòa Thượng Thích Thiện Chánh.

Ngôi chùa Thới Bình với bức tường gạch xây chung quanh, nhìn từ xa thì trông như một cái am lớn dành cho những người muốn tìm một nơi chốn yên tịnh để quên đi những phiền toái và trầm luân của cuộc đời. Khi vào bên trong sân để vãn cảnh thì thấy chùa cũng khá rộng và khang trang, gần cuối sân có một cây đa cổ thụ với tàng cây che phủ rợp cả một góc sân chùa nhưng hình như thiếu tay người chăm sóc cho nên cỏ mọc đầy cả sân và tường thì loang lổ nhiều chỗ vị thấm nước mưa, trong chánh điện thì một lớp bụi dầy phủ trên nền xi măng và nhện giăng mấy góc.

Theo dân mấy thôn làng kế bên kể lại thì trước kia đây là một doanh trại của lính Lê Dương thuộc quân đội Pháp trấn đóng để bảo vệ cửa ngõ vào thành phố Sàigòn. Sau khi đại đội lính Lê Dương rút đi thì một thời gian sau người ta thấy ngôi chùa được xây dựng lên với sự đóng góp tài vật của dân làng và những gia đình mộ đạo Phật và bá tánh trong vùng lân cận và do lực lượng công binh của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung đảm nhiệm phần kiến tạo.

Mấy năm trời sau khi khánh thành ngôi chùa nhưng vẫn chưa tìm ra được vị sư để trụ trì vì thời gian đó luật quân dịch không chừa một ai và các chú tiểu hay nhà sư đến tuổi vẫn phải thi hành nghĩa vụ quân sự và nhập ngũ.
Đại Đức Minh Tâm, pháp danh Thích thiện Chánh lúc đó 22 tuổi cũng nằm trong số những vị sư được đưa vào Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung để thụ huấn về quân sự.

Thầy đã qui y Tam Bảo từ thuở nhỏ lúc còn để chỏm và theo học đạo với Sư Ông từ lúc thiếu thời tại chùa Châu Viên nằm dưới ngọn Núi Lớn thuộc vùng Thất Sơn, tỉnh Châu Đốc.

Thất Sơn là vùng linh địa với bẩy ngọn núi và có lẽ là nơi quy tụ nhiều chùa chiền nhất trong nước và cũng là nơi nổi tiếng về sự linh thiêng huyền bí. Thất Sơn là nơi mà dân gian truyền tụng rằng Đức Phật Di Lặc là vị Phật Tương Lai sẽ hiện thân xuống trong Hội Long Hoa và khi đó thì thế giới mới có hòa bình và hạnh phúc thật sự mới đến với nhân loại.

Ước mơ của thầy là được xuất gia nương nhờ cửa Phật để theo chân Đức Phật Tổ, nhưng quốc gia đang trong thời chinh chiến nên thầy đành tuân theo luật pháp, tạm gác việc tu hành để làm tròn bổn phận của người dân.
Chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung lúc đó là Thiếu Tá Trần Tử Oai một hôm nằm mộng thấy một vị Bồ Tát hiện xuống với ánh sáng chói lòa mà ông nghĩ rằng đó là Đức Phật Bà Quán Thế Âm. Ngài nói rằng trong tay Thiếu Tá đang có một viên ngọc quí và hiếm, hãy cho người đó được trở lại cuộc sống tu hành và cho về trụ trì ngôi chùa bỏ hoang kia thì sẽ được nhiều phước đức.

Buổi sáng khi thức dậy Thiếu Tá Oai vẫn còn ghi nhớ như in giấc mộng thần linh tối hôm qua nhưng bán tín bán nghi nên bèn kêu viên sỹ quan phụ tá tìm xem thử trong đám người mới nhập trại có ai tên là Minh Tâm hay không.

Sau khi được xác nhận là có một vị đại đức tên họ tục danh như vậy, ông bên cho kêu vào để gặp mặt. Khi thấy Đại Đức Minh Tâm với khuôn mặt hiền hòa và từ con người của thầy như toát ra một cái gì thật là nhân hậu thì ông nổi giận và gọi viên Trung Úy vừa thì hành xong nhiệm vụ đưa các tân binh vào Trung Tâm để thi hành nghĩa vụ quân dịch và khiển trách viên sỹ quan này sao lại bắt một người tu hành như vậy.

