2018/10/25

 

TIẾNG BUỒN TRONG THU

 

Quê hương mùa nước nổi

Sóng đưa thuyền về đâu

Dòng trôi xuôi trôi mãi

Sông đời hóa biển dâu

Tiếng rì rào sóng vỗ

Mưa thu đổ triền miên

Đọng buồn trên phiến đá

Trút giọt sầu trong đêm

Tiếng lòng rơi khe khẽ

Thu lắng nỗi buồn tênh

Sông thương miền kỷ niệm

Ngỡ ngàng bóng trăng chênh

Hiên khuya trời viễn xứ

Màn đêm dệt sương mù

Gió muôn chiều xa vọng

Tiếng ru buồn trong thu…


Yên Dạ Thảo

23.10.2018

 

2018/10/21

XUỒNG XƯA
Thơ: Anh Tú
Nhạc: Đỗ Hải
Trình bày: Thúy An
https://youtu.be/zfIF6nIBYQ8






XUỒNG XƯA

Dòng sông nhỏ với đôi bờ dừa nước
Cuộc đời tôi xuôi ngược nước lớn ròng
Làm bạn mù u, ô rô, rau mác
Vui ruộng đồng theo ngày tháng thong dong.

Xuồng ba lá là thuyền tình tôi đó
Dành cho người thương neo bến sông
Sáng mong chim quyên hót mừng ngày mới
Chiều trông bìm bịp tin nước lớn ròng.

Sông lăng tăng sóng khi luồng gió thoảng
Xuồng lắc lư vì gỏ nhịp tôi ca
Hoa mua tím trải thảm đầy trước mủi
Chờ người trăm năm chân ngọc gót ngà.

Em đã đến vào một ngày nắng hạ
Dáng đơn sơ trong cánh áo bà ba
Thương thương lắm chiếc xuồng ba lá
Tình quê hương đầy ắp những mùa qua.


2018/10/16



HƯƠNG QUÊ

Bông bần trắng rụng đầy ghe
Trên cây đom đóm lập loè đêm đen
Đôi bờ nhà đã lên đèn
Năm canh cửa khép hờ ... then không gài

Dạ lý trước ngõ gió lay
Ngạt ngào hương thoảng thoáng bay khắp vườn
Nhạc dế nỉ non ngoài nương
Hoà tiếng ếch nhái ruộng mương rộn r
àng

Nghiêu Thuấn bình dị xóm làng
Bà con cấy gặt chẳng màng nắng mưa
Trôi vào dỉ vảng xa xưa
Mỗi khi nhớ lại như vừa xảy ra!

Anh Tú
October 16, 2018
Trên đường bay LAX-JFK


CHÙM THƠ CẢM HỌA


-1-

THA HƯƠNG

Hoa rụng ven sông trắng cả hàng
Màn đêm đom đớm lập lòe tan...
Vài căn nhà nhỏ đèn leo lét
Chạnh lòng ai đó héo tâm gan

Mùi hương Dạ lý thoáng đâu đây
Vườn hoa trong tối tỏa thơm bay
Thêm vài âm điệu chàng ve tấu
Đưa người lữ khách đến cơn say...

Đường xa xa vắng vào thương nhớ
Bóng ngoại năm xưa mãi đợi chờ
Thôi hởi xa rồi quê ngày ấy
Thân nầy chi xá nỗi bơ vơ...


Trần Văn Mãnh
PARIS
19h21 17/10/2018


-2-

VEN SÔNG

Bình bát ven sông trái chín vàng
Bông bần rơi rụng xẽo kinh ngang
Ngoài xa nhấp nháy ngàn đom đóm
Leo lét đèn ai tận cuối vàm.

Dạ Lý bên rào hương thoảng qua
Quềnh oang ếch nhái tấu đồng ca
Nỉ non tiếng dế than trong gió
Khói đốt đồng ai phủ mọi nhà.

Nhớ thuở ngày xưa tắm dưới mưa
Thân thương nhà ngoại bóng hàng dừa
Quê hương nay dẫu xa vời vợi
Vẫn mãi trong tim đến cuối đời.


