2014/08/29

NỮ CA SĨ KIM ANH
Rượu, ma túy và than phận

Mỗi năm, nữ hoàng “Mùa Thu lá bay” sống và hát ở Việt Nam khoảng 6 tháng. Dù đã nổi tiếng từ lâu và ở cái tuổi không nhiều lợi thế cho việc hát nhưng chị nói rằng, chị đang ở một giai đoạn hồi sinh tiếp theo. Đó là sự hồi sinh sau bao bĩ cực như một vở bi kịch mà người đàn bà vốn mạnh mẽ như đàn ông này đã tự diễn kín với chính mình suốt cả cuộc đời.
Kim Anh uống rượu rất khỏe và gần như là một “độc cô cầu bại” trên bàn nhậu. Thuốc lá đốt cũng nhiều, mà phải là thuốc nặng đô. Chị nói :
- “Anh cứ nhìn mặt tôi uống hàng chai rượu mà mặt cứ tỉnh như sáo thì anh đừng ngạc nhiên. Đau cỡ nào về cả thể xác lẫn tinh thần, với tôi giờ như không nghĩa lý. Đưa xương cho người ta khoan để bắt vít, không tiêm thuốc tê, tôi còn chịu được nữa là. Đôi lúc buồn quá, 3 giờ sáng ngẩng mặt lên hỏi trời còn điều gì đày ải nữa cứ đày ải nốt đi, con chịu được hết ! Có lẽ giờ này, trời cũng nên để yên cho tôi được rồi đấy !”
Những đày ải, bĩ cực cuộc đời mà một kiếp đàn bà phải chịu, gần như Kim Anh đã phải gánh hết. Sự bất cần, sự không sợ sệt, cùng những tỉnh bơ với đau đớn, cùng rượu, cùng tro tàn của sự thiêu đốt mình suốt một quãng đời, chưng cất trong giọng hát Kim Anh để trở thành một chất giọng đặc thù không giống ai. Thế mà nỗi buồn trong giọng hát chị, không nhuốm màu cay đắng, không bị ám ảnh của cô đơn, nhưng cũng không có chức năng ru ngủ. Nó như một thứ cồn rửa vết thương. Rằng, dốc hết đốt hết những gì Kim Anh có, cũng chỉ để rửa những vết thương trong lòng người nghe mà thôi.


Bài hát định mệnh

Nhắc đến thế hệ ca sĩ vàng ở hải ngoại một thời, thấy ai cũng có một xuất phát điểm và một sự nghiệp lẫy lừng. Còn nhắc đến Kim Anh trong quá khứ thường không thấy một dữ liệu gì ngoài bài hát Mùa thu lá bay, được chị hát vào những năm 80 ?

- Tôi đến với ca hát khá ngẫu nhiên và xuất phát điểm ca hát của tôi cũng là ở trời Tây chứ không phải ở Việt Nam. Tôi gốc người Hoa, sinh ra và lớn lên ở cù lao Ông Chưởng (tỉnh Đồng Tháp). Hồi nhỏ, tôi nổi tiếng thông minh và quậy phá. Năm 1969, tôi được một học bổng qua Mỹ học về kế toán. Đầu tháng 5/1975, tôi gặp một người Mỹ gốc Hoa, là chủ nhà hàng lớn Empress ở Wasington DC, nhờ tôi làm thông dịch tiếng Việt cho một số anh chị em nghệ sĩ, cũng là một ban nhạc vừa di tản từ Việt Nam sang sau khi Sài Gòn thay đổi.
Hàng ngày, tiếp xúc với ban nhạc, thấy tôi cũng nghêu ngao thì họ bảo, cứ hát chơi một bài. Tôi hát, ban nhạc họ rất thích. Từ đó tôi trở thành ca sĩ nữ duy nhất của ban nhạc hát hàng đêm tại nhà hàng. Năm 1977, có một người bạn là ca sĩ ở New York rủ tôi lên New York sống và hát với tư cách là một ca sĩ độc lập. Những năm này tôi hát chủ yếu cho một nhà hàng người Hoa ở New York, hát nhạc Tây lẫn nhạc Hoa nhưng hầu hết là nhạc Hoa. Những bài như Mùa Thu lá bay hay Máu nhuộm Bến Thượng Hải tôi đã hát tiếng Hoa trong thời gian này.

- Được biết Mùa Thu lá bay đến với chị để rồi chị trở thành một ca sĩ Kim Anh nổi tiếng là một câu chuyện rất lạ. Chị có thể kể rõ hơn câu câu chuyện này ?

- Năm 1982, nhà ở Việt Nam nhắn tôi rằng ba tôi sắp mất và trước khi qua đời ông muốn được nghe giọng nói của tôi. Tôi đi thu một băng cassette với 11 bài hát cả lời Việt lẫn lời Hoa gửi về để như an ủi ba được nghe giọng của đứa con từ phương xa, cũng như để nói với ba tôi vẫn giữ gốc gác của mình. Cái khó là thời gian này chủ yếu tôi hát tiếng Anh và tiếng Hoa, với nhạc Việt tôi hoàn toàn lạ lẫm nên thu một cuốn băng cũng chỉ là để ba nghe giọng mình, chứ cũng chẳng nghĩ sẽ đi dài và xa hơn như sau này.
Lúc cuốn băng về đến nơi ba đã mất được ba ngày, mắt vẫn mở. Má lại gần và nói : “Thôi ông ơi, dù con không về được, con cũng gửi giọng nói về. Ông yên lòng nhắm mắt cho con dễ làm ăn”. Thế, đôi mắt ba từ từ khép lại, một giọt nước mắt đã khô đọng phía dưới quầng mắt ba.
Những ngày ba mất, tôi buồn nghe đi nghe lại cuốn băng, chợt chạnh lòng thương phận mình xa xứ, tử biệt sinh ly có thể là những điều gắn chặt. Tôi gửi cho bạn bè một số cuốn băng để tặng, như một sự chia sẻ. Nào ngờ, người nọ chuyền tai người kia, họ gọi cho tôi và mua băng. Tiền gửi về lúc đó cũng rất nhiều. Tôi vẫn nghĩ đó đơn thuần chỉ là động viên, an ủi.
Còn 70 cuốn, lúc đó tôi cũng chẳng biết làm gì. Tôi lái xe qua Trung tâm băng nhạc Thanh Lan, giới thiệu tôi là ca sĩ mới, tên là Kim Anh và mong họ mua băng với giá 4 đô la/cuốn (tiền công thu là 4,25 đô la). Bà chủ còn hỏi : “Kim Anh Ba Con Mèo phải không ?”, tôi nói không phải. Tôi đưa 10 cuốn cho bà nghe thử, nếu được thì bà lấy, không thì thôi. Khi tôi đi được 10 cây số, bà lái xe theo và nói có bao nhiêu bán hết cho bà, bà sẽ trả 4,5 đô la/cuốn. Tôi nổi tiếng với Mùa Thu lá bay bắt đầu từ đó.

Tai ương, hồi sinh và hủy diệt

- Sự nổi tiếng mang lại danh vọng, tiền bạc nhưng cũng có thể gây không ít tai ương cho người nghệ sĩ. Hình như, trong những năm đó, cũng có rất nhiều biến cố xảy đến với cuộc đời chị ?

- Chính xác là những tai ương xảy đến từ những ngày tôi cầm đồng tiền đầu tiên của nghiệp cầm ca. 8/1/1978, New York có bão tuyết, tất cả xe cộ ngoài đường hầu như không lưu thông được nữa. Đúng lúc đó tôi gặp người hàng xóm đang đỗ xe trong garage và cho tôi đi nhờ về nhà. Khi qua cầu, đúng lúc gặp bão xoáy, xe bị quay rồi va vào thành cầu. Gần 3 năm trời tôi sống trong nhà thương, không một người quen thân bên cạnh, sống chủ yếu nhờ lòng tốt của thiên hạ. Toàn cơ thể tôi lúc đó chi chít vết thương. Chân tay liệt. Đầu vẹo. Mặt chi chít vết khâu, 285 mũi. Lưng cong. Nói chung, nghĩ về cái chết khi đó, tôi còn thấy nhẹ hơn việc nghĩ mình sống.

Bác sĩ sợ tôi cắn lưỡi tự tử nên suốt ngày để nẹp miệng. Họ nói, giờ nếu bắt vít vào cánh tay thì lưng cong suốt đời. Mà chữa cho lưng thẳng xem như tay bị liệt. Tôi nói, có tay mới làm được việc, chứ lưng cong cũng chẳng sao. Lúc này tôi nghĩ rằng, cả cuộc đời tôi chắc cũng mãi gắn với chiếc xe lăn. Nhưng tôi chợt nhớ, mình còn giọng hát. Dù thế nào cũng phải sống để mà hát, kể cả hát rong kiếm tiền nhưng trước hết là phải sống.

- Vậy làm thế nào mà chị thoát khỏi chiếc xe lăn và đặc biệt là sống qua những ngày “phế nhân” khi không có một người thân nào bên cạnh ?

