2021/04/27


 NHÂN MỘT LỜI THĂM HỎI.

Là bạn cố tri, quen nhau từ những năm sáu mươi cùa thế kỷ trước tại Hà Tiên, dạo đó còn là thị trấn nghèo, u tịch nhưng rất giàu lòng thân thiện hiếu khách của dân địa phương dành cho những người trẻ vào đời tha phương cầu thực như chúng tôi, những thầy cô giáo mới tốt nghiệp từ các trường sư phạm ở Sài Gòn, Vĩnh Long, Cần Thơ..., một chị bạn, cô giáo T.V., là dân Hà Tiên chính hiệu thỉnh thoảng điện thoại cho tôi, và ngược lại, thăm sức khoẻ và chúc lành cho nhau.

Trong lần điện thoại hôm 25/4/2021, sau những lời thăm hỏi, đùa cợt vui như thường lệ, bất chợt chị hỏi thăm tin tức về anh Dư, một thầy giáo gốc Vĩnh Long mà ngày xưa ở trọ gần gia đình của chị để đi dạy học. Tôi đùa rằng chị đi tìm "cố nhân" phải không? Chị cười vang, nữa đùa nửa thật , là hồi ấy chị đã cố "đeo" anh Dư mà không "dính" nếu "dính" thì đâu tới phiên anh H., ông xã của chị bây giờ.

***

Anh D. là đồng hương cũng là đồng nghiệp của tôi. Chúng tôi, sau một thời gian làm việc tại Hà Tiên thì đều được trở về quê nhà, nhưng mạnh ai phần việc ấy cũng không có cơ hội gặp lại cho mãi đến biến cố 1975 xãy ra.

Đã 46 năm trôi qua mà sao mỗ̃i khi tháng tư hằng năm trở lại, hoặc có gì liên quan, thì những diển biến thời ấy vẫn không nguôi ngoai. Thời điểm chị bạn hỏi thăm tin tức về anh D. khiến tôi muốn chia sẻ câu chuyện sau:

Tù "cải tạo" của bên thắng trận dành cho phía bại trận là chuyện phổ biến ai cũng biết, nhắc lại mãi cũng nhàm chán và dù thế nảo cũng vẫn còn làm đau lòng mà tôi lại muốn nhắc hôm nay là vì nó có liên hệ đến anh D.

Theo tình hình và  sự biến chuyển của địa phương dạo ấy, mãi đến 1976, một nhóm 180 thầy giáo của hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh, trong đó có tôi và anh D., phải đi "học tập cải tạo tập trung" tức là đi tù không hơn không kém. Sau 3 tháng bị nhốt trong khám lớn Trà Vinh, chúng tôi được đưa đi lao động tại xã Long Khánh, một vùng duyên hải của Trà Vinh.

Ngoài chuyện hằng ngày đi  bờ đê cho việc nuôi tép, chúng tôi còn phải trồng trọt, hoặc đốn củi. 

Một hôm, có hai "chú bộ đội" dẩn khoảng 6 anh em tù, trong đó có D., vào rừng đốn củi đem về cho nhà bếp. Sau khi nhóm lên đường một thời gian ngắn thì trong hướng rừng có tiếng súng bắn, ban chỉ huy trại tù nói là súng báo động về việc gì đó, họ điều động thêm bộ đội tiếp viện, rầm rộ vào rừng. Sau đó, họ dẩn về 6 anh em tù, tay bị trói sau lưng, quỳ giửa sân trại. Họ tập trung toàn thể chúng tôi ngồi quanh 6 anh em ấy, bọn họ mắng nhiếc không tiếc lời, kết tội 6 anh em đi đốn củi muốn giết hai tên bộ đội hướng dẩn để trốn trại, và hăm he chúng tôi không được bắt chước. Tiếp theo, họ nhốt 6 anh em vào "chuồng cọp" và  khuya hôm sau họ chuyển anh em về lại khám lớn Trà Vinh. Chúng tôi ai ai cũng lo lắng chuyện gì sẽ dành cho các bạn mình?

Tại sao có tình huống này xảy ra? Tìm hiểu thì được biết là do sự khác biệt "trình độ học thức" của hai bên: mấy thầy giáo thích "nhân cách hoá mấy cây rừng" còn hai chú bộ đội thì mù tịt chuyện này. Số là sau khi dẩn các anh vào khu rừng, phân công xong thì hai chú bộ đội ngồi ...đâu đó; bổng nghe mấy anh giáo xầm xì bàn với nhau " hạ anh lớn này trước rồi sẽ hạ anh nhỏ sau" -ý nói" đốn cây lớn này trước rồi sẽ đốn cây nhỏ sau", hai chú bộ đội cứ tưởng mấy anh giáo to gan muốn giết chúng ... cho nên mới ra cớ sự.

Người ta nói trong "cái rủi còn có cái may". Sau này được biết trong nhóm 6 anh em đó có một người là con của tỉnh ủy, cha đi tập kết ra Bắc, con ở lại miền Nam làm thầy giáo đi Sỉ quan Thủ Đức rồi là Trung úy "ngụy" biệt phái. Do đó, tỉnh ủy cho điều tra và hiểu ra sự thật. 

Riêng phần anh D., trong thời gian này anh đột nhiên bị phát bịnh "bí tiểu" rất nguy cho tính mạng, nhờ gần bệnh viện tỉnh nên kịp chửa trị cho anh. Nếu anh còn ở trại tù xa tỉnh lỵ thì sẽ không rõ chuyện gì sẽ xảy ra cho anh?

***

Từ khi "ra tù", đường ai nấy đi và từ đó đến nay tôi đã không gặp hay nghe tin tức anh D. 

Tôi hứa với chị bạn sẽ cố gắng tìm hỏi bạn bè, nếu có kết quả sẽ cho chị biết.