Trần Văn Dõng
SAIGON

October 17, 2018
Tặng Thầy LHA

-3-
NHỚ QUÊ

Dòng sông nước chảy ngược xuôi
Đưa con đò nhỏ tới lui sớm chiều
Bên bờ mấy mái tranh xiêu
Đèn dầu lấp lóe, ếch kêu sau nhà
Mùi hương Dạ Lý thoáng qua
Cạnh bên giàn mướp trổ hoa mượt mà
Mẹ chờ đun ấm nước trà
Canh bầu, tép luộc cả nhà cùng vui !
Từ khi binh lửa dập vùi
Bờ sông vắng lặng, quê tôi điêu tàn !

Tiền Ngọc Hương
CALIFORNIA
10/17/2018

-4-
QUÊ THẦY

Quê Thầy nhộn nhịp xuồng ghe
Rạch Mương xinh đẹp đêm về tối đen
Bến chiều đom đóm lên đèn
Xóm Tân Quy - nhà có then khỏi gài.

Cánh đồng chim mõi cánh bay
Bìm bịp gọi nước lắt lay sau vườn
Hương quê trong ngõ ngoài nương
Diều bay lơ lửng tình thương rộn ràng.

Đất lành chim đậu đình làng
Tân Long Hội nhớ - dịu dàng chiều mưa
Thầy ơi ! dĩ vãng ngày xưa

Trở về nguồn cội như vừa hôm qua !

Dương hồng Thủy
CẦN THƠ
18/10/2018

-5-
SẦU VIỄN XỨ

Tầng không ngắm cảnh nhớ quê hương
Dạ lý nồng thơm trải khắp đường
Dưới bãi cây bần bông trắng rụng
Trên bờ dế nhủi trỗi thê lương

Đêm nay ẩn hiện đèn đom đóm
Thấp thoáng ven sông đẹp khác thường
Ếch nhái cùng nhau hòa khúc nhạc
Vô tình gợi nhớ nỗi đau thương

Màu hoa phượng thắm rơi trên phố
Tuổi ngọc cùng Ta bước đến trường
Hoài niệm ngày xưa sầu viễn xứ
Năm nào trở lại để hồn vương.

Huỳnh Kim Nguyệt
HÀ TIÊN
20/10/2018

Kính tặng Thầy Hồng Ẩn và mong Thầy luôn khoẻ mạnh

2018/10/11

Hoa anh túc - giấc ngủ và cái chết

Hoa anh túc

Hoa anh túc, còn có tên là a phiến, thẩu, trẩu hay Nàng tiên theo cách gọi của người Tày, tên tiếng anh là Poppy, tên khoa học là Papaver somniferum. Khi nhắc đến cái tên này chắc hẳn rất nhiều người sẽ biết nó là cái gì, tên tuổi của hoa anh túc thường gắn liền với loại chất gây nghiện cho con người là bạch phiến (heroin). Nhưng người ta cũng không thể phủ nhận rằng Anh túc là một loài hoa đẹp.

Cây hoa anh túc 

Hoa anh túc - 2
Cây hoa anh túc
Cây hoa anh túc
Hoa anh túc phân bổ đồng đều ở các vùng ôn đới và cận nhiệt đới. Phần lớn hoa này là dạng cây thân thảo, chỉ có số ít là thân bụi và thân gỗ.
Thân anh túc cao từ 1-1.5m, thường được gieo trồng vào mùa đông và được thu hoạch sau đó khoảng 3 tháng. Loại hoa này có thể sống ở những rất cao, vậy nên chúng có thể sinh trưởng trong những môi trường rất đa dạng về điều kiện sống. Giống hoa này cực kỳ đặc biệt vì nó không như các loài hoa khác, bông hoa của anh túc có thể có nhiều màu trên cùng một cây, trắng, tím, vàng, cam...Anh túc có nhiều loại dùng làm dược liệu trong y học.

Huyền thoại về hoa anh túc

Theo thần thoại La Mã, hoa anh túc được nữ thần nông nghiệp Ceres tạo ra để xoa dịu nỗi đau của mình bằng những giấc ngủ khi đi tìm con gái bị thất lạc là Proserpine.
Nữ thần Cerces & hoa anh túc
Nữ thần Cerces & hoa anh túc - hình vẽ trên một con tem
Hay như 2 vị thần khác trong thần thoại Hy Lạp là hai anh em sinh đôi Hypnos (Thần Giấc ngủ) và Thanatos (Thần Chết) cũng sử dụng cho mình hoa anh túc để trang trí vương miện.
Thanatos và Hypnos
Thanatos và Hypnos với những bông hoa anh túc (hơi ảo)

Ý nghĩa của hoa anh túc

Đúng như công dụng của nó, ý nghĩa của hoa anh túc mang nghĩa giấc ngủ thiên thu, sự lãng quên và khoái lạc :D. Vậy nên nó trở thành đối tượng để con người mãn những dục lạc, chốn chạy cuộc sống thực tại và quên đi bản thân cũng như cuộc đời. Các màu khác như anh túc đỏ biểu tượng cho sự phù du, anh túc trắng biểu tượng cho sự an ủi. Hoa anh túc còn mang một biểu tượng là hoa tình yêu.