- Thời gian đó, ông chủ nhà hàng qua thăm tôi trong bệnh viện, quyết bảo lãnh tôi được hát vì lý do rằng, chỉ có hát cô ấy mới cảm thấy được sống. Họ cho người đến bế cả xe lăn, tôi hát Diễm xưa cùng nước mắt của khán giả, nước mắt mình, nhất là đoạn “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”.
Đi hát, ý chí thúc tôi phải thoát khỏi cái xe lăn càng sớm càng tốt. Tôi muốn được đứng lên, muốn được đi ra, muốn được bay nhảy với những giai điệu như trước đây. Có lẽ, ông trời chơi khăm, muốn bắt tôi hát nhạc buồn suốt đời, nên cứ để tôi ngồi, và hát là đủ. Mỗi tối, trước khi lên sân khấu, tôi phải uống rượu. Uống để quên mình buồn nhưng càng uống càng thấy tỉnh. Dần dần, rượu thành người bạn không thể thiếu mỗi lần lên hát.
Một bác sĩ người Do Thái vào thăm tôi trong bệnh viện và quyết cãi trước tòa để tôi được ra ngoài tìm bác sĩ chữa trị cho mình để có cơ hội cất tiếng hát hàng đêm. Đúng lúc ấy, có một cậu người Đài Loan thích nghe tôi hát Mùa Thu lá bay ở nhà hàng, quyết đón tôi về ở để có bác sĩ chăm sóc cho tiện.
Được 2 tuần, người nhà cậu ở Đài Loan có công chuyện nên cậu phải về đó, không biết khi nào trở lại. Vừa gặp quý nhân chưa lâu thì như thế, tôi rất hoang mang về phần mình. Đứng không đứng được. Đi không đi được. Lúc đó, tôi chỉ ước cứ ngồi thế mà chết cho rồi. Đúng lúc hoang mang nhất, tôi nghe dưới nhà có hai người nói tiếng Việt. Họ nói “địa chỉ này đúng là nơi cô ca sĩ Kim Anh hát trên xe lăn ở đây”. Họ qua thăm, biết được tình hình tôi, họ nói : “Thôi, cô về nhà anh chị mà ở. Đừng ngại gì, đời người ai chẳng gặp lúc hoạn nạn”. Tôi mừng quá, xỉu luôn.
Về nhà, ba cô con gái của ông bà thay nhau đút cơm cho tôi ăn. Hai năm ròng được quý nhân cưu mang, chữa trị, đến khi cắt băng, tôi xin đi chứ không làm phiền quý nhân của mình thêm nữa. Ba năm trời đau đớn, ngồi cho người ta khoan từng mũi vào xương và ngủ ngồi, đến lúc ráp xương, được ngủ nằm, là một hạnh phúc lớn nhất đời khi đó. Tôi ngủ vùi 4 đêm, 5 ngày, nhiều người cứ nghĩ là tôi chết. Không, tôi đã hồi sinh sau một quãng đời tưởng chừng như chẳng bao giờ có ngày này.
- Sự hồi sinh này có làm cho giọng hát chị vui lên, hay vẫn cứ buồn như những ngày “thân em giờ hoang phế, lê theo thời gian giông gió” ?

- Một sự hồi sinh mới, nhưng lại bắt đầu một cuộc hủy diệt. Thời gian trong bệnh viện các bác sĩ đã cho tôi dùng thuốc lá và ma túy để quên đi cơn đau. Tôi nghiện là tại tôi, cũng chẳng trách các bác sĩ được. Mình lạm dụng vô ý thức, trở thành một con nghiện. 4 năm trời vật vã với ma túy, bao nhiêu tiền làm ra, vừa hỗ trợ gia đình khi ba tôi mất, còn bao nhiêu tôi nướng hết vào ma túy. Rồi các fan, họ cũng thể hiện lòng hâm mộ bằng việc tặng tôi… ma túy.
Năm 1984, sau một cơn sốc, tôi tỉnh dậy và tự nhủ, không thể thế này mãi được. Một là chết, hai là sống. Bĩ cực đau đớn mình đã chiến đấu để giành quyền được sống, nay sống như thế này thì thà chết còn hơn. Tôi quyết đi Pháp cai. Tôi ôm bọc ma túy đi lang thang và tìm đến một nghĩa trang quân đội ở miền Đông nước Pháp, quyết sống tách biệt để thử sức chịu đựng. Tôi được gia đình người quản trang cho ở lại, họ không hề biết tôi nghiện mà chỉ biết tôi đến xin một việc để làm. Tôi vào toilet, đổ bọc ma túy xuống bồn cầu và giật nước. Rồi tôi ôm lấy bồn cầu ngồi khóc, như thể lần này mình không thể sống nữa. Sau đó, cơn nghiện bắt đầu vật. Ông bà chủ biết, còn hỏi tôi có muốn không thì đi mua thuốc cho, tôi lắc đầu quyết không và quyết cai cho bằng được.
Sau 8 tháng, tôi từ bỏ ma túy mà không cần một viên thuốc. Đáng lẽ, tôi đã ở lại nước Pháp và an phận. Nhưng rồi, cơn bĩ cực này qua lại là những cơn bĩ cực khác.

Người đàn bà tìm con

- Không lẽ, cả tuổi thanh xuân của chị là tai ương, ma túy, thuốc lá và rượu ? Suốt một quãng đời lúc đó, không có ai là người đàn ông của riêng chị ư ?

- Thực ra năm 1970 tôi đã có chồng và năm 1972 tôi đã sinh con. Lúc sang Mỹ tôi chưa có bằng tú tài, nên hoặc sẽ phải có người bảo lãnh để ở lại, hoặc sẽ bị trục xuất. Có một người rất thương nói rằng : “Thực lòng tôi không muốn cưới em vì trông em trẻ trung hồn nhiên quá. Nhưng để giúp được em, tôi không ngại gì cả” Một năm sau thì tôi sinh con.
Cuộc sống không có tình yêu nên gia đình có cũng như không. Đứa con để lại cho anh nuôi. Tôi học xong, lang thang theo nghiệp cầm ca và quên mất rằng mình cũng đã có chồng. Khi bị tai nạn, tôi chợt nhớ ra dù gì tôi cũng có thứ quý giá nhất trên đời là con, thì cũng éo le thay anh đã lấy vợ khác và tôi không biết cách nào để liên lạc với anh cũng như gặp con mình.
Tôi thỏa hiệp với cả nỗi đau này để được sống. Khi rời khỏi chiếc xe lăn, việc đầu tiên là đi tìm con. Lúc lần ra dòng địa chỉ, gặp phải cô vợ anh vốn rất ghen tuông nên ba lần bảy lượt muốn gặp con mình mà không thể được. Tôi nhờ đến luật sư và phải năn nỉ ông bằng cách này hay cách khác để tôi được nhìn thấy con tôi ngay. Khi ra tòa, tòa nói, với sức khỏe hiện tại tôi không thể nuôi con và cho tôi một ân huệ mỗi năm chỉ được gặp con cho đến khi nào khỏi bệnh hẳn. Từ đó, cứ ba tháng hè, con lại về ở với tôi.
Niềm an ủi lớn nhất là, con tôi dù bao năm xa cách, rất ngoan, có hiếu và thương mẹ. Khi tôi làm cuốn băng để gửi về Việt Nam, hai mẹ con cùng nhau ghép vỏ, cùng nhau dán nhãn. Nó học kế toán, hiện giờ sống ở San Francisco, hiện cũng đã có vợ con, sống rất hiếu nghĩa.

- Trải qua bao bi thương như thế, mất mát như thế, cũng đồng nghĩa với việc con tim thời tuổi trẻ của chị không còn chỗ cho tình yêu ?

- May mắn là dù bị đẩy đến chốn cùng cực thì cuối cùng ông trời cũng cho tôi được rung cảm dù không kéo dài. Những ngày tôi cai nghiện ở Pháp, người con trai của ông chủ lúc đó đem lòng yêu tôi. Anh là một diễn viên kịch, hơn tôi 8 tuổi. Chúng tôi yêu nhau và tôi sinh cho anh được một đứa con trai.
Cuộc sống của chúng tôi cũng có những ngày hạnh phúc. Anh đi diễn, tôi đi hát. Trong chuyện tình cảm tôi là người nghiêm túc, gia đình anh rất quý tôi ở điều đó. Nhưng rồi một lần anh nửa đùa nửa thật: Ca sĩ đi bốn mùa thế, ai mà tin được có chung thủy hay không. Tôi giận quá, ngày hôm sau mua vé máy bay về Mỹ. Năm nay con cũng đã 23 tuổi và đang học về nhạc. Hai cha con thỉnh thoảng vẫn gặp nhau nhưng tình yêu mà tôi dành cho anh đã chết, có lẽ do tự ái của tôi cao quá.