Tôi nhắc lại chuyện này ở đây rất mong những anh chị em quen biết chúng tôi, có tin tức về anh Dư xin giúp cho.

Xin cám ơn trước.


Anh Tú <tức NHA>

April 27, 2021

2021/04/26

 NGUYỄN THANH THU, tác giả bức tượng Thương Tiếc

Ghi chép của NGUYỄN TUẤN KHOA

Miền Nam Việt Nam trước 1975 không ai không biết đến điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, tác giả bức tượng Thương Tiếc đặt tại nghĩa trang quân đội trên xa lộ Biên Hòa năm 1966. Chính đứa con mà ông yêu quý nhất này đã đưa ông lên đỉnh danh vọng để rồi đẩy ông xuống đáy địa ngục. Ký ức tháng Tư đen cùng câu chuyện 46 năm qua lời kể của thầy tôi – Nguyễn Thanh Thu – thật nặng nề và đầy xúc động.

Ký ức về thầy

Thầy Thu tuổi Quý Dậu (1934), dạy môn hội họa cho tôi, anh em tôi và những ai đã từng học tại Trung học Võ Trường Toản (VTT) từ năm 1958. Ông có dáng người chắc khỏe, tầm thước, đi dạy bằng xe Jeep cao màu xanh dương, mặc áo chemise trắng, đeo cravat đỏ luồn vào trong bụng dưới khuy áo thứ hai. Cá tính rất mạnh mẽ, nghiêm khắc, khó gần. Ông dạy học trò cầm bút chì theo kiểu cầm archer khi chơi violon. Ông dễ nổi nóng và đánh đòn học sinh nào cầm bút theo kiểu viết, dùng thước “vẽ” đường thẳng. Mỗi buổi học ông chọn ra hai-ba bài vẽ tệ nhất, dùng dây kẽm cột chổi để treo bài lên cổ người vẽ, bắt đứng trước lớp cho đến khi hết giờ. Nguyễn Minh Trí, bạn học của chúng tôi từ lớp 6-5 cũng là con trai của ông, thường xuyên bị đòn đau. Lớp tôi ai cũng thương nó vì nghĩ rằng nó chịu đòn thay cho cả lớp. Có lẽ nhờ sự nghiêm khắc của ông mà trình độ hội họa của chúng tôi lúc đó như “người khổng lồ” so với học sinh cấp II bây giờ?

Bức tượng Thương Tiếc
Bức tượng Thương Tiếc

Do nổi tiếng từ bức tượng Trung Liệt đặt tại Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp, ngày 22-8-1966, ông được Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia – Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu giao thực hiện bức tượng Thương Tiếc đặt tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Tượng ngồi, bằng bê-tông cốt thép, màu đen, uy nghiêm, cao 4 m. Nếu tính cả mô đất dưới chân người lính và bệ tượng thì chiều cao tượng đài là 8 m. Về bức tượng Thương Tiếc, ông kể rằng ông được Tổng thống Thiệu chọn thực hiện, từ việc thể hiện ý tưởng đến việc xây dựng tượng đài tại Nghĩa trang Quân đội.

Sau bảy ngày, ông được mời vào Dinh để trình bày năm phác thảo nhưng vào cuối buổi, ông nói phác thảo mà ông yêu thích nhất là phác thảo thứ sáu mới vẽ nháp trên bao thuốc lá Quân Tiếp Vụ trong khi chờ ngoài hành lang Dinh. Ý tưởng thứ sáu lấy từ hình ảnh của hạ sĩ Võ Văn Hai khóc bạn tại quán nước trước Nghĩa trang Quân đội cũ ở Gò Vấp mà ông nhìn thấy một tuần trước đó. Phác thảo thứ sáu được chọn và chỉ sau hai tháng rưỡi, bức tượng đồng Thương Tiếc cao 9 m hình thành, đưa ông lên đỉnh cao danh vọng ở tuổi 32 với sự kính trọng của giới chức và quân nhân thời đó. Tượng được khánh thành ngày Quốc Khánh VNCH 1-11-1966.

Trên không gian rộng thoáng, từ mọi hướng, người ta có thể nhìn thấy bức tượng cao, nổi bật trên nền trời xanh. Đó là người lính từ chiến trường về thăm mộ đồng đội, quân phục, ba-lô lấm bụi, súng trường gác trên hai đùi, lưỡi lê ngang hông, dây quai nón sắt buông thỏng như sợi buồn rơi vào cõi vô định. Anh ngồi thẫn thờ, đôi mắt buồn nhìn xa xăm, thương tiếc cho người bạn vừa nằm xuống. Bức tượng trong bối cảnh đó trở nên có hồn hơn và nhiều chuyện linh thiêng của bức tượng đã không ngớt lưu truyền trong dân chúng lúc đó.

Đỉnh danh vọng và đáy địa ngục

Tiếng tăm của điêu khắc gia Thu và các tác phẩm của ông đã vang xa khỏi quê hương. Ngày 20-7-1967, đại tá H.G. Fuller, thuộc Bộ Chỉ huy Lục quân Hoa Kỳ ở Việt Nam (USARV), gửi thư cho đại tá William P. Jones – Chủ Tịch Ủy Ban Đài Tưởng niệm Chiến Tranh Hoa Kỳ, trong đó ông ca ngợi ông Thu và các bức tượng về đề tài chiến tranh. Ông William xem ông Thu là điêu khắc gia xuất sắc nhất Việt Nam lúc ấy và đánh giá bức tượng Thương Tiếc là một kiệt tác nghệ thuật. Ông William viết: “… xét về đề tài tượng đài chiến tranh, tôi trân trọng đặt tượng Thương Tiếc và các tác phẩm khác của ông ngang hàng với bức ảnh nổi tiếng Raising The Flag on Iwo Jima ở Arlington”. Ông cũng tiến cử ông Thu với Ủy ban để thực hiện việc dựng tượng ở Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh trong các dự án tương lai.