Công dụng của hoa anh túc

Khi  nhắc đến công dụng của hoa anh túc, người ta không thể không nhắc đến việc sử dụng nó trong y học với công dụng chữa bệnh, Morphine và Codeine là hai loại thuốc giảm đau gây mê phổ biến được chiết xuất từ anh túc. Theo kinh nghiệm y học dân gian, mật ong hoa anh túc có tác dụng giảm ho.
Một công dụng nữa của hoa anh túc mang tính chất ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội là từ nhựa hoa anh túc, người ta tinh chế ra nha phiến rồi bạch phiến là một chất gây nghiện, có tác dụng gây ảo giác lên hệ thần kinh của con người. Khi sử dụng chất gây nghiện, thần kinh con người bị tác động mạnh, gây ra những ảo giác khiến thần kinh kích thích cực độ, kéo theo đó là sự suy giảm về nhận thức và đạo đức. Vì vậy, việc trồng hoa anh túc hiện nay đã bị cấm nhiều nơi trên thế giới.
Dù vậy, có một vài chi phần của hoa anh túc, ví dự như hoa mào gà có thể dùng làm hoa ngày tết, vì hoa mào gà có màu sắc đỏ rực rỡ và dễ trồng trên đất

Quả anh túc
Quả anh túc
Nhựa anh túc
Nhựa anh túc
Quả anh túc đã khai thác
Quả anh túc đã khai thác

Những cánh đồng hoa anh túc.

Hình ảnh những cánh đồng hoa anh túc bát ngát, dù rằng nó là loại hoa mang lại "giấc ngủ và cái chết" dưới bàn tay con người, thì không thể phủ nhận rằng hoa anh túc cũng có những vẻ đẹp của riêng nó :D.



 

 
 

Kết pic cuối :D.

P/SKhông thử MA TÚY dù chỉ một lần :P.
Nguồn:
Image may contain: sky, ocean, cloud, outdoor, water and nature
Ảnh: CHIỀU XƯA _Nguyễn Hoàng Trung
BẠN TÔI.*

Nắng chìm xuống dòng Cữu Long
Có hai bạn học voi sông hóng chiều
Đón chờ cơn gió hiu hiu
Để tìm đôi phút phiêu diêu an bình.

Thì thầm tâm sự học sinh
Tương lai lý tưởng tình xinh mộng đời
Tin rằng đôi bạn khó rời
Không ngờ chia rẽ hai nơi ngõ đường.

Sau những phong ba nhiễu nhương
Gặp bạn hãnh diện say hương chiến trường
Tôi lặng im trong đau thương
Nước non rồi sẽ về phương trời nào ?!

Thời gian thắm thoát qua mau
Bạn tôi gặm nhắm nỗi đau đổi dời
Như thuyền lạc hướng chơi vơi
Tự hỏi sai, đúng đoạn đời vừa qua!

Quê hương phải đành rời xa
Xứ người tôi đến, quê nhà... bạn đâu?

Anh Tú
October 10, 2018
*Để nhớ đến một bạn học rất thân tại Xóm Bún thuộc Phố thị Vĩnh Long trong thập niên 1950-1960.