- Hình như trải qua nhiều biến cố cuộc đời, đã có một thời gian dài chị nghỉ hát ? Thực tế là dù chị có xảy ra chuyện gì thì âm nhạc cũng không bỏ chị. Nó là nghiệp với chị. Nhưng cũng có thể nhìn nhận nó là một sự cứu rỗi ?

- Năm 1989 mẹ tôi đau nặng, tôi về Việt Nam tính nghỉ hát luôn nhưng sân khấu đã không phụ tôi. Có một người rất mê tiếng hát của tôi làm hẳn cho tôi một talk show Tâm tình với Kim Anh. Tiếng hát của tôi có dịp được hội ngộ khán giả dù gián tiếp và những băng hình tôi thu cũng từ thời điểm này. Nhưng năm 1992, mẹ mất, tôi sock nặng nên nghỉ hát luôn.
Không hát, cuộc sống rơi vào cơ cực, nên năm 2005, tôi xin đi hát trở lại. Tôi gọi cho Trúc Hồ nói tôi đã thực sự mệt mỏi, muốn lấy một số hình ảnh trong cuốn băng cũ làm băng, rồi lên sân khấu trở lại. Nhạc sĩ Anh Bằng nói, ai chứ Kim Anh thì nên giúp nó. Khán giả lúc này không ít người nghĩ tôi bê tha nghiện ngập nên cũng không muốn gần. Tôi lấy mọi can đảm để hát. Bộ trang phục cũ, nhưng hợp với bài hát, và giọng hát vẫn còn đủ độ say nên khán giả lại thương tôi trở lại như năm nào. Và bây giờ, trong nghệ thuật, tôi đang hồi sinh.

- Và bây giờ, khi sự nghiệp hồi sinh, cũng là lúc chị phải đối diện với sự cô độc của mình ?

- Không. Thực tế lúc này tôi đã bớt phần cô độc. Đúng hơn, dù không được sống trong cảm giác tình yêu mà vẫn thấy mình đang được nhận. Tôi hát khỏe hơn, mãnh lực hơn trước và vẫn cái tật xấu, mỗi lần lên sân khấu là phải uống rượu. Tôi không say bao giờ, càng uống càng tỉnh và càng hát hay hơn. Giờ này về Việt Nam, tôi đã, đang và sẽ đến các vùng sâu vùng xa hát cho đồng bào, ở những nơi họ không có điều kiện xem ca sĩ, nghe ca sĩ hát.
Tôi cũng tri ân với những người đồng hành với trái tim tôi trong một khoảng thời gian ngắn ngủi hay không ngắn ngủi thì tôi vẫn thấy trái tim mình vẫn còn biết nói với tình yêu. Người gần người đấy nhưng tôi thấy một ai đó thực sự hiểu và cảm thông với tôi vẫn còn ở đâu đó xa lắm, gần hết một đời người mà tôi vẫn chưa thấy. Hay để đến lúc tôi chết đi, người đó sẽ là người đặt hoa hồng vàng trên mộ tôi? Nếu như vậy, thì hạnh phúc có phù phiếm quá với một cõi người không nhỉ ?

- Cầu mong chị tìm được một hạnh phúc thực sự. Cảm ơn chị về cuộc trò chuyện !

Yên Huỳnh (theo Hoàng Nguyên Vũ)

MỜI CÁC BẠN NGHE QUA GIỌNG HÁT CỦA KIM ANH
Sau đây là vài bài hát (tiêu biểu) của Kim Anh, tùy các bạn thích bài nào thì click nghe lại bài đó.
Mùa Thu Lá Bay - Ca Sĩ : Kim Anh
Buon - Kim Anh
Nắng Chiều, Tiếng hát Kim Anh
Kim Anh - Rồi mai tôi đưa em
Đường xưa lối cũ - Kim Anh
Con thuyền không bến - Kim Anh
Nửa Đêm Ngoài Phố - Kim Anh
Sầu Lẻ Bóng - Kim Anh








2014/08/28


CẢM TÁC TỪ MỘT ĐÓA HỒNG

Một đóa hồng tươi, trổ muộn bông 
Gây bao phấn khích tận trong lòng 
Giọt sương trên lá, ôi chao đẹp!
Để hóa thành thơ, ảnh mấy dòng!

Trần Văn Dõng
August 18, 2014
MỘT MÙA TRĂNG*

Thêm một mùa trăng chất tuổi già
Vòng xoay con tạo chẳng buông tha
Ngu ngơ Ta vẫn chìm hơn Cuội
Lẩn thẩn Cuội còn trội  hẳn Ta!
Hạnh phúc dài lâu tìm khó được
Buồn đau bất chợt vốn thường mà!
Thơ còn hơi thở ru ta ngủ
Đêm lắng thu tàn dưới bóng nga!


Yên Dạ Thảo
24.08.2014

*Họa TỰ TÌNH của Phong Tâm

2014/08/25

*NAO DẠ TRUNG THU

Lóng lánh trăng thanh 
trải khắp nơi
Chợt nao nỗi nhớ chuyện qua rồi
Biệt ly cha kính buồn muôn thuở
Xa cách má thương khổ một đời
Nắng rớt chân trời mây ngả tím
Chiều rơi sườn núi tối lên ngôi
Thời gian thắm thoát xanh thành bạc
Dòng sống âm thầm trôi cứ trôi!


Anh Tú
August 25, 2014
THE DAYS OF SAIGON FALL_1975
Trên Hàng không mẫu hạm USS MIDWAY

Sài Gòn Của Tôi (Saigon of Mine)

SÀI-GÒN CỦA TÔI

2014/08/23

TỰ TÌNH*

Lặng ngắm trăng trêu cợt tuổi già,
Thời gian ám ảnh chẳng buông tha.
Mong gì Ta ngẩn ngơ như Cuội,
Có thể Cuội gần gũi với Ta?
Tập sống vô tình; hư cũng được,
Rèn quên ảo vọng; khỏe thôi mà!
Mỗi năm còn tiếng ru thơ ngủ,
Vẽ bức tranh Kiều, nhớ Tố Nga.

PHONGTÂM
(23.8.2014)
*Hoạ LÃO GIÀ ĐÊM TRUNG THU của Trương Văn Lũy


2014/08/22


CỘI GIÀ VÀ THU*

Dưới trăng rằm những mái đầu già
Nghe dế nỉ non giọng thiết tha.

Khúc nhạc vừa ca trao tặng bạn
Vần thơ mới viết gởi cho ta.
Bên này thơ ý còn tha thiết
Phía ấy nhạc hồn vẫn mặn mà.
Dù cuộc đời tang thương khổ lụy
Trung Thu h
ọp mặt cùng ngâm nga.

 Anh Tú
August 22, 2014

*Họa bài
LÃO GIÀ ĐÊM TRUNG THU

Trung Thu yên ắng một thân già
Ngắm mảnh Trăng Tròn dáng thướt tha
Trên ấy sáng trưng hình Chị Nguyệt
Dưới này hôi hổi bóng hình Ta
Hai đường tri kỷ đang vời vợi
Một khối tình chung vẫn mặn mà
Ngẩng mắt nhìn trời xin Thượng Đế
Cho đời trẻ mãi với Hằng Nga.

Trương Văn Lũy

ÁO LỤA

Nước ngập đồng, em đổi đường-đi hướng khác
Anh buồn một mình, chẳng được lẽo đẻo lao đao
Áo trắng chiều nay trong gió cuốn phương nào
Biết nơi đây, một linh hồn  khờ khạo lắm!

 Một Lúa
August 2014

2014/08/16


KHI NƯỚC NHẢY BỜ

Áo trắng chập chờn bay trước ngõ
Sáng chiều hai lượt nón che nghiêng
Đôi khi đuôi mắt nhanh và sắc
Chạm cửa nhà anh điên đảo điên.

Từ dạo bóng em trong xóm nhỏ
Có người thấp thỏm ngóng chờ mong
Làm đuôi từng bữa đưa cùng đón
Thiếu vắng một hôm ray rức lòng!

Phượng đã tàn ve sầu bặt tiếng
Nhảy bờ nước nổi tựu trường về
Im lìm đường cũ em đâu hởi
Có biết lòng anh nhớ tái tê?

Anh Tú
August 16, 2014


2014/08/12


TRĂNG BUỒN!

Trăng buồn, ngã bóng bên thềm,
Để hồn mộng tưởng môi mềm ai ru,
Trăng gầy khi tỏ, khi lu,
Nỗi lòng cô phụ, mịt mù tình xa…

Người giờ xa tít…trùng xa
Chỉ còn mộng ảo…giao hoà ngã nghiêng
Ngậm ngùi tình chẳng được duyên,
Sóng tình phai nhạt, tơ duyên bẽ bàng

Trăng buồn, người bước sang ngang
Trăng đành ôm mối mộng tàn …đắng cay
Ôi, tình sao quá chua cay
Nợ tình nặng, đủ trả vay một đời!

Cho dù người đã xa rời,
Trăng buồn, cô phụ một đời luyến thương!

Huỳnh Hương

2014/08/11

Những bài hát hay nhất của Quỳnh Giao

Qua đời ngày 24 tháng 7, 2014 tại Califonia, USA, sau một cơn bạo bịnh, thọ 68 tuổi

2014/08/09

ĐƯỜNG XA VẠN DẶM- Trịnh Công sơn
Trình bày: Hồng Nhung

0 pt

ĐÊM TRUNG NGUYÊN

Nước tro dừa lắng trong
Gội tóc, hong nắng chiều
Má cho Ba một thuở
Hương dầu dừa, hương cau.

Ngọn đèn đêm leo lét
Một đàn con vỡ vạc
Bà kể Lục Vân Tiên
Ông nghe đầu võng hát
Lụa mo cau vấn thuốc
Tàn khói lạc hương đồng…

Bây giờ sóng trên sông
Mưa trăng vàng nhấp nháy
Đêm Trung nguyên lặng thầm
Trôi theo dòng trôi mãi…
Mênh mông!…Mênh mông!…

Phong Tâm
(Mùa Vu Lan – 2014)


NHÀ HÀNG Ở NHẬT

Mời vào Link:
ANA YANG GAZILLION BUBBLE SHOW

2014/08/08

CLIP DÀNH CHO PHẬT TỬ



CÓ BAO GIỜ THƠ CHO MẸ TA KHÔNG !

Kể từ ngày biết làm thơ, viết văn từ năm mười mấy tuổi đến nay, tôi nhớ rằng mình đã làm hàng trăm bài thơ cho những chàng trai, rồi những người đàn ông đã đi qua đời mình. Những bài thơ hân hoan rộn rã cùng buồn bã tiếc thương, nhưng dường như chưa bao giờ có nổi một bài thơ trọn vẹn cho Mẹ của mình !
Bố tôi mất năm tôi 13 tuổi. Khi còn sống, Bố rất yêu chiều tôi, có lẽ vì tôi là con út. Tôi còn một anh và hai chị nữa, chị kế hơn tôi tới 5 tuổi. Khi tôi hơn 10 tuổi rồi vào mỗi bữa ăn, Bố vẫn gỡ hết xương trong cá rồi mới cho tôi ăn. Mỗi lần Bố đi công tác xa về , tôi đều nhảy cẩng lên vui mừng để được Bố ôm vào lòng xoa đầu âu yếm . Nên khi Bố mất, tôi cứ gào khóc rằng " Bố mất rồi , đâu còn ai thương con như Bố nữa". Có lẽ, lúc đó vì quá đau đớn tôi cảm thấy như thế. Hơn nữa, thuở ấy Mẹ tôi luôn bận rộn với bao chuyện nội trợ nhà cửa nên ít thể hiện tình thương ra bên ngoài với con cái, hoặc tôi vô tâm chưa nhận biết ?
Cho đến khi tôi 40 tuổi, Mẹ từ giã cõi đời, tôi mới hiểu nỗi đau mất Mẹ là to lớn và khủng khiếp đến nhường nào! Vì độc thân, suốt bao năm tháng dài tôi vẫn sống với Mẹ, dù đi làm xa nhà cuối mỗi tuần mới về cùng Mẹ. Do các anh chị đã lập gia đình hết, tất cả tình yêu mẹ gần như dành trọn cho tôi. Dẫu bấy nhiêu tuổi, trong mắt Mẹ, tôi vẫn chỉ là đứa gái yếu đuối bé nhỏ cần phải chăm sóc , chở che. Mẹ mất vào một ngày tháng giêng cách đây 20 năm. Tôi ngỡ chừng trái đất đã sụp đổ. Tôi ngồi khóc ngoài vườn, không hiểu sao trời vẫn xanh, mây vẫn trắng và nắng vẫn vàng được chứ. Trong lúc lòng tôi tràn ngập đau thương, tưởng như chẳng còn thiết sống. Nhưng rồi tôi vẫn phải tiếp tục thở và tồn tại. Phải mất nhiều ngày tháng sau đó, tôi mới tạm nguôi ngoai, hồi phục tinh thần bởi bao công việc bộn bề cùng những chuyến đi công tác xa gần liên miên.
Tuy nhiên, đến bây giờ mỗi khi nhớ về Mẹ, tôi vẫn nghe tim.mình đau nhói và vẫn khóc nghẹn ngào, ngay giây phút này cũng vậy.
Tôi luôn nghĩ mình không phải là một đứa con hiếu thảo, dù chẳng phải không yêu Mẹ và chưa khi nào làm gì sai với Mẹ,mà chỉ vì tôi là đứa con khiến Mẹ luôn phải bận tâm lo lắng nhất cho đến lúc lìa trần. Mẹ đã không an lòng nếu Mẹ mất đi, sẽ không có ai thương yêu chăm sóc cho tôi như Mẹ đã làm suốt bao tháng năm qua.
Nhưng Mẹ của con ơi, vượt qua niềm đau vô tận khi "đường xa vạn dặm, mẹ bỏ con đi" ( TCS ), con vẫn vững vàng bước tiếp đời mình với tình thương của gia đình, những người thân yêu cùng bạn bè thân mến. Giờ đây, ở một cõi thiêng xa vời nào, con mong Mẹ có thể tự hào về con với những thành công nhất định trên đường đời. Con gái yếu đuối của Mẹ, nay đã trở thành một phụ nữ mạnh mẽ, tự tin, hoàn toàn làm chủ được cuộc sống mình trên con đường đã chọn.
Tôi cũng sẽ không nói gì nhiều về Mẹ mình.
Nói rằng, Mẹ đã yêu thương , tận tụy, hy sinh vì con cái như thế nào ư ! Tôi nghĩ , Mẹ của ai chả thế !
Nói rằng, Mẹ cao cả, vĩ đại, tuyệt vời nhất trên đời ư ! Tôi nghĩ, có người Mẹ nào không như vậy !
Nói rằng, con biết ơn và thương yêu Mẹ vô cùng vô tận ư ! Tôi nghĩ, ai làm con mà chẳng cảm nhận điều này !
Có một bài thơ , khi đọc lần đầu tiên cách nay gần 30 năm, tôi đã không dám nhớ đến vì lúc đó Mẹ vẫn ở bên tôi.
Còn hiện tại, tôi muốn ghi lại nơi đây, để nhớ Mẹ và gửi đến bạn bè tôi, những ai không còn Mẹ . Cũng như những ai vẫn có niềm Hạnh phúc còn được cài một bông hồng đỏ, trên ngực áo nơi phía trái tim mình.

Nguyễn Như Thường




MẸ

Con sẽ không đợi một ngày kia…
khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc
Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Con hốt hoảng trước thời gian khắc nghiệt
Chạy điên cuồng qua tuổi mẹ già nua
mỗi ngày qua con lại thấy bơ vơ
ai níu nổi thời gian?
ai níu nổi bao giờ?
Con mỗi ngày một lớn lên
Mẹ mỗi ngày thêm già cỗi
Cuộc hành trình thầm lặng phía hoàng hôn.
Con sẽ không đợi một ngày kia
có người cài lên áo cho con một nụ bạch hồng
mới thảng thốt nhận ra mình mất mẹ
mỗi ngày đi qua đang cài cho con một bông hồng
hoa đẹp đấy – cớ sao lòng hoảng sợ?
Giọt nước mắt kia bao lâu nữa của mình?
Ta ra đi mười năm xa vòng tay của mẹ
Sống tự do như một cánh chim bằng
Ta làm thơ cho đời và biết bao nhiêu người con gái
Có bao giờ thơ cho mẹ ta không?
Những bài thơ chất ngập cả tâm hồn
đau khổ – chia lìa – buồn vui – hạnh phúc
Có những bàn chân đã giẫm xuống trái tim ta độc ác
mà ta vẫn cứ đêm về thao thức làm thơ
ta quên mất thềm xưa dáng mẹ ngồi chờ
giọt nước mắt già nua không ứa nổi
ta mê mải trên bàn chân rong ruổi
mắt mẹ già thầm lặng dõi sau lưng
Khi gai đời đâm ứa máu bàn chân
mấy kẻ đi qua
mấy người dừng lại?
Sao mẹ già ở cách xa đến vậy
trái tim âu lo đã giục giã đi tìm
ta vẫn vô tình
ta vẫn thản nhiên?

Đỗ Trung Quân


0 lll

MẸ TÔI

Mẹ tôi một thuở chai tay
Nuôi đàn con dại tháng ngày lớn lên
Tình thương như biển mông mênh
Tuổi già xế bóng buồn tênh một mình

Một Lúa


2014/08/07

 LỆ QUYÊN VỚI NHỮNG TÌNH KHÚC XƯA 

VU LAN

Dùi dộng gióng u minh
Phong Đô hoa trắng nở
Xòe ra ngàn cánh mở
Ngân vang trời siêu sinh

Hồng Băng
Thánh Thất TràVinh, VL.2013


2014/08/06


VU LAN

Vu Lan ̣đã về mẹ ở đâu?
Con mãi buông trôi những giọt sầu
Thương nhớ mẹ hiền qua năm tháng
Đêm ngày trăn trở đếm mưa ngâu.


Hoài Thương
01.08.2014


RẰM THÁNG BẢY 

Nhớ xưa Rằm Tháng Bảy
Kiền Liên cứu Mẹ già
Thoát cực hình ngạ quỹ
Chốn địa phủ âm ty

Hôm nay Rằm Tháng Bảy
Con nhớ thương Mẹ già
Vu Lan Mùa Báo Hiếu
Cầu xin Mẹ tiêu diêu

Ngày sau Rằm Tháng Bảy
Con kính yêu Mẹ già
Suốt đời vì con trẻ
Đóa hồng dâng Mẹ yêu

Hằng năm Rằm Tháng Bảy
Mẹ Cha dẫu sanh tiền
Hay dù người quá cố
Ta mãi biết kính yêu…


Phú Thạnh
Mùa Vu Lan 2014

2014/08/05


*LẠI LÀ MẸ*

Trời đã khuya còn bên bếp lửa
Long lanh ánh mắt rọi đêm đen
Từng lọn rơm thơm mùi lúa mới
Chập chờn leo lét cháy thay đèn.

Nồi bánh dở vung vừa chín tới
Mĩm cười tay vội quẹt mồ hôi
Đòn tét chợ mai nằm yên đợi
Mẹ tôi! Thương quá dạ bồi hồi…!

Anh Tú
August 5, 2014

*Từ MẸ, BẾP LỬA HỒNG của Hoành Châu

RỖNG*

Là trống rỗng…không gian vắng ngắt
Đó đây cây lá đứng im lìm
Mây ngừng bay trời cao trong vắt
Ngờ ngợ trong ta lạnh máu tim!

Anh Tú
August 5, 2014
*Từ TĨNH LẶNG của Huỳnh Hương

MẸ , BẾP LỬA HỒNG


Sáng nao ngày nắng đẹp,
Mẹ thắp đốt lửa hồng,
Bập bùng khung cửa hẹp,
Vỏ dừa reo hanh thông.
Sáng nao sương còn vương ,
Dáng mẹ ôi thân thương
Than dừa reo  tí tách,
Khói ươm nồng hơi sương !
Ấm lòng nhờ “cơm hấp “
Mẹ hôm sớm lo toan
Đến trường con hấp tấp,
Vì em nhỏ hiền ngoan !!

********

Sáng nay con thức dậy,
Thèm "cơm hấp" thuở nào, 
Bâng khuâng mùa tháng bảy
Buồn sao hoa trắng ơi !



Hoành Châu
(Mùa Vu Lan 2001)
0 h 0

TĨNH LẶNG

Để thời gian như chìm vào tĩnh lặng
Ánh đèn vàng…thương lắm phút đơn côi
Để đôi khi ta phải tự hỏi lòng
Có phải chăng là …một thoáng quá mông lung?

Huỳnh Hương

2014/08/03


SÓNG CỔ CHIÊN*

Có lần đến bến Đình Khao 
Nghe tiếng sóng động lao xao trong lòng.
Bao năm biệt xứ hằng mong
Một ngày trở lại thăm giòng sông xưa!


Anh Tú
August 2, 2014

*Cảm tác nhân đợc bài LẦN ĐẦU ĐÊN BẮC CỔ CHIÊN tại:

http://anhtuvaban.blogspot.com/2013/11/xuong-lan-au-en-bac-cochien-xe-toi-co.html

CHÚNG TÔI MỌC RỄ YÊU THƯƠNG*

 1. Việt Nam
            Chúng tôi gặp nhau và thành hôn năm tôi 30 tuổi, đã một lần ly dị và có hai đứa con.Ông xã thì cũng 30 tuổi và còn là trai tơ. Khi bà chị biết chúng tôi muốn làm đám cưới, bà nói thẳng thắn: “em ơi, một khi lấy Mỹ thì sẽ bị người ta cười chê thúi đầu, vậy sao không lựa  một thằng tóc vàng, mắt xanh, cao lớn, đẹp trai để bù lại mà lại đi lấy một thằng tóc đen, mắt nâu, hơi lùn nữa, vậy được cái gì?”.
           Tôi nhìn người chị, buồn bã nói : “Chị Hai ơi, em đã có hai đứa con rồi. Thật khó khăn khi em phải vừa kiếm chồng cho em vừa kiếm cha cho hai đứa nhỏ. Ảnh thương em và đối với hai đứa nó thật tốt. Mấy người khác  chỉ thương em mà thôi, không cần hai đứa nhỏ!”
          Và quả nhiên Trời Phật cũng thương cho những nỗi bất hạnh mà tôi đã nếm trải trong đời nên đã cho tôi không những một người chồng mà còn là một người cha và là một người ơn nữa.
           Vùng I chiến thuật lấy Đà Nẵng (nơi tôi và ông xã gặp nhau) làm thủ phủ nên có rất nhiều bộ chỉ huy trong đó có nhà thương của hải quân Mỹ là trung tâm y tế cho tất cả binh sĩ Mỹ trong vùng. Qua khỏi ngã tư Mỹ Khê, quẹo mặt để đi vào núi Non Nước, nằm về phía tây mặt là nhà thương. Tôi đoán nó chiếm trọn ít nhứt là năm mẫu đất với các trung tâm y tế  mổ xẻ, chữa trị đủ loại, nhà ở cho binh sĩ và dĩ nhiên là một nhà xác!
           Trước mặt nhà thương là một bãi đáp trực thăng để tải các thương binh, các chiến sĩ tử trận từ các chiến trường vùng I. Mỗi lần trực thăng đáp xuống thì con đường xe chạy được các quân cảnh  Mỹ chận lại, từng chiếc cáng được vội vã khiêng ra chạy thẳng vào cổng chánh, có người sẽ tỉnh lại với một cái chân nằm đâu đó trong lá rừng rậm rạp, có người sẽ được trở về quê hương dưới lá cờ phủ kín, có người sẽ ngậm ngùi từ biệt những giấc mơ vì cánh tay đã mất, gương mặt đã bị tàn phá, linh hồn đã bị tổn thương…
           Vì ông xã thuộc binh chủng hải quân và đóng quân trong nhà thương nên tôi đã có biết bao lần phải ngừng xe, tắt máy, ngồi nhìn những bước chân vội vã, những gương mặt chịu đựng, những ánh mắt buồn hiu của những người tải thương.  Mỗi khi có một cái cáng phủ cờ Việt Nam hay Mỹ thì những người Mỹ xuống xe đứng nghiêm chỉnh đưa tay chào vĩnh biệt. Tôi ít khi thấy thương binh ViệtNam, có thể vì họ được chuyển tới một trung tâm y tế khác. Chỉ có một lần tôi thấy một cái cáng được khiêng ra khỏi cửa trực thăng, lá cờ Việt Nam phủ kín. Tôi không thấy mặt cũng như binh chủng của tử sĩ nhưng một người đàn bà đầu tóc rũ rượi , cánh tay quấn  băng treo vào vai còn đẫm máu đang lảo đảo nhảy ra khỏi cửa trực thăng. Tóc chị trước kia chắc được cột lại bằng dây thun, nay chỉ còn một vài lọn lỏng lẽo trên đỉnh đầu còn bao nhiêu thì thả dài rối rắm xung quanh mặt.
           Bạn ơi, hình ảnh đau thương nhứt không phải là cái cáng có người chết nằm phủ kín lá cờ vàng chói, không phải dòng nước mắt đầm đìa trên mặt người sống sót mà là một miếng băng vải mỏng dùng  để quấn vết thương. Nó bị dơ vì đất và máu. Nó chỉ dài bằng một chiếc khăn mùi xoa. Nhưng nó lại được người vợ trân trọng để ngang lên trán, dùng một cọng lạt dừa cột vòng lại sau đầu. Mảnh khăn tang được vội vã quấn tạm thời nhưng sự ly biệt thì  chắc chắn ngàn trùng xa cách. Người thiếu phụ Việt Nam đang để tang cho người chồng chiến sĩ đã hy sinh vì tổ quốc!
           Tôi không ra khỏi xe chào vĩnh biệt người chiến binh nhưng gục mặt vào tay lái nước mắt tuôn rơi khóc thương cho những đứa trẻ  đang quẩn quanh trong thôn xóm chờ cha trở lại . Tôi tưởng tượng tới lúc gia đình nghe tiếng chuông reo, mở cửa ra và thấy một người binh sĩ đứng trước mặt với cái nón cầm trên tay.Người mẹ ở ngàn dặm xa kia có ngã xuống vì trái tim tan nát ?... Một cái gì dó nhen nhúm trong tâm hồn tôi. Chiến tranh tiếp diễn cho tới một lúc nào đó thì hòa ước được ký, quân đội Mỹ rút lui.
           Anh nấn ná xin ở lại Việt Nam và là nhóm binh sĩ cuối cùng ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhất vào đầu năm 73. Tháng sáu 73, tôi sanh đứa con trai đầu lòng của anh. Tháng Chín năm 74 tôi qua Mỹ thăm anh tiện thể thăm dò chuyện xuất nhập cảng. Chúng tôi dự định chờ anh ra khỏi quân đội và sẽ về sinh sống tại VN.  Điều kiện để tôi nói “ I do” là chúng tôi phải ở ViệtNam và sẽ có bảy đứa con.  Tôi nào biết trời cao đất rộng là gì, chỉ biết rằng tôi rất ham con và bảy đứa là một con số chấp nhận của gia đình VN, đâu nghĩ rằng đối với người Mỹ hai đứa là lý tưởng, ba đứa là chau mày, bốn đứa là nổi điên, năm đứa là tan nát, sáu đứa là thảm họa mà bảy đứa là… rồi đời!
           Thời cuộc thay đổi, đến tháng Ba năm 75 thì tôi quay về Việt Nam để đón các con. Lúc đó tôi đang có thai đứa thứ hai được bảy tháng. Khi còn bên Mỹ, qua tin tức trên báo và tin rỉ ra trong quân đội thì chúng tôi biết chắc là Saigon sẽ mất, nhưng khi về Việt Nam thì Saigòn vẫn vui vẻ, vẫn bình yên. Rạp chiếu bóng vẫn hát, tiệm ăn vẫn mở cửa, đám cưới  vẫn tiến hành, tình yêu vẫn nở hoa… Tôi thầm cằn nhằn báo chí Mỹ thật là dỏm, toàn là đưa tin vịt không hà.
           Nhưng với ngày qua, mọi việc có vẻ tệ hơn. Nhóm người quen bán hột xoàn với mẹ con tôi cùng nhau an ủi rằng “bà Mỹ” còn ở đây chưa chạy thì lo gì. Ông xã tôi kêu điện thọai ngày một hối thúc tôi ra đi.  Tôi trả lời là má tôi không cho đi, sợ về Mỹ sanh rồi lấy ai săn sóc, làm sao có củi lửa để hơ, có lá xông để tắm, có nghệ vàng để thoa mặt v.v.. Sanh xong rồi tôi sẽ qua.
            Một tuần sau tôi mất liên lạc với anh.
            Ngày 20 tháng tư 75 một trung sĩ VN lái xe jeep đến nhà tôi, gõ cữa:
            “Xin lỗi đây có phải là nhà của bà Lê Thị Hoa không?”.
            Tôi trả lời:
            “Trung sĩ ơi, ở đây không có bà Lê Thị Hoa chắc trung sĩ muốn kiếm bà Lệ Hoa phải không?”
            Viên trung sĩ vội nói:
            “Tôi cũng không biết chắc. Tôi làm việc cho ban an ninh phi trường và được lịnh tới đây chở cái bà có chồng Mỹ lên gặp đại tá Mỹ phụ tá tùy viên quân sự…”.
           Tôi  cầm lấy giấy và thấy tên tôi. Tôi vội dẫn theo hai đứa con nhỏ nhất lên phi trường TSN. Khi vào văn phòng,vị đại tá cho tôi biết là ông xã đã liên lạc với cơ quan của ông và nhờ họ giúp tôi và các con phương tiện để rời Việt Nam.
           Vị đại tá nhìn xấp tài liệu nói:
 “ Chồng bà yêu cầu toà đại sứ giúp đở bà và ba đứa con di tản khỏi VN lập tức. Xin bà hãy để hai đứa trẻ nầy lại đây cho cô thơ ký tôi trông chừng, còn bà thì theo xe trở lại nhà và dẫn đứa thứ ba tới đây, chúng tôi sẽ làm giấy tờ và gia đình bà sẽ ra đi nội trong ngày nay”.
           Tôi ngẩn ngơ nhìn vị đại tá ngồi nghiêm chỉnh trước mặt:
            “Ngài đại tá, ngài có nói chơi không? Tôi  sanh ra, lớn lên, sống ba mươi lăm năm tại non nước nầy giữa cha mẹ, thân nhân, bạn bè… và bây giờ ngài cho tôi hai tiếng đồng hồ để từ bỏ tất cả… xin ngài hãy nói là ngài nói chơi, chuyện nầy không có thật..”
           Nước mắt tôi ứa ra và chắc là tôi có vẻ bi thương của một con thú sắp chết nên vị đại tá rộng lượng nhìn tôi :
            “Tôi biết tình cảm của bà. Thôi bà hãy dẫn con về và ngày mai trở lại. Ngày mai, bà có nghe rõ không? Chuyện đầu tiên bà thức dậy ngày mai là cùng ba con lên xe đến đây. Tôi sẽ gởi người trung sĩ nầy đến nhà bà sáng mai.”
           Tôi về nhà và cả nhà bắt đầu khóc. Tôi đi lên đi xuống thang lầu, mở các hộc tủ ra  rồi đóng lại, ra sân thượng nhìn chậu cúc héo queo, xuống nhà bếp ngồi lên bộ ván ngựa,vô nhà tắm rờ rờ cái lon múc nước, ra phòng khách nằm lên võng đưa kẽo kẹt… Tôi như người mộng du, làm tất cả những hành động vô nghĩa đó với tiếng khóc hụ hụ.
           Ba giờ chiều tôi gọi điện thoại cho vị đại tá biết là vì tôi bị xúc động nên đã động đến cái thai. Hiện giờ tôi đang ra huyết và bác sĩ cấm không cho tôi di chuyển cho đến ba ngày sau. Dĩ nhiên vị đại tá không dám giỡn vói tánh mạng người khác nên phải đồng ý cho tôi thêm ba ngày nữa.  Tôi không nghĩ là sau ba ngày đó tôi còn có đươc một giọt nước mắt nào nữa trong cuộc đời.
           Ba má tôi không đi vì tôi có người anh đi tập kết: ông bà chờ sự trở lại. Anh rể tôi không đi vì là sĩ quan cộng hoà: sợ mang tội trốn lính.  Chị tôi không đi vì theo chồng.
          Ba đứa cháu trai theo tôi vì sợ sẽ phải bị đày đi lính. Một đứa cháu gái theo tôi vì sợ sẽ bị gả ép cho thương phế binh.
            Vì thế ba ngày sau tôi mang một bụng bầu tám tháng và bảy đứa nhỏ lên phi trường. Vị đại tá nhìn tôi như nhìn con quái vật:
            “Xin lỗi bà, theo giấy tờ thì tôi chỉ có quyền cho bà và ba đứa con của bà đi. Hiện tại bà có tới bảy đứa! tôi thật không thể giúp bà”
           Khi người ta phải phấn đấu cho sự sống chết thì can đảm và khôn ngoan ở đâu bất chợt hiện ra. Tôi nhẹ nhàng nói:
            “Tôi hiểu thưa đại tá. Tôi không trách ông. Nhưng đây là những đứa cháu tôi nuôi từ nhỏ giống như con tôi vậy. Nếu ngài không cho chúng đi thì mẹ con  tôi cũng xin ở lại.”
           Vị đại tá bối rối nhìn tôi. Có lẽ ông đã biết rằng rồi thì VN sẽ mất, rồi thì một làn sóng người sẽ cuồn cuộn ra đi. Sớm một vài ngày, bốn đứa trẻ nầy có thấm gì đối với số người đang rần rộ chen lấn ngoài kia. Ông thở dài, ngồi xuống ghế ký cái công văn eight months pregnant  wife and seven children of US citizen need to be evacuated rồi đưa cho tôi. Chúng tôi theo dòng thác  người nhớn nhác ra đi.
           Tôi sẽ không kể lể dài dòng về cuộc di tản của chúng tôi tuy rằng với cái bụng bầu 8 tháng, 7 đứa nhỏ  từ hai tới mười ba tuổi, không một người đàn ông bên cạnh thì chuyến hành trình nầy không phải là một cuộc du lịch nhàn hạ. Nhưng so với những khổ não, những đau thương, những thảm cảnh mà đồng bào ta gánh chịu sau nầy với các cuộc vượt biên thì thật nó chẳng thấm tháp vào đâu.