Nói đến điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, người ta chỉ nhớ đến ông với bức tượng Thương Tiếc. Thật ra ông còn một số tác phẩm khác, chẳng hạn tượng Quyết Thắng, tác phẩm được tạc sau cùng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Tượng cao 4m, bằng bê-tông cốt thép mô tả hình ảnh người lính Thủy Quân Lục Chiến trong tư thế ném lựu đạn. Chân trái co thấp bước tới trước, chân phải thẳng tạo thế đứng vững chắc. Cánh tay và bàn tay trái duỗi thẳng hướng về đích đến, tay phải đưa về phía lưng, làm thân người lính vặn về phía sau, thế đứng này giúp người lính có thể ném lựu đạn đi xa nhất. Khẩu súng đặt vội giữa hai chân, nón sắt rơi xuống, phần áo phía trước phủ ra ngoài quần làm cho người xem cảm nhận được sức nóng của chiến trường. Trong khoảnh khắc sống còn, gương mặt người lính trở nên căng thẳng…

Tượng Quyết Thắng

Khi vừa hoàn thành, tượng Quyết Thắng được triển lãm tại công viên Đống Đa, trước Tòa Đô Chánh vào năm 1969. Cái thần của bức tượng cùng bảy bức tượng khác về đề tài quân đội của ông Thu tại cuộc triển lãm làm cho người xem cảm nhận không khí chiến tranh lan vào tận đô thành Sài Gòn. Trước đó vài năm, có một tác phẩm điêu khắc đồ sộ cùng chủ đề người lính Thủy Quân Lục Chiến được đặt trước Quốc Hội (Hạ Nghị Viện).

Tượng do điêu khắc gia Huỳnh Huyền Đỏ tạc năm 1966. Ông Đỏ là thiếu tá Bộ Tổng Tham Mưu, là bạn học với ông Thu tại Cao Đẳng Mỹ Thuật. Ban đầu tượng được duyệt với phác thảo gồm ba người lính nhưng khi hoàn thiện thì tượng đài chỉ có hai người. Trong thời gian thực hiện, ông Đỏ rút lui không rõ lý do, công việc dang dở, vì vậy được giao cho thiếu úy Đinh Văn Thuộc (không phải điêu khắc gia), cùng làm với sự cố vấn của họa sĩ Lê Chánh và Lương Trường Thọ. Trong hoàn cảnh như vậy, tượng khi hoàn thành có nhiều khiếm khuyết mà tác giả của nó chắc không khỏi buồn lòng! Sóng gió của bức tượng này chưa dừng ở đó. Ngay khi tượng được dựng, dân biểu Hạ Nghị Viện phản đối kịch liệt, vì súng người lính hướng thẳng vào tòa nhà Quốc Hội. Họ cương quyết đòi di chuyển tượng sang địa điểm khác. Đầu năm 1968, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị điêu khắc gia Thu làm gấp một tượng khác để thay thế. Đó là lý do ra đời của tượng Quyết Thắng.

Chỉ ba tháng sau khi có chỉ thị, ông Thu đã gấp rút hoàn thành Quyết Thắng với kinh phí tự bỏ 300.000 đồng. Tổng thống Thiệu muốn thay thế bức tượng trước trụ sở Quốc hội ngay và có ý đưa tượng Thủy Quân Lục Chiến về Ngã Tư Hàng Xanh. Tuy nhiên, không dễ gì thay thế biểu tượng một binh chủng oai hùng, khi ông Thiệu cùng lúc đương đầu với thiếu tướng Bùi Thế Lân (tư lệnh Thủy quân lục chiến) và đại tướng Cao Văn Viên (Bộ Tổng Tham Mưu). Bức tượng Thủy Quân Lục Chiến nhờ vậy tồn tại thêm vài năm cho đến ngày 30-4 rồi bị nhóm thanh niên “cách mạng 30-4” phá sập.

Sau khi Sài Gòn thất thủ, “bên thắng cuộc” đã giật đổ bức tượng Thương Tiếc bằng đồng, rồi chuyển về Dĩ An. Đến nay không ai biết được số phận của nó. Chưa dừng lại, ít lâu sau đó, một nhóm vài chục bộ đội đã kéo tới tư gia điêu khắc gia Thu để truy tìm bức tượng Thương Tiếc bằng bê-tông cốt thép đã tạc và đặt tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa năm 1967. Đó là tượng dùng để đúc đồng (khuôn gốc) và hình thành nên bức tượng Thương Tiếc phiên bản bằng đồng năm 1970.

Nhóm người hung hãn ra sức đập phá bức tượng Thương Tiếc một cách không… thương tiếc và chỉ dừng lại khi tượng chỉ còn lại phần bụng và chân. Hiện nay tượng bê-tông bị đập phá này vẫn còn nằm trong sân sau nhà của ông Thu, cạnh các ngôi mộ gia tiên, cây dại che phủ nên ít ai chú ý. Sau khi đập phá bức Thương Tiếc, nhóm người này tiếp tục đập phá bức tượng Lính Thủy quân Lục Chiến, cao 4m, chỉ để lại đầu tượng. Ngày trở về nhà từ trại tù Hàm Tân với thân hình tiều tụy, ông lê bước đến bên bức Thương Tiếc. Ông đã ngã quỵ dưới chân tượng và ngồi ở đó rất lâu cho đến lúc sụp tối. Ông nói sự trả thù này còn ác hơn những đòn thù mà ông phải gánh chịu trong tám năm dài ngục tối…

Bức thư của đại tá H.G. Fuller gửi cho đại tá William P. Jones về điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu

Võ Văn Hai, giờ này ông ở đâu?