2018/10/10



CHIỀU HÔM

Thì thôi buỗi sáng đã qua
Thì thôi tất cả chỉ là phù vân
Chung quy cũng chỉ Một Lần
Còn gì ngoài những dấu chân nhạt nhòa

Hiện tại vừa thoáng đã qua
Có ai níu được bóng tà chiều hôm
Chiều hôm bóng tối đầy hồn
Bàn tay lạnh giữa hoàng hôn lạc loài

Lời tình không cánh vụt bay
Trời hoang mang gió bão ngoài chân mây
Giữa đời có ai, còn ai
Mơ hồ để bóng trải dài trăm năm

Khánh Hà

2018/10/09


LẦN TRỞ LẠI 

Đã vào tháng mười, cảm nhận của người sống ở vùng Đông Bắc Hoa Kỳ,khi đến đây thì vùng Los Angeles như chưa vào thu. “Tháng mười chưa cười đã tối”, nghĩa là ngày vắng đêm dài thì nơi này cũng thế cho nên sáu giờ sáng trời còn tối âm u, và tín hiệu thu có lẽ là nhiệt độ gai gai lạnh.
Có dịp trở lại nơi này lần thứ tư khi thăm con cháu, đa phần niềm vui cũ vẫn còn tìm thấy. Sự đổi thay theo thời gian là quy luật của cuộc đời, thay đổi theo từng đơn vị nhỏ nhất của thời gian, mà ta còn tìm thấy đôi điều ngày cũ là một hạnh phúc to lớn.

Khoảng thời gian vài năm thì sự đổi thay về cảnh vật không nhiều, nhưng có đôi điều đổi thay làm tôi nhói lòng; tôi muốn nói về những bạn già quen biết cư ngụ tại Nam California này. Năm nào tôi đã đến thăm, tay bắt mặt mừng, những cái ôm với bàn tay vỗ nhẹ vào vai ấm tình bằng hữu, những hàn huyên về kỷ niệm vui buồn nay đã không còn:
-Ông bà cựu hiệu trưởng trường Tống Phước Hiệp Vĩnh Long, thầy Đào Khánh Thọ và cô Võ Thị Ngọc Dung, nay đã mất theo cái tên thân yêu và cơ ngơi ngôi trường.
-Hôm qua, ngày 8 tháng 10, 2018, tôi đến khu Phước Lộc Thọ của Sài Gòn Nhỏ, ngậm ngùi nhìn lại điểm hẹn mà tôi đã gặp anh chị Nguyễn Văn Ca, người anh cũng là người bạn tù “cải tạo” 1976 tại trại tù Long Khánh, Trà Vinh nơi chúng tôi đã chia nhau niềm đau và tủi nhục; ngậm ngùi vì gặp anh năm 2011 thì khoảng hai năm sau anh trở thành “người thiên cổ”.

Vẫn biết con người sinh tử là lẽ thường nhưng trời lại cho con người có tình cảm nên kẻ còn ở lại phải đau đáu nhớ thương người vĩnh viễn ra đi.

Hôm nay có vài dòng hồi tưởng như nén nhan gởi đến ông bà Đào Khánh Thọ và anh Nguyễn Văn Ca.

Anh Tú / Lê Nguyễn Hồng Ẩn
October 09, 2018

*Thăm Ông Đào Khánh Thọ và bà Võ Thị Ngọc Dung năm 2011 tại nhà của ông bà.
ẨN, THỌ, DUNG, VÂN
**Tái ngộ anh Nguyễn Văn Ca năm 2011 trong thương xá Phước Lộc Thọ.
Anh chị CA, ẨN, VÂN

2018/10/07

HƯƠNG XƯA *

Em về bên ấy xa xôi lắm
Bỏ lại nơi này bao nhớ mong
Lặng lờ con nước đôi dòng chảy
Thoang thoảng mùi hương hoa bưởi nồng.

Nắng đổ lưa thưa chiều ngã bóng
Đâu rồi, chẳng thấy dáng thu xưa
Ánh mắt mênh mang tình dịu vợi
Chập chùng vương vấn...những đêm mưa!

Bến vắng đôi bờ như đã xa
Chuyện ngày xưa ấy tưởng hôm qua
Người đi mấy bận...về mấy bận
Cây bưởi ngoài sông mấy lượt hoa?

Chiều nay trở lại khúc sông quê
Cô gái ngày xưa chẳng hẹn thề
Mà sao nhớ lắm bờ vai nhỏ
Tôi nhủ lòng tôi...có ngủ mê!