2. Hoa Kỳ.

            Chúng tôi tới Camp Pendleton ngày 15 tháng 5 năm 1975. Anh đang đóng quân ở  Ferndale, một tỉnh lẻ nhỏ nhắn hiền hoà chỉ có bảy ngàn dân, cách San Francisco  sáu tiếng đường xe về hướng bắc. Lúc đó chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Nga Sô vẫn tồn tại nên đây là một căn cứ hải quân rất quan trọng nằm trên một ngọn đồi cao ngó ra biển. Các đài radar tối tân được đặt cùng khắp để theo dõi các tàu ngầm xâm phạm bất hợp pháp vào hải phận Mỹ và California.
            Khí trời California lúc đó  là 75 độ mà mọi người lạnh cóng.  Đêm thứ hai tại camp, anh lái xe một lèo 16 tiếng để đến đón mẹ con tôi. Mười một giờ khuya một người lính Mỹ đến lều để dẫn tôi lên văn phòng nơi anh đang làm thủ tục.
            Bạn có biết lúc đó tôi giống ai không?
            Không Giống Ai Hết!     
Đây là một người đàn bà 36 tuổi, tóc hơi dính chùm lại vì cát bụi, mặt hõm vào, gò má bị nám, mặc một cái áo dài xanh bên hông chỉ gài được một nút ở dưới nách vì thai bụng quá lớn, ngoài khoác một áo bầu thùng thình màu trắng, đầu trùm cái mền xám cột thắt dưới cằm, chiều dài mền thả phấp phới sau lưng. Le lói hơn nữa là người lính Mỹ trẻ thấy tôi run cầm cập nên cởi cái áo lính trận ra, trước mặt đầy những túi để dao găm, lựu đạn v…v và trùm lên tôi. Tôi bước vào căn lều. Bàn làm việc nằm cuối phòng và anh đang đứng cúi xuống ký giấy tờ.
            Chưa bao giờ trong đời tôi lại bước những bước chân nhẹ nhàng, nặng nề, tủi hổ, hoang mang, giải thoát, run sợ như lúc đó. Đây là lúc bắt đầu cho những ngày tươi sáng với xum hợp thương yêu, với nhà lầu chọc trời, với ngựa xe rộn rả, với tương lai đại học hay là lúc chấm dứt cho dòng sông Hậu hiền hòa với hàng dừa nặng trái, lúc từ giã những hàng me xanh thân yêu Trần Quý Cáp,  lúc quay lưng lại với bến Ninh Kiều đằm thắm xinh tươi, lúc quì lạy cha mẹ quê hương nói lời vĩnh biệt?
            Tiếng bước chân tôi làm anh quay lại. Anh bước tới ôm lấy tôi. Tôi cố gắng để khỏi ngất đi, quì xuống sàn nhà, tay ôm lấy mặt và nghẹn ngào: “Oh My God honey, I lost my family, I lost my country, I lost everything!” rồi tôi khóc nức nở. Anh quì xuống ôm đầu tôi. Anh cũng khóc. Tất cả người Mỹ trong phòng đều rưng rưng.
            Ngày 13 tháng 6 năm 1975 tôi sanh cháu Jimmy. Tháng 9 tựu trường, tôi gởi hai đứa nhỏ nhất cho cô bạn,đi làm phụ giáo lớp một trường tiểu học Ferndale, hai đô la rưởi một giờ.
            Hè 1976, tôi đứng bán hot dog trong hội chợ và ba thằng lớn thì đi dọn rửa phân ngựa trong trường đua. Lúc đó chánh phủ Mỹ còn giàu nên cứ hai năm là các quân nhân được dổi tới một trạm binh khác. Tôi thấy tụi nhỏ rất buồn và sợ rằng sự dời chỗ thường xuyên sẽ làm tụi nó hụt hẫng vì xa bạn nên khuyên anh giải ngũ. Và chúng tôi dọn xuống miền nam California, tỉnh La Habra.
            Tôi thì để tất cả sự nghiệp lại ViệtNam, anh thì trước khi biến cố ViệtNam xảy ra, đã bị thua lỗ tất cả vốn liếng trong một vụ hùn hạp mở tiệm in với một nhóm dân sự nên chúng tôi hoàn toàn… sạch sẽ.  Khi đi mướn nhà ở đường Dexford, La Habra,  chúng tôi chỉ dẫn theo bốn dứa nhỏ nhất, hai trai hai gái. Chủ nhà là một người đàn ông Mỹ dễ thương, khi biết anh vừa giải ngủ thì rất vui vẻ nói:
            “Ô, căn nhà nầy có ba phòng lớn, thật là lý tưởng cho gia đình ông bà với hai trai hai gái. Tôi rất vui lòng cho ông bà mướn”.
            Chúng tôi dở khóc dở cười. Anh là người ít nói và chậm chạp nên tôi bèn duyên dáng cười cười nhìn ông:
            “ Thưa ông, nếu tôi nói với ông là chúng tôi có tám đứa con thì ông có tin chúng tôi không?”
            Lần nầy thì chủ nhà nhìn chúng tôi dở khóc dở cười. Ông ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
            “Thôi được, tôi đồng ý cho ông bà mướn. Mỗi tháng tôi sẽ đích thân đến thâu tiền nhà. Hy vọng là mọi sự sẽ tốt đẹp”.
            Ông đâu có biết rằng tên tôi là Lệ Hoa nghiã là một bông hoa mỹ lệ, đẹp đẽ chớ chẳng phài là nước mắt của hoa nghe bạn. Vì thế tôi thích trồng bông, thích vườn tược. Tôi sanh ra và lớn lên ở Cần Thơ, bà con sống ở Ô Môn, Thới Lai , Phong Điền, Cờ Đỏ nên mỗi mùa hè chị em tôi thường về vườn đi cầu khỉ, chèo ghe, bắt ốc gạo, hái vú sữa. Cái chất vườn nam bộ đã ăn sâu vào máu tôi nên hiện giờ nhiều người còn cho rằng tôi không có vẻ gì là văn minh như người ViệtNam sống ở Mỹ. Biết sao!
            Sau khi dọn vô, tôi và các con hì hục cuốc đất, đổ phân và biến cái sân trống rỗng của ông thành ra một cái vườn đầy hoa vạn thọ (đây là để honor má tôi vì bà rất thích bông vạn thọ). Tháng sau khi ông tới thu tiền nhà thì ông ngẫn ngơ và phán một câu “Tôi không cần phải tới tận nhà thâu tiền nữa, bà cứ viết check gởi cho tôi là được. Cám ơn bà về những bông vạn thọ.”
            Một vài người quen xúi tôi xin đi làm waitress vì nghề nầy tiền lương chẳng bao nhiêu nhưng tiền tip thì …ăn chết không hết. Trời ơi tôi nghĩ tới cái viễn cảnh , anh sẽ đi làm, tôi sẽ đi làm lại còn tiền hưu trí từ quân đội nữa thì quả nhiên là... ăn chết không hết! Tôi vội vàng vác đơn tới tiệm Red Lobster gần nhà xin việc. Người manager hỏi bà có làm waitress bao giờ chưa? Dạ chưa. Bà có khi nào làm chủ nhà hàng chưa? Dạ chưa. Cứ bà có bà có bà có…,  dạ chưa dạ chưa dạ chưa… và thế là tiền ăn chết không hết chỉ là mộng ảo.
            Tôi mua tờ báo thấy rao là “Chương trình CETA của chánh phủ sẽ trả tiền trường cho một năm học để giúp bạn học các nghề văn phòng  như thơ ký, kế toán, phụ tá hành chánh  v.v… Mỗi tuần chương trình sẽ tặng bạn bốn chục đô để di chuyển và sau khi tốt nghiệp sẽ kiếm việc làm cho bạn…”. Tôi nói với anh đây chắc hẳn là một sự lường gạt vì làm gì lại có sự tốt đẹp như thế. Anh thì  lớn lên đã nhập ngũ, phần nhiều thời gian nếu không lang thang trên biển cả thì cũng đóng quân ở một xứ khác ngoài Mỹ nên đối với xã hội dân sự cũng có chút bỡ ngỡ. Tôi hăng hái tới cơ quan xin vào chương trình thơ ký. Người phụ trách chương trình thấy tôi là người tị nạn, chồng lại là cựu quân nhân, hình dạng có vẻ nghèo nên thương tôi. Sau  khi nói chuyện và đọc cho tôi viết một đoạn anh văn , bà nhận tôi vào chương trình thơ ký. Khi tôi lui cui làm giấy tờ, bà dịu dàng hỏi:
            “Bà có giỏi toán không? Làm nhân viên kế toán thì nhiều lương hơn thơ ký thường và rất dễ kiếm việc làm.”
            Tôi không dám trả lời vì không biết “toán” của bà thuộc về loại gì nên ngập ngừng:
            “Dạ tôi cũng không biết chắc.”
            Bà lấy ra một bài thi toán đưa cho tôi. Ái dà, bà ơi. Có phải là bà đang chà đạp cái trường Gia Long của tôi không? Tôi là học sinh đệ nhất A đây nha bà, dù tôi không được như bà Dương Nguyệt Ánh ngày nay phát minh ra cái gì là bom tìm nhiệt  thì ba cái 25% của 100 là bao nhiêu, 1/3 của 75 có lớn hơn 2/3 của 40 không v.v.. là cái chuyện nhắm mắt cũng trả lời được.
            Một năm sau tôi được giới thiệu vào làm cho công ty nhà hàng Dennys, bộ phận kế toán xuất nhập.
            Làm việc bảy năm tại Dennys tôi đã học được biết bao điều về gia đình, xã hội, dân tình Mỹ. Trong những buổi ăn trưa tôi học đan áo, học móc khăn, học cách nấu món ăn Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, học cách dạy con, cách đối xử với chồng, học cách không bao bạn ăn để rồi kể lể khi giận hờn nhau,  mà mạnh ai nấy móc túi trả phần mình và tình bạn thì không bao giờ sứt mẻ.
            Những người bạn ngoại quốc mới nầy giúp tôi hoàn thiện ngôn ngữ, hiểu rõ những tiếng lóng, sử dụng thành thục những thành ngữ, trả lời điện thoại một cách chuyên nghiệp. Giúp tôi biết nói cám ơn với con cái. Biết dằn lòng không mở thư của chúng ra kiểm soát. Biết chỉ dẫn chúng tự thực nghiệm cuộc đời hơn là bao che lầm lỗi. Biết nói xin lỗi khi phạm phải sai trái.  Biết văn minh không phải là mặc áo hở ngực hở mông mà là tuân thủ theo hiến pháp. Biết tự do không phải là mạnh ai nấy làm mà là kính trọng nhân vị của chính mình và của đồng loại. Biết thành công là nhờ vào sự mẫn cán, học hỏi, cầu tiến chớ không nhờ vào nịnh bợ lấy lòng. Biết các sắc dân khác cũng đầy thương yêu và nhiều đau khổ. Biết kính trọng người Mỹ đen. Biết thương yêu người Mễ nghèo. Họ cười lăn lóc với cái accent Á đông của tôi nhưng họ không chê tôi dốt nát. Họ chỉnh sửa lại những tiếng tôi dùng sai trật nhưng không có ý khinh khi. Họ không đánh giá tôi cao vì tôi đến từ gia đình trưởng giả như tôi khoe khoang. Họ không nhìn tôi thấp kém vì tôi thuộc third world country như báo chí thường đăng tải. Họ nhìn tôi giống như họ, một người vợ, một người mẹ đang cố gắng kiếm tiền một cách lương thiện để giúp chồng nuôi dạy đàn con.
            Chín muơi phần trăm nhân viên kế toán là đàn bà. Đây là những bà mẹ, bà vợ ban ngày làm toàn thời gian, chiều về nấu ăn chăm lo con cái, cuối tuần giặt giũ, lau chùi nhà cửa, dạy con làm bài tập, đi chợ, đi chơi với gia đình.  Họ sống bình thường mà còn giỏi hơn tôi là đằng khác.Vậy mà khi xưa tôi cứ nghĩ đàn bà Mỹ là đồ bỏ. Tôi mang tội khinh người.  Khi ở ViệtNam tôi ít khi nào giặt quần áo cho tôi, cho chồng, cho con. Tôi chưa khi  nào lau chùi cầu tiêu, thức khuya dậy sớm cho con bú, kiểm soát từng bài văn điểm toán cho con. Tất cả đều có anh tài xế, chị vú, anh bồi, chị bếp, cô giáo dạy kèm. Biết bao người đã than trời trách đất rằng sống ở đây sao mà cực quá, xã hội gì mà sướng đâu không thấy chỉ thấy  cái gì cũng tự mình làm, thời gian hưởng thụ chẳng bao nhiêu mà làm việc thì quay tròn như chong chóng chẳng lúc nào ngừng. Cực ơi là cực.  Chỉ chăm chăm muốn về ViệtNam hưởng thụ.
            Bạn ơi, bạn hãy dừng chân một bước. Bạn hãy mỉm cười cầm từng món đồ dơ bỏ vào máy giặt, nhìn vết bẩn trên chỗ đầu gối và hình dung lại gương mặt mếu máo đáng yêu của  con nhỏ khi té quị xuống bải cỏ,  nhớ lại ánh mắt chờ mong  tin tưởng của con khi mẹ đến đỡ lên. Bạn hãy nhìn cả nhà húp xột xoạt chén canh bầu, cùng chia nhau miếng sườn nướng, cuộn chả giò. Bạn hãy cúi xuống đứa bé đang nở nụ cười ngây thơ chờ mong bình sữa bạn đang đu đưa trước mặt. Bạn hãy vừa xào món tàu hủ vừa trả lời thằng con đang cắm cúi làm bài tập bên kia bàn là  Los Angeles không phải là thủ phủ của California con ơi. Thủ phủ của CA là Sacramento hoặc   square of three is not three, its nine. Và năm phút sau đứa con vui vẻ đứng dậy: “Thank you mom( or dad). My home work is done”.
            Đây mới chính là lúc bạn  sống, là lúc mà bạn xuyên thủng qua lớp giáp để linh hồn và huyết nhục bạn và gia đình cùng hoà quyện vào nhau. Đây chính là lúc hột mè trí tuệ nảy nở trong các con do bạn gieo xuống, lúc hạt giống tình yêu thẩm thấu vào linh hồn chúng do bạn cày cấy vào.Chúng sẽ lớn lên với ân cần bạn gởi vào chén cơm, với giúp đỡ bạn xẻ chia  trong bài tập, với thương yêu bạn vuốt thẳng áo quần, với mồ hôi bạn chảy dài trong trận đấu.Và vợ chồng bạn có cùng một trận tuyến, cùng một hướng nhìn.
            Trong suốt mấy chục năm  sống trên đất Mỹ tôi thỉnh thoảng bị kỳ thị chung bởi những người lạ vì tôi  là người Á đông nhưng chính bản thân tôi,  tôi chưa hề gặp sự kỳ thị nào có lẽ vì tôi đã sớm hoà nhập vào xã hội nầy, tôi quên bỏ cái ý tưởng tự cao, nhìn cái gì của người cũng cho là không bằng ViệtNam. Đàn ông, đàn bà, ấm thực, ngôn ngữ, văn hoá, phong tục, đối xử, giáo dục, gia đình… cái gì Mỹ cũng thua ViệtNam hết, đừng cho con cái giao thiệp thân mật với trẻ con Mỹ mà bị hư, không dạy được! Tôi thì nghĩ là không có khu vườn nào hoàn toàn, không có ít nhiều cỏ dại. Tôi thành thật học hỏi, công bình so sánh, loại bỏ điều xấu, áp dụng điều tốt và biết ơn những bài học mới mẻ, những đối xử nhân đạo, những giúp đở trân quí mà tôi và gia đình đã hưởng nhận. Và khi quì trước mặt đấng tối cao, lòng tôi thanh thản khi tự biết mình là một người biết ơn và trả ơn với tất cả trái tim.
            Tôi đã từ bỏ quê hương điêu tàn, đã quay lưng với tương lai đen tối. Tôi đã chọn một nơi khác để cất nhà, một miếng đất khác để gieo hạt. Tôi đã dùng nước sông của họ để tưới tẩm, dùng đồi núi của họ để chăn nuôi. Tôi đã dùng chất xám của họ để tiến thân, dùng lòng tốt của họ để sống còn. Tôi không bao giờ quên dòng máu Việt trong tôi nhưng tôi sẽ không ngồi đó nhìn non nước nầy, dân tộc nầy với một ánh mắt hờ hững, dửng dưng, một thái độ vô ơn, rẻ rúng. Tôi sẽ không coi đây chỉ là một mảnh đất tạm dung và ngồi khóc thương cho một khung trời đã mất, mơ tưởng  về một dĩ vãng đã tàn phai. Tôi sẽ hòa vào các chủng tộc khác nhau, rơi lệ khi thấy tòa nhà chọc trời sụp đổ, đau thương khi nhìn xác lính được chở về, hân hoan khi nghe bài quốc ca trong các cuộc tranh tài. Tôi sẽ dạy các con cùng tôi nhận nơi nầy làm quê hương, sẽ đem tất cả khả năng lao động hay học vấn đóng góp vào sự thịnh vượng chung của quốc gia nầy.
            Thay vì trồng  cây cổ thụ tạm thời  trong một cái chậu nhỏ để nó chỉ được lớn èo uột trong bóng râm, tôi và gia đình  muốn  đào một hố sâu, đổ đầy phân  bón, tưới tẩm nó với tất cả ân cần, săn sóc nó với tất cả sức lực để cho rễ mạnh nó ăn sâu vào lòng đất, cho tàn xanh nó tỏa rộng khắp không gian. Chúng tôi không tạm dung. Chúng tôi mọc rễ và yêu thương quê hương nầy.  Rồi một ngày nào đó, ở bên kia góc trời có cần tới một bóng mát bình an, chúng tôi sẽ chiết bớt một nhánh cổ thụ đem về…
            Chúng tôi chỉ có thể làm như thế khi chúng tôi nhận nơi nầy làm quê hương.

Lệ Hoa Wilson

*Tác giả đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011. Bà là một Phật tử,  pháp danh Tâm Tinh Cần, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa, sinh  năm 1940 tại Cần Thơ. Hai bài viết đầu tiên của bà là tự sự của một phụ nữ Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Ky. Cưới nhau: 1972. Tới Mỹ năm 1975. Từ 1985, hai vợ chồng mở v/p Di Trú và Thuế Vụ tại Long Beach. Bài viết mới nhất là một hồi ức về mảnh đất tạm dung và quê hương yêu dấu. Tựa đề được đặt lại theo nội dung bài viết.