Hạ sĩ Võ Văn Hai, Tiểu Đoàn II binh chủng Nhảy Dù bỗng trở nên nổi tiếng cùng với ông Thu và bức tượng Thương Tiếc lịch sử khi được chọn làm người mẫu. Giống như điêu khắc gia Thu, cuộc đời bí ẩn của hạ sĩ Hai cũng chìm nổi theo bức tượng. Không lâu sau tượng được dựng lên, người ta đồn ông Hai đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị. Nhiều bài thơ khóc ông đã ra đời. Thật ra ông Hai chưa chết!

Trong thời gian ông Thu ở tù, ông Hai đã hai lần thăm gia đình ông Thu. Lần đầu, rất sớm sau năm 1975. Tim ông như vỡ vụn khi thấy tượng Thương Tiếc – như là phần xác của ông – giờ đây chỉ là đống đổ nát. Lần thứ hai, nhiều năm sau đó. Ông nghe gia đình ông Thu kể rằng ông Thu được cai ngục đưa về thăm nhà với đôi chân yếu không thể tự đi. Ông Hai hoảng loạn, lo sợ có ngày cộng sản tìm đến ông rồi cuộc đời mình cũng chìm xuống địa ngục như thiếu tá Thu. Ông nhanh chóng rời khỏi nhà và không ai có tin tức của hạ sĩ Hai từ ngày đó. Có lẽ ông Hai đã thay tên đổi họ, “mai danh ẩn tích”, trở về cuộc sống nông dân ở đâu đó trên đất Diên Khánh, ông Thu nghĩ vậy…

Trong tù, tạc tượng ông Thiệu, thay vì Hồ Chí Minh!

Tháng Tư đen đã đẩy gia đình ông xuống địa ngục. Tháng 12-1975, tại lớp 10C5 Trường Võ Trường Toản (VTT), Trí – cậu con trai của ông – được lệnh rời lớp, mang theo cặp lên văn phòng. Hiệu trưởng Nguyễn Quang Hồng, dân Nam tập kết, môi mỏng, đầu hói, lạnh lùng nói: “Ba em nợ máu với nhân dân, em không được học ở đây. Từ hôm nay”. Linh cảm chuyện không lành, tôi đợi Trí tại nhà xe, Trí lầm lũi, khóc nấc và nói: “Tao bị đuổi học”. Trí giấu mẹ vì sợ bà đau buồn, có thể sinh bệnh mà chết. Mỗi sáng nó vẫn ra khỏi nhà, chui “lỗ chó” vào Sở thú ngồi cho đến giờ về, nhìn buồn sang trường cũ nơi có tượng cụ Võ Trường Toản do chính Ba nó tạc năm 1972.

Trại tập trung Hàm Tân, một buổi sáng cũng khoảng thời gian Trí bị đuổi, thiếu tá Thu bị gọi lên chất vấn về thành tích không khai trong lý lịch: là người đã tạc tượng Ngày về (giải thưởng văn hóa nghệ thuật Ngô Đình Diệm 1963) và tượng Thương tiếc. Sau ít phút lắng nghe ý nghĩa của các bức tượng, sáu tên cai ngục thay nhau đánh đập ông dã man trong ba ngày. Chúng dùng cánh tay hộ pháp vỗ mạnh vào mang tai khiến ông chảy máu và điếc luôn từ ngày đó. Ông bị biệt giam trong conex. Tám tháng không thấy Mặt trời. Ít lâu sau, chúng yêu cầu ông tạc tượng Hồ Chí Minh. Suy nghĩ hồi lâu, ông đồng ý với điều kiện: được về Gia Định để thăm mẹ già, vợ con và chuẩn bị vật liệu.

Ngày trở về thăm mẹ tại cư xá Việt Nam Thương Tín (Hàng Xanh), khi người em gái ý tứ giữ chân bốn tên an ninh ở phòng khách, ông Thu nghe mẹ nghiêm khắc nói: “Mẹ đẻ ra con, mẹ hiểu con muốn gì. Nếu trái ý, mẹ sẽ tự tử ngay. Cố gắng ở thêm ít năm rồi về”. Biết tính mẹ, ông đành bỏ kế hoạch trốn sau khi thăm vợ con ở Gò Vấp. Ông trở lại địa ngục, miễn cưỡng tạc tượng kẻ thù với một mật kế mới. Hàng ngày, ông nuốt vào những lời sỉ vả của chiến hữu nhắm vào ông.

Những ngày cuối tháng Tám, ông càng miệt mài thức khuya “tạc tượng”, chiến hữu càng ghẻ lạnh. Sáng ngày 1-9, cả trại tù náo loạn khi nhận ra: đây không phải tượng Hồ Chí Minh mà là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu! Những ngày sau đó ông sống ở đáy địa ngục. Ông chết đi sống lại nhiều lần trước những trận đòn thù hội đồng. Một ngày tháng 10, ông bị lôi ra khỏi conex lúc 4g sáng để đưa ra pháp trường. Mạng ông lớn, lệnh hành quyết được bãi bỏ ở những giây cuối cùng. Biệt giam, đòn thù, thiếu ăn…, tính mạng mong manh gần chết, cuối cùng, ông được tha năm 1983.

Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu (ảnh: tác giả)
Tác giả và Nguyễn Thanh Thu (ảnh: tác giả)

Một giấc mơ cuối đời

Sau bốn năm dưỡng thương, buồn cảnh gia đình tan nát, ông vượt biên bằng đường bộ mà trong túi không có một xu theo nghĩa đen. Hành trình gian khổ ly kỳ này (sẽ được hầu chuyện vào dịp khác) đưa ông đến Thái Lan, sau đó định cư ở Mỹ hơn 10 năm, rồi trở về Việt Nam cho đến nay. Tổng thống Thiệu, trong lần nói chuyện với đồng bào tại California, cảm kích về việc ông Thu dựng tượng mình trong trại tù Hàm Tân, đã xuống tận chỗ ngồi của ông Thu để thăm hỏi.

Hơn 10 năm ở Mỹ, ông trông mong cộng đồng giúp phục dựng lại bức tượng Thương Tiếc nhưng niềm hy vọng đó cuối cùng chỉ là những “confetti vương vãi trên sàn”. Không sống được bằng nghề điêu khắc, ông không biết làm gì khác. Với thính lực gần bằng không, ông ngày càng bế tắc trong việc mưu sinh xứ người. Cô độc, cuối cùng ông miễn cưỡng trở về Việt Nam. Trở lại mái nhà xưa, gần gia đình, trong không gian sáng tác quen thuộc, ông tạc thêm một số tượng, dựa trên các ý tưởng hình thành từ trước như: Được Mùa, Cửu Long Được Mùa… Tuy nhiên, đó là những tượng tỷ lệ nhỏ, tạc chỉ để thỏa mãn đam mê nghệ thuật.

Bây giờ, với những ngày tháng còn lại cuối cùng của cuộc đời, ông chỉ mong gặp lại ba người, trong đó có hạ sĩ Hai, người đã ghé thăm gia đình ông vài lần trong lúc ông ở tù; và hai người phụ nữ mà ông mang ơn cứu mạng: cô Lan (bán canteen trong trại Hàm Tân), người giao cơm khi ông bị biệt giam với miếng thịt giấu ở đáy chén; cô Oanh, người tình của trùm du đãng xóm chài Sa Tưng (Campuchia). Ở tuổi 87, ông ấp ủ một việc làm cuối cùng: dựng tượng chính mình ngay sau khi tôi thực hiện xong album chân dung của ông. Cầu chúc ông sớm đạt nguyện để lớp hậu sinh có dịp viếng ông, nghiêng mình trước một người lính VNCH can trường.

Những tâm sự trong bối cảnh tháng Tư đen khiến chúng ta không khỏi ngậm ngùi. Cuộc đời sóng gió của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu đã làm cho pho tượng Thương Tiếc đẹp hơn và trở nên bất tử. Những kẻ hậu sinh rồi sẽ còn nhắc về ông: “Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”.

Nguồn:https://saigonnhonews.com/cau-chuyen-xuc-dong-ve-tac-gia-buc-tuong-thuong-tiec/

 

2021/04/25

 

Năm năm cứ đến Ngày Oan Trái

Năm năm cứ đến Ngày Oan Trái
Ta thắp hương lòng để nhớ thương…

Hoàng Hải Thủy
 
Ðêm Tháng Tư Buồn ở Xứ Người – Biết dzồi..! Chán lắm..! Than mãi ..! – .. nằm xem TiVi, thấy thiên hạ lao xao nói đến chuyện Thái Tôn nước Anh-cát-lỵ cưới vợ, Người Lưu Vong Già bồi hồi, ngậm ngùi nhớ lại chuyện đám cưới vương giả cũng diễn ra ở xứ Anh-cát-lỵ năm xưa, khi Thái Tử Charles kết hôn với cô Diana.
 

Năm xưa là năm 1981. Mới đấy thôi, tưởng như là đêm qua mà đời tôi đã qua 30 mùa lá rụng. Dòng thời gian dài một ánh bay.. Thân xác con người không thể trở về dĩ vãng nhưng trí nhớ của con người có thể làm cho con người tưởng như mình sống lại ngày xưa.

Sống lại thảng thốt, mơ hồ – tất nhiên – đêm lặng, xứ người, nằm trong căn phòng đèn vàng, an ninh Năm Chăm Phần Chăm, tôi mơ hồ trở lại là tôi năm 1981; tôi nhớ lại những buổi tối vào lúc 9 giờ, trong căn gác lửng tối om vo ve tiếng muỗi, tôi nằm bên cái radio Sony nghe Ðài Phát Thanh BBC, VOA. Nhiều lần tôi muốn kêu lên với các ông BBC, VOA:

 – Khổ lắm, mấy ông ơi.. Mấy ông cứ..“Công chúa Diana..” là ký gì? Công chúa là con gái vua, công chúa không thể kết hôn với hoàng tử là con trai vua, trừ khi hoàng tử là con vua một nước khác… Mấy ông gọi Diana là “công chúa,” bọn Bắc Cộng chúng nó cười cho…
 
Ba Tầu chỉ có tiếng “hoàng tử ” để gọi Prince, tiếng “công chúa” để gọi Princess nên khi cô Diana được phong vương hiệu Princess, người ta gọi nàng là “công chúa.” Nhưng nếu không gọi Princess Diana là công chúa, ta phải gọi nàng với tước hiệu gì? Prince có thể là Vương Tử, có thể gọi Princess – bà vợ của ông Prince – là vương hậu hay không? Ông chồng của công chúa là phò mã, con rể cuả Vua là Hoàng Tế – như Hoàng Tế Phillip, ông chồng Bà Vua Elizabeth – Tầu có triếng “tử tức” – “tử” là con, “tức”  là con dâu – ta có thể gọi Princess Diana là Hoàng Tức Diana được chăng?
 
Hôm nay, một trong những ngày cuối tháng Tư thứ 36 kể từ tháng Tư năm 1975, tôi viết lan man về chuyện Ðám Cưới cô Diana 30 năm xưa. Tâm viên, ý mã… Tôi viết thế vì tôi ngậm ngùi với chuyện thời gian qua nhanh. Mới đêm qua tôi nằm ở một góc thành phố Sài Gòn nghe chuyện đám cưới vương giả xứ người ở mãi bên kia biển. Dzậy mà thời gian đã qua 32 năm! Năm 1980 tôi 50 tuổi.
 
Sài Gòn năm 1980 ở dưới đáy của Tang Thương. Năm ấy tôi đi tù 2 năm vừa trở về mái nhà xưa. Tôi nhớ những buổi chiều lúc 5 giờ, đứng ló mặt trong cửa gió sà-lim Nhà Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu chờ bọn cai tù đi qua điểm mặt, có những chiều tôi ghé mắt nhìn qua cửa gió sà-lim về những vòm cây sao trên đường Chi Lăng ngoài kia, trên bờ tường nhà tù, nắng chiều tô vàng trên những vòm cây ấy, gió chiều làm những cành lá rung chuyển. Tôi tưởng tượng giờ này tôi được đi trên vỉa hè đường Lê Lợi. Hạnh phúc chừng nào. Những chiều bị tù ấy tôi nghĩ khi được ra khỏi tù, được trở về mái nhà xưa với vòng tay gầy của người vợ hiền, tôi sẽ sống ngoan, sống không hờn giận, không uất ức, sống cam chịu với số phận đen hơn mõm chó của tôi. Sống đầu hàng, sống hèn mạt như mọi người dân Quốc Gia VNCH vừa bị tiêu vong, tôi sẽ không làm gì để bị bọn đầu trâu, mặt ngựa nửa đêm đến nhà dựng cổ dậy, bắt đi tù lần nữa. Những ngày đầu khi trở về nhà, tôi nói với vợ tôi:
 
– Anh đã chịu cực nhục nhiều trong tù, anh sẽ không còn bực mình về những chuyện vặt như việc phải đi họp tổ, tối tối phải đi nghe đọc báo.
 
Thế nhưng:
 
Quân lạc phong trần quân bất cải
Ngã hồi phố thị, ngã do liên
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Giai nhân, cùng sĩ đối sầu miên
Phong trần Em vẫn là Em
Anh về phố chợ đêm đêm lại buồn
Một đi hoàng hạc đi luôn
Giai nhân, cùng sĩ đối buồn nằm mơ.
 
Tù hai năm về nhà, tưởng cúi mặt sống được, nhưng chẳng bao lâu tôi lại chịu không nổi. Tuy biết rằng cứ làm Thơ, cứ Viết bài gửi ra nước ngoài là thể nào cũng bị bắt lại, tôi cứ làm Thơ, tôi cứ Viết ra nước ngoài.
 
Tôi viết những bài than thở, tôi không chỉ than thở cho thân tôi, tôi kêu than cho đồng bào tôi, tôi diễn tả nỗi sầu buồn, nỗi tuyệt vọng của đồng bào tôi, như trong bài thơ:
 
BUỒN
Như cánh lá vàng sau trận cuồng phong
Anh rạt về đây, xóm hẹp người đông.
Nhà Em, nhà Anh cách hai thước ngõ
Những chiều mưa buồn nước ngập như sông.
Em đứng mỏi mòn bên dàn ván gỗ
Như người chinh phụ ôm con chờ mong.
Anh đứng võ vàng sau khung cửa sổ
Như người tù nhìn đời qua chấn song.
Anh đứng trông mây, Em đứng trông chồng
Mất chồng con bế, con bồng Em mang.
Cái bống là cái bống bang,
Mẹ bống yêu bống, bống càng làm thơ!
Tiếng ru hờ, tiếng khóc ơ
Vương trên khung cửa bây giờ tang thương.
Ðìu hiu cuối ngõ, cùng đường,
Bên Anh tuyệt vọng, đoạn trường bên Em.
Ngày lại ngày, đêm lại đêm,
Ngày rơi sầu muộn, đêm chìm phôi pha.
Buồn từ trong cửa buồn ra,
Buồn từ ngã bẩy, ngã ba buồn về.
Ta đang sống, ta đang mê?
Hay ta đang chết não nề, Em ơi !
 
Khi bọn Công An Thành Hồ đến nhà bắt tôi, chúng lục xoát tóm được tập thơ của tôi. Anh Công An Huỳnh Bá Thành có đọc bài Thơ Buồn của tôi; khi thẩm vấn tôi ở Nhà Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu, y nói:
 
– Trong lúc nhân dân cả nước phấn khởi hồ hởi tiến lên xã hội chủ nghĩa, một mình anh kêu buồn đâu có được. Cái buồn của anh ảnh hưởng xấu đến người khác.
 
Y hỏi móc tôi:
– Bây giờ anh là « người tù nhìn trời qua chấn song » rồi đấy. Anh thấy sao?
 
Sau Ngày 30 Tháng Tư 1975 chừng một tháng, thành phố thủ đô Sài Gòn biến thành một Chợ Trời Khổng Lồ. Theo đúng thông lệ: bọn Cộng đi đến đâu, Chợ Trời Viả Hè đi đến đấy. Tháng Sáu, Tháng Bẩy năm 1975 người Sài Gòn đem đủ thứ đồ linh tinh ra bầy bán ở vỉa hè. Tôi làm bài thơ:
 
CHỢ TRỜI
 
Trời chiều đi dạo Chợ Trời,

Xem đồ ta, ngắm đồ người cho vui.
Tìm vui chỉ thấy ngậm ngùi
Vỉa hè này những khóc cười bầy ra.
Lạc loài áo gấm, quần hoa
Này trong khuê các, sao mà đến đây ?
Chợ bầy những đọa cùng đầy,
Vàng phơi nắng quái, ngọc vầy mưa sa.
Bán đồ toàn những người ta.
Mua đồ thì rặt những ma, cùng mường.
Chợ Trời hay Chợ Ðoạn Trường?
Ðầu Âm Phủ, cuối Thiên Ðường là đây.

Công An VC Huỳnh Bá Thành cũng đọc bài thơ Chợ Trời của tôi. Khi thẩm vấn tôi, y nói:
 
– Anh làm thơ gọi chúng tôi là Mán, là Mường. Nếu các chú đi bắt anh mỗi chú chỉ đánh anh một cái thôi, giờ này anh không ngồi được vững như thế này.
 
Tôi đã qua 8 năm tù ngục Cộng sản. Thành tích Tù Ðầy của tôi không có gì để tôi khoe, tôi cũng chẳng làm gì để mong được khen. Ở tù Cộng sản 8 năm mà không làm việc gì để phải tự hổ thẹn, không làm việc gì để vợ con tôi phải xấu hổ vì tôi, dzậy là tôi mừng.
 
Mất nhau trong cuộc biển dâu
Hồn anh hoa muộn, lá sầu hoang sơ.
Tim anh quằn quại bóng cờ,
Tai anh Mán hú, Mọi hờ quanh năm.
 
Tôi tìm được bài Kể Tội Bắc Cộng dưới đây trên Internet:
 
– Khi xâm lăng VNCH, cộng sản đã hành sử như một lũ thổ phỉ đi ăn cướp.
– Chúng cướp 16 tấn Vàng trong Ngân khố Quốc gia VNCH. Những tên đầu sỏ cộng sản đã đưa số vàng ăn cướp này ra ngoài Bắc và dấm dúi chia nhau.
– Chúng cướp tất cả những kho dự trữ của VNCH, ngày đêm chúng chuyên chở những đồ chúng cướp được ở miền Nam về miền Bắc trong nhiều tháng trời.
– Chúng cướp nhà của những người bỏ nước ra đi và những người vượt biên để chia cho nhau.
– Chúng cưỡng bức người dân thành thị đi đày tại những vùng chúng gọi là “khu kinh tế mới” để chúng cướp nhà của họ.
– Chúng bắt người dân phải hiến nhà cho chúng trước khi xuất cảnh.
– Chúng hạ thấp trị giá đồng tiền của VNCH và tổ chức đổi tiền hai lần để cướp tiền của dân. Mỗi lần đổi tiền, chúng chỉ trả lại cho người dân một số ít để chi tiêu trong một thời gian ngắn và chúng cướp sạch số còn lại.
– Chúng tổ chức đánh tư sản mại bản để cướp tài sản, cướp cửa hàng và kho hàng của thương gia.
– Chúng cướp các nhà máy, các xí nghiệp của tư nhân để thành lập các hợp tác xã của chúng.
– Chúng cướp tiền của người dân gửi tại các ngân hàng.
– Chúng thẳng tay cướp đất và nhà của các tôn giáo.
– Chúng dùng luật rừng để cướp đất, cướp nhà của dân.
– Chúng cướp ruộng của nông dân qua thủ đoạn “hợp tác hoá nông nghiệp.”
 
Bọn Cộng phỉ đã cướp trắng tài sản quốc gia của VNCH và của cải của toàn dân Miền Nam. Toàn dân Miền Nam đã bị bần cùng hoá. Những tên đầu sỏ cộng sản đã chia nhau của ăn cướp và chúng đã trở thành những tên tư bản đỏ có hàng trăm triệu dollars. Những bức hình chụp những đồ vật trang trí trong “dinh thự” tại Hà Nội của tên đầu sỏ cộng sản Lê Khả Phiêu – mới đưọc đưa lên hệ thống internet toàn cầu – đã tố cáo không thể chối cãi tội ăn cướp của chúng. Một bọn cướp vào cướp phá Miền Nam.
 
o O o
 
Những đêm dài sau Ngày 30 Tháng Tư 1975…
 
Nằm như xác chết còn thoi thóp trong căn gác lửng tối om vo ve tiếng muỗi ở Cư Xá Tự Do, nằm phơi rốn trong những phòng tù Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu, Nhà Tù Chí Hoà, nhớ lại Thơ Kiều, nhiều câu Thơ Kiều làm tôi xúc động. Khi Mã Giám Sinh đưa Thúy Kiều đi Lâm Truy, cảnh chiếc xe ngựa đưa Nàng đi và cảnh trời hôm ấy được Nguyễn Du tả:
 
Ðùng đùng gió giục, mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay…
 
Gợi tôi nhớ lại cảnh những phi cơ trực thăng Mỹ bay từ biển vào Sài Gòn mang đi những người Mỹ cuối cùng còn ở Toà Ðại Sứ Hoa Kỳ, tiếng trực thăng rền rĩ trên trời Sài Gòn suốt đêm hôm ấy – Ðêm 29 Tháng Tư 1975.
 
Tôi phóng tác hai câu Kiều:
 
Ðùng đùng gió giục, mây vần
Trực thăng trong cõi hồng trần như bay…
 
Trăm đắng, ngàn cay… Ðoạn trường ai có qua cầu mới hay… Nỗi buồn khủng khiếp mà những người Quốc Gia VNCH phải chịu sau ngày mất nước không thể nào diễn tả được bằng lời. Ai sống trong nỗi buồn đó người ấy biết. Nhưng thôi, kể lại, than oán, tiếc thương đã đủ nhiều. Ðây là bài cuối cùng tôi viết về Ngày 30 Tháng Tư. Năm tới, nếu còn sống tôi còn viết, nhưng tôi sẽ không viết về Ngày 30 Tháng Tư 1975 nữa.
 
Hôm nay tôi kể lại với bạn Lời Nói Cuối Cùng của ông Tổng Thống Trần Văn Hương – dù ông chỉ là Tổng Thống có mấy ngày, ông cũng là một trong 4 ông Tổng Thống của tôi.
 
Lời Tổng Thống Trần Văn Hương:
 
Tôi xin hứa với anh em … tất cả ở trong trong quân đội là … ngày nào anh em còn chiến đấu, tôi luôn luôn đứng bên cạnh anh em và ngày nào, chẳng may, mà đất nước không còn … thì cái nắm xương khô của tôi sẽ nằm bên cạnh đống xương của tất cả anh em chiến sĩ. Ðó là cái nguyện vọng tha thiết của tôi, suốt cả đời tôi.”
 
o O o
 
Bài thơ tôi làm Tháng Tư năm 2010:
 
Năm năm cứ đến Ngày Oan Trái
Ta thắp hương lòng để nhớ thương.
Mất nhau vẩy bút làm mưa gió
Cho đống xương tàn được nở hương…
Một đời ba, bốn phen dâu bể
Mười điều trông thấy chín đau thương
Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc
Trăm năm thân thế bóng tà dương
Nước mất, quân tan, thân chiến bại
Sống nhờ cơm áo ở tha phương
Vèo trông lá rụng đầy đường
Kỳ Hoa Ðất Trích đoạn trường thế thôi.
Huống chi ta đã không còn trẻ
Tự thưở tan hàng ở cố hương.
Tháng Tư…! Ta lặng nhìn sông núi
Sông núi người dưng trắng khói sương.
Quê ta xa mãi bên kia biển
Chỉ thấy tơi bời mây trắng vương.
Ta đau người lính vừa thua trận
Nát gió mưa nằm giữa sa trường
Vẫn nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu Thiên Ðường.
Ðất đá tim ta nhiều ngấn lệ
Em có bao giờ Em khóc thương?
 
Hồ trường…
Lò cừ nung nấu sự đời
Bức tranh vân cẩu vẽ người tha hương
Cúi đầu mà khóc
Nghiêng vai mà gọi
Kỳ Hoa mang mang… ơi người mất nước…
Rừng Phong cùng ta cạn mấy hồ trường.
Hồ trường… Hồ trường đau thương.
Ta biết thương về đâu?
Ðông phương ngàn dậm thẳm
Mây nước một mầu sương
Tây phương trời đẹp lắm
Có người mất nước như điên, như cuồng…
Hỡi ơi… bạn tác ngoài trôi dạt
Chẳng đọc Thơ Ta cũng đoạn trường!
Năm năm cứ đến Ngày Oan Trái
Ta thắp hương lòng để nhớ thương.
Xa nửa địa cầu thương nhớ mãi
Xương có tàn xin hãy nở hương.
 
o O o
 
Hơn ba mươi Ngày 30 Tháng Tư đã đến, đã qua kể từ ngày ta mất nước, ta không thể sống như loài ếch nhái hài lòng nằm trong góc ao đêm mưa ì ộp gọi nhau, ta thương khóc dù ta biết ta có thương khóc bao nhiêu cũng chỉ là vô ích; nhưng sẽ chẳng còn lâu nữa những Tháng Tư sẽ đến với những người Việt không biết gì về Tháng Tư; ngày Quên sẽ tới khi trên cõi đời này không còn người Việt nào đau nhói trái tim khi Tháng Tư trở lại.
 
Vì năm tháng sẽ qua, vì người sẽ quên, vì đời sẽ lãng, nên khi chúng ta còn sống, năm năm cứ đến Ngày Oan Trái, ta cứ thắp hương lòng để nhớ thương. Ai không nhớ mặc người ta, còn ta, ta cứ một mình rơi nước mắt vào những hồ trường tha hương, thất quốc.. Bạn ơi.. Giờ này, Ngày 25 Tháng Tư, 1975…, quân ta đang chặn đánh quân Bắc Việt Cộng ở mặt trận Long Khánh, Xuân Lộc, anh em ta, đồng bào ta đang chết để cho chúng ta sống…
 
Ơi những vị bạn già của tôi ở chín phương trời, mười phương đất hải ngoại thương ca, trong đau thương, trong tủi cực, trong cô đơn, tuyệt vọng, tôi gửi những lời Thơ này đến các vị:
 
Gửi thân lữ thứ trăm miền
Nỗi buồn nào cũng mang tên Sài Gòn
Sài Gòn ơi… Ta đã mất Em trong cuộc đời…
Sài Gòn Xưa Ðẹp Lắm, Sài Gòn ơi…!

Hoàng Hải Thủy

******

Hoàng Hải Thủy 1933-2020

Nhà văn Hoàng Hải Thủy – một khuôn mặt rất quen thuộc trong sinh hoạt báo chí và văn học từ thập niên 50, với trên sáu mươi tác phẩm thuộc nhiều thể loại đã xuất bản tại Miền Nam Tự Do trước 1975 và tại hải ngoại từ 1995 – vừa vĩnh biệt các độc giả yêu mến ông vào ngày 6 tháng 12 năm 2020 tại thành phố Arlington, tiểu bang Virginia, hưởng thọ 88 tuổi.

Tiểu sử nhà văn Hoàng Hải Thủy được chính ông ghi trên trang mạng Hoàng Hải Thủy aka Công Tử Hà Đông như sau:

Tên thật: Dương Trọng Hải. Sinh năm 1933 tại Hà Đông. Bút hiệu khác: Công Tử Hà Đông, Ngụy Công Tử, Con Trai Bà Cả Đọi, Hạ Thu, Hồ Thành Nhân, Văn Kỳ Thanh, Dương Hồng Ngọc, Triều Đông, Người Sài Gòn…

Thân thế: Vào Nam năm 1951, từng trải qua các việc: phóng viên nhật báo Ánh Sáng Sài Gòn, phòng 5 bộ Tổng Tham Mưu quân đội Việt Nam Cộng Hòa, phóng viên nhật báo Sài Gòn Mới, thư ký sở viện trợ Mỹ. Năm 1977 bị công an Việt Cộng bắt nhốt 2 năm (1977-1979) vì tội gửi một số bài thơ, bài viết sầu buồn ra nước ngoài. Tháng 5 năm 1984 bị bắt lần thứ hai cũng vì tội gửi tác phẩm ra nước ngoài. Lần thứ hai này bị đưa ra tòa, bị án tù 6 năm. Năm 1990 trở về Sài Gòn. Năm 1994 sang Hoa Kỳ tỵ nạn, định cư ở Virginia”.