My Nguyễn
Tháng 10/2016
*Cảm tác khi đọc bài thơ "Cô Gái Quê" của Nguyễn Văn In:


CÔ GÁI QUÊ

Nhà em sau bóng dừa râm mát
Thoang thoảng mùi hoa bưởi đậm đà
Tôi ở bên nầy sông tắm nắng
Đợi gió về ngan ngát hương qua

Vầng trăng mấy độ in màu áo
Bến vắng tình riêng chốn hẹn hò
Bờ vai nghiêng tựa đời rộn rã
Gió cũng theo mây mãi đợi chờ

Mai em xa xứ buồn biết mấy
Đau xé lòng tôi buổi tiễn đưa
Nước vẫn vô tình cuồn cuộn chảy
Trong tôi trời cũng đổ cơn mưa

Em đi lúa trỉu xanh đồng mới
Hoa đỏ ôm chân hẹn bước về
Dừa nghiêng theo gió đùa tóc rối
Nỗi nhớ đùn đưa cô gái quê

Em đi bỏ lại dòng sông nhỏ
Bỏ lại sau lưng nửa vầng trăng
Bỏ lại nửa bờ vai hiu quạnh
Nửa mảnh hồn vương theo khói giăng.

nguyenvanin
Otober 1, 2016

2018/10/05


Bình Ngô Đại Cáo


Bình Ngô (0) Đại Cáo
Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết
Cái văn Nhân nghĩa chi cử yếu tại an dân điếu phạt (1) chi sư mạc tiên khử bạo Duy ngã Đại Việt chi quốc thật vi văn hiến chi bang Sơn xuyên chi phong vực kí thù nam bắc chi phong tục diệc dị Tự Triệu Đinh Lí Trần chi triệu tạo ngã quốc dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương Tuy cường nhược thì hữu bất đồng nhi hào kiệt thế vị thường phạp

Tượng mảng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân; quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc lập; cùng Hán, Ðường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có. 

Cố Lưu Cung (2) tham công dĩ thủ bại nhi Triệu Tiết (3) hiếu đại dĩ xúc vong Toa Đô (4) kí cầm ư Hàm Tử quan Ô Mã(5) hựu ế ư Bạch Đằng hải Kê chư vãng cổ quyết hữu minh trưng

Vậy nên:
Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch-Đằng bắt sống Ô-Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng, 

Khoảnh nhân Hồ (6) chánh chi phiền hà Chí sử nhân tâm chi oán bạnCuồng Minh tí khích nhân dĩ độc ngã dân Ác đảng hoài giancánh dĩ mại ngã quốc (7) Hân thương sanh ư ngược diễm Hãm xích tử(8) ư họa khanh Khi thiên võng dân quỷ kế cái thiên vạn trạngLiên binh kết hấn nhẫm ác đãi nhị thập niên Bại nghĩa thương nhân càn khôn cơ hồ dục tứcTrọng khoa hậu liễm sơn trạch mĩ hữu kiết diKhai kim tràng tắc mạo lam chướng nhi phủ san đào saThái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải Nhiễu dân thiết huyền lộc (9) chi hãm tỉnh Điễn vật chức thúy cầm chi võng la Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kì sanhQuan quả điên liên (10) câu bất hoạch dĩ an kì sởTuấn sanh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt (11) chi vẫn nha Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ (12) Châu lí chi chinh dao trọng khốn lư diêm chi trữ dữu giai không Quyết đông hải chi thủy bất túc dĩ trạc kì ôKhánh nam sơn chi trúc (13) bất túc dĩ thư kì ácThần dân chi sở cộng phẫn thiên địa chi sở bất dong


Vừa rồi:
Vì họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán hận. Quân cường Minh đã thừa cơ tứ ngược, bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khoé, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả càn khôn, nặng khóa liễm vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống biển mò châu; nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc, nheo nhóc thay! quan quả điên liên! Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi.
Ðộc ác thay! trúc rừng không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay! nước bể khôn rửa sạch mùi,
Lẽ nào trời đất tha cho; ai bảo thần nhân nhịn được. 