Đại Đức Tâm liền được thả ra khỏi trại lính và được đưa qua trụ trì chùa Thới Bình để thầy từ nay sẽ lo vấn đề đạo pháp cho các tân binh và sỹ quan tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.

Từ khi thầy về trụ trì thì ngôi chùa Thới Bình được tu sửa quét vôi lại và dân làng chung quanh lại được nghe tiếng tung kinh gõ mõ và tiếng chuông chùa ngân vang mỗi khi chiều xuống.

Chẳng bao lâu sau thì Chùa Thới Bình trở thành một ngôi chùa được nhiều thiện nam tín nữ kể cả các tân binh quân dịch đến thăm viếng, nhất là những ngày Rằm và Lễ Tết trong năm. Bên cạnh chánh điện là một căn phòng nhỏ được thiết trí thành một nơi để thờ vong linh những người quá cố.

Dân làng bên và ngay cả một số gia đình từ Sàigòn cũng đem ảnh thân nhân quá vãng của họ đến để tại chùa để mong thân nhân họ được nghe kinh kệ và sớm siêu thoát.

Thế rồi trong Trung Tâm bỗng xôn xao vì một tin là nhiều tân bình quân dịch thường hay bị quấy phá ban đêm khi đang say ngủ bởi những ma nữ dấu mặt.

Các tân binh thường vẫn ngủ chung với nhau trên những sạp bằng ván gỗ trong những lán trại, nhiều người trong đêm bỗng giật mình thức giấc vì có những bàn tay lạnh toát đang kéo giật chân mình hay đầu tóc họ hoặc phà hơi lạnh vào gáy của họ.

Gọi là ma nữ dấu mặt vì nhiều tân binh khi tỉnh dậy thì đều thấy giống nhau là có hai bóng người nữ mảnh mai trắng toát đi lướt ngang qua nhưng không nhìn rõ được mặt của họ.

Tin nầy loan truyền đến tai của vị chỉ huy trưởng trung tâm nhưng ông cho rằng các tân binh ban ngày luyện tập nhiều quá và mỏi mệt nên đêm thường ngủ mộng mị như vậy mà thôi chứ làm gì có ma quái nào. Có tân binh đem chuyện ma nữ nhát họ qua kể cho thầy trụ trì chùa Thới Bình nghe và hỏi ý thầy thì thấy thầy nghe rất là chăm chú và có vẻ trầm ngâm như đang suy nghĩ và đối chiếu một điều gì.

Sự việc đó lại xảy ra lần nữa nhưng không phải trong trung tâm mà ngay tại chùa Thới Bình.

Một buổi tối lúc trời đã khuya rồi, và thầy Tâm đang cùng một chú tiểu nữa đang ngồi trong chánh điện để tụng kinh niệm Phật thì thấy nghe như gió thoảng qua từ phía cuối sân chỗ cây đa cổ thụ và cái giếng nước có tiếng ai đang than khóc thảm thiết và tiếng những miếng gach đá ném lên nóc chánh điện.

Thầy từ từ đứng dậy và khoác trên vai một miếng vài thô có dệt những sợi chỉ ngũ sắc mầu lóng lánh và một tay cầm chiếc roi mây và tay kia lần chuỗi hạt bước ra cửa và hướng về phía giếng nước.

Thầy thấy hai bóng trắng vừa vụt chạy như bay quanh miệng giếng và quanh cây đa và vừa liệng mấy miếng gạch đá nghe loảng xoảng lên nóc chùa.

Thầy chợt quắc mắt lên và chỉ roi mây về phía hai bóng trắng:

-Các người có khôn hồn thì lại đây nghe ta dạy bảo, không được phá phách như vậy!

-Ta nói các người có nghe không? Các người ở đâu và cớ gì đến chùa phá phách?

Hai bóng trắng như khựng lại một lúc rồi vụt bay tới quỳ xuống dưới chân thầy và gục đầu khóc nức nở.

-Chẳng hay các ngươi có điều gì oan ức nói cho ta nghe. Có phải các ngươi là thủ phạm quậy phá giấc ngủ của các tân binh bên trung tâm hay không? Tại sao các người dám lộng hành như vậy?

-Bạch thầy đúng là chúng con đã chọc phá họ nhưng vì chúng con bị giết quá ư là tàn nhẫn và oan ức cho nên chúng con không siêu thoát được và cứ phiêu dạt bao nhiêu năm nay cho nên mới tìm người quậy phá cho vơi đi niềm u uất trong lòng.

-Hay kể cho ta nghe thì ta sẽ giúp cho còn nếu cứ khuấy động lên như vậy thì chiếc roi này không tha cho hai ngươi đâu nghe chưa?

-Thưa thầy câu chuyện rất dài nhưng chúng còn vì kính trọng đạo đức của thầy nên xin nhờ thầy giúp cho sớm được siêu thoát nếu không chúng con sẽ không bao giờ ra khỏi được nỗi khổ nhục nầy.

Nguyên chúng con là hai chị em trong thôn Hai của làng bên kia cánh đồng, cách đây gần tám năm trước có việc phải đi ngang qua khu trại lính Lê Dương này vào buổi chiều sắp tối thì bị bọn chúng bắt giữ vào trong trại và hãm hiếp hai chị em con cho đến chết rồi ném xác xuống chiếc giếng kia và đổ gạch đá phủ kín giếng nước từ đó.

Gia đình đã đi tìm kiếm khắp nơi và có xin vào cả trại này hỏi thăm nhưng đâu ngờ xác con mình đang nằm dưới giếng sâu kia. Nỗi oan ức và nhục nhã này chúng con cứ mỗi đêm gào thét mãi mà không sao vơi được.

-Hai người nữ tên họ là gì, con cái nhà ai và ở đâu? nếu nói đúng, ta sẽ tìm cách đưa về chùa và sẽ cầu siêu giải oan cho. Thật là oan nghiệt!

-Bạch thầy, chúng con ở nhà gọi là cô Hai và cô Ba, con ông bà N. V. Ng. trong thôn Hai.

-Được rồi! Để mai ta sẽ nhờ người đào giếng xem sao đã.

Hai bóng trăng không còn than khóc nữa và vụt chạy như bay về phía giếng nước và biến mất.

Sáng hôm sau, thầy Tâm bèn qua bên trung tâm và xin gặp vị chỉ huy trưởng để trình bày sự việc và xin một số binh sĩ qua đào giếng để xem sự thật có đúng như hai hồn ma nữ thuật lại hay không.

Chiếc giếng nước này khi thầy về trụ trì thầy thấy nó rất lạ với đường kính rộng đến gần hai thước nhưng lại cạn khô và phủ đầy đất đá và gạch vụn lấp lên đến gần một phần tư của chiều sâu của nó.

Một mặt thì thầy sai chú tiểu vào thôn Hai hỏi dò xem có gia đình nào họ tên như vậy không. Buổi chiều hôm đó có hai ông bà dáng người khắc khổ, chống gậy vào chùa và xin gặp thầy trụ trì.

Lúc đó toán lính đang đào bới đến đáy giếng thi lòi ra hai bộ xương người. Khi đem hai bộ xương với những mảnh vải còn sót lại lên trên mặt đất thì hai ông bà già từ thôn Hai đến đã nhận ra ngay là hai đứa con gái của mình đã mất tích tám năm về trước.

Hai ông bà già nắm lấy tay thầy Tâm mà nước mắt tuôn rơi trên hai khuôn mặt mà những khổ đau đã in hằn lên những vết nhăn của năm tháng.

Hai người con gái xấu số đó cuối cùng đã được yên nghỉ trong cái nghĩa trang nhỏ bé của thôn Hai bên cạnh giòng suối có nước chảy róc rách ngày đêm.

Gia đình đã nhờ người vẽ lại chân dung hai người con và đem qua chùa nhờ thầy để trong căn phòng nhỏ thờ vong để được nghe kinh kệ và sớm siêu thoát.

Từ đó trong trung tâm huấn luyện không còn cảnh ban đêm ma nữ chọc phá các tân binh quân dịch nữa. Chùa Thới Bình nằm trong phạm vi của trung tâm và được các tân binh theo đạo Phật thương yêu gọi là ngôi chùa của Trung Tâm.

Qua thập niên sáu mươi, nhờ công đức đóng góp của các Phật tử, thầy Thích Thiện Chánh này là Thượng Toạ đã xây xong một ngôi chùa mới là chùa Thới Hòa nằm trên đường Quang Trung, Quận Gò Vấp. Thầy rời chùa Thới Bình giao lại cho một vị sư khác trụ trì và về trông coi ngôi chùa Thới Hòa cho đến sau tháng Tư năm 1975 khi Cộng Sản vào xâm chiếm Miền Nam thì thầy Tâm và các vị sư trong Nha Tuyên Úy Phật Giáo thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị bắt đi cải tạo tập trung.

Thầy và thầy Thích Thành Long, quyền giám đốc nha Tuyển Úy, cùng các vị Đại Đức, các Linh mục và Mục sư khác được thả ra khỏi trại Ba Sao, Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh sau mười ba năm giam giữ.

Khi trở về chùa Thới Hòa thì ngôi chùa này đã tan hoang chỉ còn cái xác chùa. Thầy ra sức tu sửa lại và từ chối ra đi theo chương trình Nhân Đạo của Hoa Kỳ (HO: Humanitarian Operation) để ở lại với ngôi chùa thân yêu của mình cũng giống như tháng Tư năm 1975, thầy đã từ chối rời bỏ Sài gòn để qua Hoa Kỳ theo chương trình di tản của sứ quán Mỹ.

Ngôi chùa Thới Hòa đã được trùng tu trở lại và bắt đầu có đông đảo các Phật tử đến thăm viếng như xưa sau năm năm thầy trở về nhưng đó cũng chính là lúc mà thầy viên tịch, rời bỏ chốn hồng trần này để trở về với cõi vĩnh hằng.

Phạm Gia Đại


SUỐI THƠ

"Xuân xanh ngày chớm phai tàn,
Hòang hôn trên suối mãi vàng vàng hoe"
( Bùi Giáng- Dòng suối giải oan )

Ánh lên một cọng cỏ ngời
Bờ xanh ruộng chữ rối bời ngã xiêu
Múa điên hát khúc phiêu diêu
Bài thơ lục bát khóc điều dở ương

Ai người lạc bến Tiền đường
Xuôi chân Thi sĩ cũng đường đột theo
Em còn chút vốn truông đèo
Hương ta mê muội phận bèo bọt, sa

Bây giờ về núi cùng hoa
Vui em tứ xứ xé tà áo trăng
Giải oan. Cát bụi. Giải oan
Tâm ma Thần mị cuộn tràn suối thơ.

Hồng Băng

 XIN ĐƯỢC LÃNG QUÊN

Xuân sắc thì từ lâu lãng quên
Bổng nhiên nhắc lại, nỗi buồn lên!
Ngày xa xưa đó người đành nỡ
Phụ bạc tình! Đời tôi đảo điên!

Tạo hoá thường tình chuyện nắng mưa
Tình yêu đang đẹp bổng lưa thưa
Theo cơn khát vọng thay nhan sắc
Của kẻ trăng hoa mấy chẳng vừa!

Tàn nhẫn gây ra gãy đổ duyên
Hôm nay lại nhắc chỉ buồn thêm.
Trời ơi ác quá!  Ai có biết?
Xin để nỗi đau vào lãng quên.

Anh Tú (CL)
December 31, 2012


CẢM TÁC BA HÒN

Ba Hòn Cò, ba hòn cò !
Biển bờ, hòn nhỏ nét thơ yên lành
Non xanh, biển cũng biếc xanh
Núi rừng, phố mới thêm xinh quê nhà
Cánh cò bay trắng xa xa
Ráng chiều rực đỏ kết hoa quanh hòn
Ly rượu ngọt, hương rừng thơm
Say không men rượu?, say hơn tình người
Ta về đây, Ba Hòn ơi !
Cánh cò ngày ấy chơi vơi phương nào
Cò xưa giờ ở nơi đâu
Ba hòn còn đó bạc đầu chẳng quên. . .


Giá Khê
Ba Hòn 2/6/2007
HẠNH PHÚC XÓT XA

Gặp gỡ em khi hè nhạt nắng
Lúc em vào độ tuổi tròn trăng
Mắt ngước ngây thơ nhìn phấn bảng
Tay búp măng em tập viết văn.

Sớm mai cùng nắng đi vào lớp
Duyên dáng chập chờn e ấp đi
Rạng ngời cười nụ răng ngà ngọc
Đẹp làm sao thiếu nữ xuân thì!
.
Học kỳ dang dở đành rời lớp
Bỏ trường quê quận lẻ sau lưng
Phút giã từ đôi mắt lệ rưng
Em khóc tại sao tôi chẳng rõ.

Phấn và bảng nhuốm buồn từ đó
Thời gian qua kỷ niệm phôi pha?
Ly biệt nhau khi vừa gặp gỡ
Phải chăng là hạnh phúc xót xa?

Anh Tú

December 20, 2010

2014/02/19

NẾU CÓ KIẾP SAU, ANH SẼ KHÔNGYÊU EM NỮA!


Cảm Xúc Photo_Internet
Tình yêu thật sự có phải là khi ta sẵn sàng cho đi, không đòi hỏi ở kiếp này và cả kiếp sau?
Anh gặp em lần đầu trong ngày khai giảng. Em đứng đó vui cười với đám bạn, mải mê làm đổ cốc coca lên váy trắng. Ngượng ngùng anh đưa em áo khoác che vết loang. Giây phút ấy em mãi không quên.
Bốn năm đại học, em muốn giúp anh nhiều lắm, muốn cuộc sống anh đỡ vất vả vì phải vừa học vừa làm. Đưa tiền anh đâu có nhận, anh nói anh không làm được cho em thì thôi...
Tốt nghiệp, đáng lẽ chia tay, chỉ là tình yêu thời đại học thôi mà. Nhưng em đã quyết định theo anh. Gia đình em phản đối quyết liệt, nhưng em vẫn chọn cho mình người đàn ông của cả cuộc đời
Nên vợ nên chồng, về quê sống trong căn nhà tồi tàn của anh. Rồi em mang thai, nhiều khi trái gió trở trời người đau ê ẩm. Anh thương em, đông cũng như hè đi làm kiếm thêm tiền nuôi vợ
Thế rồi trong một tai nạn xe, anh liệt đôi chân. Nằm một chỗ ở nhà, tất cả mọi việc đều trông cậy vào em. Bố mẹ em thương đến đón em về nhưng em từ chối. Chữa bệnh cho anh em bán hết mọi thứ trong nhà, cuối cùng cũng hết. Bố mẹ em thấy con khổ lại cho tiền.
Cứ thế cuộc sống nghèo ở một vùng quê, em làm giáo viên, anh nằm nhà viết sách. Em đã trút bỏ hình ảnh lá ngọc cành vàng năm nào để trở thành người vợ đảm đang. Đi chợ mặc cả, quần áo bình thường, cân đo đong đếm còn tốt hơn những người phụ nữ khác.

Anh nhìn em khóc: Nếu còn có kiếp sau, anh sẽ không bao giờ yêu em nữa, em quá khổ vì anh.Bác sĩ bảo chồng bà không còn đi được nữa, nhưng em không tin, hàng ngày vẫn bóp chân cho anh , hi vọng một phép màu sẽ đến. Ngày ấy em nghe có một bác sĩ châm cứu giỏi. Em đèo xe 50km đưa anh đi châm cứu hai ngày một lần không kể ngày nắng ngày mưa ngày lạnh ngày nóng
Một năm sau phép màu đến thật, chân anh hồi phục cũng là lúc anh nhận được giải thưởng quốc tế từ những cuốn sách anh viết. Không ai nghĩ sẽ có ngày hôm nay
Rồi họ mời anh sang Pháp thuyết trình ba năm, anh do dự, em nói: phải đi, cơ hội không đến hai lần.
Nhìn lại quãng đời, em đâu còn trẻ đẹp như xưa... Chồng, con, vất vả, thân hình gầy gò ốm yếu. Pháp là đất nước của tình yêu, nhiều người nói anh đi sẽ không trở lại. Em chỉ mỉm cười đáp lại: em và anh đã trải qua bao nhiêu sóng gió, vì một việc thế này em không sợ mất anh.
Ba năm sau anh về, không báo trước, muốn dành cho em một sự bất ngờ. Nhưng vừa xuống xe anh đã thấy em đứng đó. Anh hỏi sao biết anh về mà ra đón, em trả lời: Em chờ ở đây mỗi ngày, chỉ cần thấy xe từ sân bay về là em không bỏ qua chuyến nào.
Anh chỉ khóc mà nói: Nếu còn có kiếp sau, anh sẽ không bao giờ yêu em, tình yêu của em làm anh đau lắm đau lắm, tình yêu của em quá nhiều khổ đau...
Em đáp trả lời anh: tình yêu luôn luôn là khổ đau cay đắng. Tình yêu như một bông hoa sen, hoa sen đẹp nhưng nó có cái nhụy sen, hạt sen rất đắng.
Nếu còn có kiếp sau, em sẽ vẫn muốn được yêu anh!


Vô danh / Sưu Tầm

EM ĐÃ SAY RỒI...ANH CÓ HAY?




Thuở mới quen nhau em thẹn thùng 
Anh hò hẹn rủ mộng tình chung 
Em e thơ vụn anh nhàm chán 
Nhưng lỡ yêu thơ … nén ngại ngùng! 

Anh gởi gió mây lời nhớ thương
Khóa tim em lại ngàn tơ vương
Giữ hồn em điện cung hoàng cát 
Trải lối em đi thảm cỏ hương 

Anh kẽ mày em nét liễu buồn
Viền đôi mắt biếc tím hoàng hôn
Thoa hương phấn ửng hồng đôi má 
Tô điểm bờ môi thắm phượng son

Anh hát ru em giấc mộng dài 
Lời yêu tình tự nhẹ êm tai 
Nâng ly mật ngọt anh mời rót 
Chưa uống cạn vơi..  hồn đã say! 
  
Yên Dạ Thảo
21.07.2011

2014/02/18

 CHA TRƯỚC MẸ SAU

Mười lăm tháng năm
Rực rỡ trăng rằm
Nước rong chảy xiết
Cha đi biền biệt không về.

Dâu bể cuộc đời
Mẹ buồn lệ rơi
Sáng chiều héo hắt
Lòng đau quặn thắt héo hon.

Quần vận áo xăn
Âm dương cách ngăn
Mấy mươi năm chẳn
Cô đơn thăm thẳm đường dài.

Tháng bảy mẹ đi
Làm cánh chim di
Lạc đàn tìm bạn
Mẹ cha phiêu lảng phương nào?

Cha trước, mẹ sau
Để lại niềm đau
Cho con côi cút
Nhớ thương đau nhức suốt đời.

Anh Tú
February 18, 2014



QUÁN BÊN ĐƯỜNG

Tôi khách qua đường trưa nắng gắt
Nghỉ nhờ đây quán lệchtường siêu
Giàn mướp nghèo không hứa hẹn bao nhiêu
Mùa gạo đắt, đường xa thưa vắng khách.

Em đắp chăn dầy tóc em trĩu nặng
Tôi mồ hôi ra ngực áo chan chan
Đường tản cư bao suối lạ hương ngàn
Em mê sảng, sốt hồng lên má đỏ

Em có một mình nhà hoang vắng quá
Mảnh chăn đào em đắp có hoa thêu
Hàng của em chai lọ sác sơ nghèo
Tôi nhìn lại mảnh quần xưa đã vá

Tôi chợt nhớ chúng ta không nhà cửa
Em tản cư, tôi là lính tiền phương,
Xa Hà Nội cùng nhau từ một thuở
Lòng rưng rưng thương nhau qua dọc đường.

Tiền nước trả em rồi, nắng gắt
Đường xa xa mờ mờ núi và mây
Hồn lính vương qua vài sợi tóc
Tôi thương mà em đâu có hay.

Quang Dũng

2014/02/16

LÁ VÀNG NGU NGƠ

Chiều thơ-thẩn buồn đứng bên cửa sổ
Đắm nhìn trời xanh, mây trắng lững-lờ
Gió thu sớm lang-thang mang lá đổ
Những chiếc đầu mùa chao lượn ngu-ngơ!

Thân-phận lá và con người nào khác
Thả hồn trôi về lại thuở ấu-thơ
Thuở ấy màu hồng,hương thơm ngào-ngạt
Nay bạc đầu, hồn lẩn-thẩn, mắt mờ!

Có tiếng chim véo-von chuyền cây cỏ
Nét hè yêu còn lãng-vãng đâu đây
Như tim héo-hon chưa buồn đóng ngõ
Vẫn còn thương yêu ngày tháng..ngất-ngây!

Mỗi con người được một đời để sống
Với buồn vui, nước mắt lẫn nụ cười
Là chuyện bình- thường: chuyển mùa, sinh tử
Hãy để hồn rung-động với đất trời!

NHA
August 08, 2011
SAY

2014/02/15

TÌNH QUÊ

Trước sân anh thơ thẩn,
Đăm đăm nhạn trông về;
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê;
Gió chiều quên ngừng lại,
Dòng nước quên trôi đi...
Ngàn lau không tiếng nói
Lòng anh dường đê mê.
Cách nhau ngàn vạn dặm
Nhớ chi đến trăng thề.
Dầu ai không mong đợi,
Dầu ai không lắng nghe
Tiếng buồn trong sương đục,
Tiếng hờn trong lũy tre.
Dưới trời thu man mác
Bàng bạc khắp sơn khê.
Dầu ai trên bờ liễu
Dầu ai dưới cành lê...
Với ngày xuân hờ hững
Cố quên tình phu thê,
Trong khi nhìn mây nước
Lòng xuân cũng não nề...


ĐÂY THÔN VĨ DẠ*

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Hàn Mặc Tử
(Khoảng 1938)

Phổ nhạc: Phạm Duy
Trình bày:
                Dalena
* Hiện nay, bài thơ này được nhiều người cho là một kiệt tác của Hàn Mặc Tử và cũng là một trong những thi phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam hiện đại ( Ngữ văn 11 /Tập 2, Nxb Giáo dục, 2008, tr. 40)
Nguyễn Tất Nhiên
Đinh Cường vẽ

TRÚC ĐÀO
Chiều xưa có ngọn trúc đào
Mùa thu lá rụng bay vào sân em.
Chiều thu lá rụng êm đềm
Vàng sân lá đổ cho mềm chân em
Tại vì hai đứa ngây thơ
Tình tôi dạo ấy là ngơ ngẩn nhìn
Nhìn vằng trăng sáng lung linh
Nhìn em mười sáu như cành hoa lê
Rồi mùa thu ấy qua đi
Chợt em mười tám chợt nghe lạnh lùng
Thuyền đành xa bến sang sông
Hàng cấy trút lá tình đi lấy chồng
Chiều nay nhớ ngọt trúc đào
Mùa thu lá rụng bay vào sân em
Người đi biết về phương nào
Bỏ ta với ngọn trúc đào bơ vơ. 

Nguyễn Tất Nhiên

EM HIỀN NHƯ MA SOEUR

Đưa em về dưới mưa
nói năng chi cũng thừa
phất phơ đời sương gió
hồn mình gần nhau chưa ?

Tay ta từng ngón tay
vuốt lưng em tóc dài
những trưa ngồi quán vắng
chia nhau tình phôi thai
xa nhau mà không hay

(Hỡi em cười vô tội
đeo thánh giá huy hoàng
hỡi ta nhiều sám hối
tính nết vẫn hoang đàng!)

Em hiền như ma soeur
vết thương ta bốn mùa
trái tim ta làm mủ
ma soeur này ma soeur

Có dịu dàng ánh mắt
có êm đềm cánh môi
ru ta người bệnh hoạn
ru ta suốt cuộc đời

(Cuộc đời tên vô đạo
vết thương hành liệt tim!)

Đưa em về dưới mưa
xe lăn đều lên dốc
chở tình nhau mệt nhọc!

Đưa em về dưới mưa
áo dài sầu hai vạt
khi chấm bùn lưa thưa

Đưa em về dưới mưa
hỡi em còn nít nhỏ
chuyện tình nào không xưa ?

Vai em tròn dưới mưa
ướt bao nhiêu cũng vừa
cũng chưa hơn tình rụng
thấm linh hồn ma soeur.

NGUYỄN TẤT NHIÊN

Phổ nhạc: Phạm Duy
Trình bày: Duy Quang