Dư phấn tích (14) Lam Sơntê thân hoang dã Niệm thế thù khởi khả cộng đáithệ nghịch tặc nan dữ câu sanhThống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhậtPhát phẫn vong thực mỗi nghiên đàm thao lược chi thưtức cổ nghiệm kim tế thôi cứu hưng vong chi líĐồ hồi chi chí ngụ mị bất vongĐương nghĩa kì sơ khởi chi thìchánh tặc thế phương trương chi nhật

Ta đây:
Núi Lam-Sơn dấy nghĩa; chốn hoang dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù; thề sống chết cùng quân nghịch tặc. Ðau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang thịnh, 

Nại dĩ Nhân tài thu diệp tuấn kiệt thần tinh Bôn tẩu tiên hậu giả kí phạp kì nhân mưu mô duy ác giả hựu quả kì trợ Đặc dĩ cứu dân chi niệm mỗi uất uất nhi dục đông Cố ư đãi hiền chi xa thường cấp cấp dĩ hư tả (15)  Nhiên kì: Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch (16)  Phẫn hung đồ chi vị diệt niệm quốc bộ chi tao truân Linh Sơn (17)chi thực tận kiêm tuầnKhôi huyện chi chúng vô nhất lữ

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần; nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Ðôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông; mấy thuở đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả. Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt mù như kẻ vọng dương; thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch. Phần thì giận hung đồ ngang dọc; phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh sơn lương hết mấy tuần; Khi Khôi huyện quân không một lữ.

Cái thiên dục khốn ngã dĩ hàng quyếtnhậm cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan
yết can vi kì (18 manh lệ (19) chi đồ tứ tập; đầu dao (20) hưởng sĩ phụ tử chi binh nhất tâm Dĩ nhược chế cường hoặc công nhân chi bất bị dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kì

Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt phải trải qua bách chiết thiên ma, cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phấp phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi, quân giặc nhiều ta ít mà được luôn.

Tốt năng: Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tànDĩ chí nhân nhi dịch cường bạo Bồ Đằng (21) chi đình khu điện xiết (22)Trà Lân (23) chi trúc phá khôi phi Sĩ khí dĩ chi ích tăng quân thanh dĩ chi đại chấnTrần Trí San Thọ văn phong nhi sỉ pháchLí An Phương Chánh (24) giả tức dĩ thâu sanhThừa thắng trường khu Tây Kinh(25) kí vi ngã hữu tuyển phong tiến thủ Đông Đô (25) tận phục cựu cươngNinh Kiều (26) chi huyết thành xuyên lưu tinh vạn lí Tốt Động (27) chi thi tích dã di xú thiên niên Trần Hiệp (28) tặc chi phúc tâm kí kiêu kì thủ Lí Lượng(28) tặc chi gian đố hựu bạo quyết thi Vương Thông (28) lí loạn nhi phần giả ích phần Mã Anh (28) cứu đấu nhi nộ giả ích nộ Bỉ trí cùng nhi lực tận thúc thủ đãi vong Ngã mưu phạt nhi tâm công (29 bất chiến tự khuất Vị bỉ tất dịch tâm nhi cải lự khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô(30 Chấp nhất kỉ chi kiến dĩ giá họa ư tha nhân tham nhất thì chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ Toại lệnh Tuyên Đức (31) chi giảo đồng độc binh vô yếm nhưng mệnh Thạnh Thăng (32) chi nọa tướng dĩ du cứu phần

Dọn hay:
Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn; lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy; miền Trà-Lân trúc phá tro bay. Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần-Trí, Sơn-Thọ, mất vía chạy tan; Phương-Chính, Quý-An tìm đường trốn tránh. Ðánh Tây-Kinh phá tan thế giặc; lấy Ðông-Đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh-Kiều máu chảy thành sông, Bến Tụy-Động xác đầy ngoài nội. Trần-Hiệp đã thiệt mạng; Lý- Lương lại phơi thây. Vương-Thông hết cấp lo lường; Mã-Anh khôn đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bõ bày trò dở duốc. Ðến nỗi đứa trẻ con như Tuyên Ðức, nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy. 

Đinh Mùi cửu nguyệt Liễu Thăng (32) toại dẫn binh do Khâu Ôn (33) nhi tiếnbổn niên thập nguyệt Mộc Thạnh (32) hựu phân đồ tự Vân Nam nhi laiDư tiền kí tuyển binh tắc hiểm dĩ tồi kì phongdư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kì thựcBổn nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vi ngã quân sở công kế trụy ư Chi Lăng (34) chi dã Bổn nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vi ngã quân sở bại thân tử ư Mã Yên(35) chi sanNhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh (36) trận hãm nhi táng khunhị thập bát nhật thượng thư Lí Khánh (37) kế cùng nhi vẫn thủ Ngã toại nghênh nhận nhi giảibỉ tự đảo qua tương côngKế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vikì dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt

Năm Ðinh-Mùi tháng chín, Liễu-Thăng từ Khâu-Ôn tiến sang. Lại năm nay tháng mười, Mộc-Thạnh từ Vân-Nam kéo đến. Ta đã điều binh thủ hiểm, để ngăn lối Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang, để tuyệt đường lương đạo. Mười tám, Liễu-Thăng thua ở Chi-Lăng; hai mươi, Liễu-Thăng chết ở Mã-Yên. Hai mươi lăm, Lương-Minh trận vong; hai mươi tám, Lý-Khánh tự vẫn. Lưỡi đao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành; hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc. 

Viên tuyển tì hưu (38) chi sĩ thân mệnh trảo nha chi thần Ẩm tượng nhi hà thủy can ma đao nhi san thạch quyết Nhất cổ nhi kình (39) khô ngạc đoạn tái cổ nhi điểu tán quân kinh Quyết hội nghĩ ư băng đê chấn cương phong ư cảo diệp Đô đốc Thôi Tụ (40) tất hành nhi tống khoảnthượng thư Hoàng Phúc (41)  diện phược dĩ tựu cầm

Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn.
Ðánh một trận sạch không kình ngạc; đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô; tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
Thôi-Tụ phải quỳ mà xin lỗi; Hoàng-Phúc tự trói để ra hàng. 

Cương thi tắc Lạng Giang (42) Lạng Sơn chi đồ chiến huyết xích Xương Giang Bình Than (43) chi thủyPhong vân vi chi biến sắcnhật nguyệt thảm dĩ vô quangKì Vân Nam binh vi ngã quân sở ách ư Lê Hoa (44) tự đỗng nghi hư hát nhi tiên dĩ phá phủ Kì Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng vi ngã quân sở bại ư cần trạm toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân Lãnh Câu chi huyết xử phiêu giang thủy vi chi ô yết Đan Xá chi thi san tích dã thảo vi chi ân hồng Lưỡng lộ cứu binh kí bất toàn chủng nhi câu bạicác thành cùng khấu diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng
Lạng-Giang, Lạng-Sơn, thây chất đầy đồng; Xương-giang, Bình-Than, máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi. Thảm đạm thay! Sáng nhật nguyệt phải mờ.
Binh Vân-Nam nghẽn ở Lê-Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc-Thạnh tan chưng Cần-Trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh-Câu, nước sông rền rĩ; thành xương Ðan-Xá, cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu. 

Tặc thủ thành cầm bỉ kí điệu ngạ
hổ khất liên chi vĩThần vũ bất sát (45) dữ diệc thể thượng đế hiếu sanh chi tâmTham tướng Phương Chính Nội quan Mã Kì tiên cấp hạm ngũ bách dư tao kí độ hải nhi do thả hồn phi phách tán tổng binh Vương Thông tham chánh Mã Anh hựu cấp mã sổ thiên dư thất dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh

Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội. Thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã-Kỳ, Phương-Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực; Vương- Thông, Mã-Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi. 

Bỉ kí úy tử tham sanh nhi tu hảo hữu thành Dư dĩ toàn quân vi thượng nhi dục dân chi đắc tứcPhi duy mưu kế chi cực kì thâm viễn Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến vănXã tắc dĩ chi điện an san xuyên dĩ chi cải quanCàn khôn kí phủ nhi phục tháiNhật nguyệt kí hối nhi phục minhVu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơVu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉThị do thiên địa tổ tông chi linh hữu dĩ mặc tương âm hựu nhi trí nhiên dã!

Nó đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú phục; ta muốn toàn-quân làm cốt, cả nước nghỉ ngơi. Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang san từ đây mở mặt;
xã tắc từ đây vững bền. Nhật nguyệt hối mà lại minh; Kiền, Khôn, Bĩ mà lại Thái. Nền vạn thế xây nên chăn chắn; thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng giúp đỡ cho nước ta vậy. 

Ô hô! Nhất nhung đại định hất thành vô cạnh chi côngTứ hải vĩnh thanh đản bố duy tân chi cáoBá cáo hà nhĩhàm sử văn tri 

Than ôi!
Vẫy vùng một mảnh nhung y, nên công đại định. Phẳng lặng bốn bề thái vũ, mở hội vĩnh thanh.
Bá cáo xa gần,
Ngỏ cùng nghe biết. 

Nguyễn Trãi.

Nguồn: