2021/03/27

 Tùy bút

CHIỀU TRÊN SÔNG NILE

Ðể nhớ Nguyễn AnhTuấn


Nile River - Things You Never Knew | Wicked Good Travel Tips 


ĐIỆP MỸ LINH


Nhìn cây phượng sum sê, lá xanh biếc và cuối mỗi cành là một chùm hoa đỏ rực, tôi không liên tưởng đến những ngày tháng đáng yêu của tuổi học trò mà tôi lại ngậm ngùi nhớ đến em tôi – Nguyễn Anh Tuấn.


Tôi không nhớ Tuấn học từ ai và từ bao giờ mà Tuấn lại có ngón đàn Tây-Ban-Cầm rất tuyệt vời – không thua gì tiếng Tây-Ban-Cầm của John Mayer – và nét vẽ rất lạ. 


Giữa lúc tôi đang nghĩ về Tuấn thì Sammy –  hướng dẫn viên của công ty du lịch Globus – đến cạnh, yêu cầu tôi trở lại với nhóm du khách để Sammy thông báo những điều cần thiết và trao chìa khóa phòng.


Khi nhận chìa khóa phòng và điền mấy mẫu giấy thỏa thuận về những chuyến đi “excursions”, tôi hỏi: 


- Sammy! Cho tôi một đặc ân, được không? 


Sammy gật đầu. Vừa chỉ về hướng cây phượng tôi vừa tiếp: 


- Sammy cho tôi căn phòng chỗ có cây hoa đỏ đó, được không? 


- Vậy mà tôi cứ ngại bà sẽ bảo tôi đưa bà đi xem kho tàng của vua Tutankhamon ngay bây giờ. 


Cả nhóm du khách cùng cười ồ lên.


Sau khi vào phòng, nhìn qua cửa kính, tôi mới nhận biết được nỗi buồn chợt đến trong lòng tôi là do cây phượng này gợi lại trong tôi hình ảnh cây phượng già trước ngôi nhà xưa của Ba Má tôi.


Dưới gốc phượng già của Ba Má tôi, không nhớ vào dịp nào, Ba Má và mấy chị em tôi chụp chung một tấm hình, phóng lớn, treo ngay phòng khách. Trong ảnh, mấy chị em tôi đứng sắp hàng từ lớn xuống nhỏ; Ba Má tôi đứng sau hai em gái nhỏ nhất – Mai-Trâm và Trúc-Uyên. Mấy mươi năm qua tôi gần như quên bẳng tấm ảnh đó; nhưng cách nay không lâu, Tuấn gửi sang tặng tôi. Thấy tấm ảnh tôi không dám nhìn lâu, vì nhiều người trong tấm ảnh ấy không còn nữa! Phía sau tấm ảnh Tuấn viết: “Trả lại chị những ngày vui xưa”.


Những ngày vui xưa của chị em tôi là những buổi trưa trốn ngủ trưa, lén leo lên cây phượng, hái trái, giả Les Trois Musquetaires, chơi trò đánh kiếm. 


Từ khi trở thành nữ sinh đệ tam B4, tôi cứ hãnh diện ngầm, vì cho rằng tôi không còn là con nít nữa. Nhưng kể từ khi vào đời, và ngay cả giờ phút trong căn phòng sang trọng của khách sạn Oberoi Mena House Garden cổ kính này, tôi cũng chỉ tha thiết ước mong được trở thành con nít một lần nữa thôi!


Lòng tôi ôm niềm ước mơ không tưởng để đợi giấc ngủ đến; nhưng tiếng hòa nhạc nơi hồ bơi làm tôi không ngủ được. Một lúc sau, hòa lẫn với âm thanh của trống và các nhạc cụ quen thuộc khác, tôi nhận ra âm thanh của đàn rababas – loại nhạc cụ có hình dáng và âm thanh tương tự như đàn cò của mình. Giọng hát nao nao buồn, bằng thứ ngôn ngữ rất lạ, không thể nào tôi hiểu được. Sau vài bài ca rất đặc thù của xứ Ngàn Lẽ Một Ðêm, bất ngờ tiếng trống lớn hơn và dồn dập hơn, rồi ban nhạc chuyển sang Rock trong những tràng pháo tay reo hò. 


Tôi thật sự ngạc nhiên, không ngờ họ Rock cũng đến nơi đến chốn, không thua gì ca sĩ Việt-Nam hát nhạc Mỹ. Tôi tò mò, ngồi dậy, vén màn cửa sổ vừa nhìn vừa nghe. Bỗng dưng sự nhộn nhịp bên hồ bơi hơi lắng xuống khi một thanh niên ôm Guitar đến gần micro. Anh ấy dạo phân đoạn đầu. Tôi nhận ra tiết điệu của tình khúc Please Don’t Go. Rồi anh hát: 


“I love you. Yeah, Babe. 

I love you so. 

I want you to know that 

I’m going to miss your love...”. 


Chính lúc này tôi mới hiểu, âm  thanh của dòng nhạc có mãnh lực đưa hồn tôi trở về ngày tháng xa xưa để sống với những gì đã qua và đã mất .


Vì hồn tôi mãi lang thang tìm về những gì đã qua và đã mất cho nên nhạc khúc Please Don’t Go dứt hồi nào tôi không hay. Chàng ca sĩ tài tử bên hồ bơi chuyển sang: “Yesterday, all my troubles seemed so far away...” Tôi vui mừng reo lên nho nhỏ “Ô, Yesterday” rồi tôi ngồi lên thành cửa sổ, lắng nghe.


Theo tiếng đàn và giọng hát của anh ấy, tôi tưởng như tôi thấy lại Tuấn trong sân trường đại học Khoa-Học vào thời gian Saigon sôi sục, đầu thập niên 70. Trong khi sinh viên có khả năng văn nghệ khác thường đàn và hát nhạc Trịnh-Công-Sơn để bộc lộ tư tưởng của họ thì Tuấn chỉ Come Back To Sorrento, Yesterday, Only You, v. v… 


Ðể xua đuổi kỷ niệm buồn, tôi mở cửa, ra lang cang, ngồi vào chiếc ghế mây. Tiếng nhạc và quan khách bên hồ bơi đã “biến đi” tự lúc nào. Cái nóng hừng hực của buổi chiều không còn nữa. Nhìn quanh, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy – dưới ánh trăng – ba kim tự tháp Cheops, Khafre và Khufu hiện rõ trong tầm mắt tôi. Thấy một trong những kỳ quang của thế giới, tôi chợt nhớ đến phim Cleopatra do Liz Taylor và Richard Burton thủ vai chính. Trong phim này kim tự tháp trông tráng lệ và nguy nga cho đến nỗi tôi say mê, tôi mơ ước. Giờ đây, được thấy tận mắt, sự say mê, niềm mơ ước trong tôi còn lớn hơn bội phần.


Hôm sau, sau khi viếng Sphinx và rạp hát giữa trời, Sammy đưa chúng tôi đến kim tự tháp Cheops.


Qua đoạn đường ngắn khá vất vả vì phải “lum khum” “chui” vào lòng kim tự tháp Cheops, tôi chỉ thấy đá và đá. Ðá chồng lên nhau. Ðá tựa vào nhau. Ðá gắn bó nhau từ mấy ngàn năm qua. Cuối cùng là một khoảng không gian hơi rộng, tôi thấy một hố nhỏ trống hổng – cũng được đục trong đá – giống như hình thể quan tài! Sự nôn nao, rộn ràng trong tôi không còn nữa. Nhưng tôi lại hy vọng hai kim tự tháp Khafre và Khufu sẽ thỏa mãn sự tò mò của tôi. Tôi hỏi Sammy: 


- Hai kim tự tháp kia có gì khác hơn tháp Cheops này không, Sammy?


- Không. Một hãng phim ở Hollywood đang chế tạo một người máy rất nhỏ, để đưa người máy đó vào bên trong kim tự tháp quay phim. Những gì các bạn thấy lúc nãy chưa hẳn là bên trong.


Ngoài ba kim tự tháp lớn, tôi còn thấy vài kim tự tháp nhỏ. Sammy giải thích đó là tháp của các hoàng tử và công chúa. Mọi người đều lộ vẻ thất vọng, không ai muốn “chui” vào bất cứ kim tự tháp nào nữa cả.


Niềm thất vọng này càng sâu đậm hơn khi chiếc buýt đưa chúng tôi chạy đọc theo con đường dơ bẩn của không biết bao nhiêu đồ án được xây cất dỡ dang. Tôi tò mò hỏi, Sammy cầm micro giải thích cho cả nhóm cùng nghe: 


- Luật của nước tôi, nếu ngôi nhà chưa hoàn tất thì chủ ngôi nhà đó chưa phải đóng thuế cho chính phủ; vì vậy, hầu hết nhà ở đây, có khi đã qua mấy thế hệ sinh sống trong đó và họ có tiền xây thêm một, hai, ba tầng lầu nữa nhưng họ vẫn cứ để vật dụng phế thải trơ ra đó, chứng tỏ là nhà xây chưa xong, để khỏi bị đóng thuế. 


Một du khách khác hỏi Sammy về tình trạng du lịch ở Ai-cập ngay sau biến cố 9-11 tại Hoa-Kỳ. Sammy buồn bả lắc đầu: 


- Tê liệt! Tê liệt hoàn toàn! Hai ngôi đền mà chúng ta sắp viếng thăm trong khoảng 30 phút tới đây chịu ảnh hưởng nặng nhất. Mọi cổng và lối đi dẫn vào đền đều khóa chặt. Tường và sân đầy rong rêu. Ngôi đền mà hơn năm mươi du khách bị sát hại cách nay mấy năm cũng cùng chung số phận. Không khí ảm đạm/chết chóc bao quanh những ngôi đền cho đến khi chính phủ vận dụng mọi nỗ lực trong việc kiểm soát an ninh để chinh phục sự tin tưởng của du khách. 


Câu cuối của Sammy khiến tôi nhận ra vai trò của một thanh niên mang súng lục, ăn mặc lịch sự, ngồi ghế bên phải của Sammy.


Trên đường đến những nơi dệt thảm tôi thấy cây chà là (date-palms) oằn trái. Trái gần chín, màu vàng. Trái chín màu đỏ thẫm. Nhiều nơi cây chà là được trồng dưới hố sâu, trong lòng đá. 


Xe chạy ngang một khu vực mà lối kiến trúc trông rất kỳ dị. Sammy giải thích qua micro: 


- Ðây là thành phố của người chết (The city of the deaths). Ðó là mộ của những người giàu. Gia đình họ thuê người từ dưới quê lên giữ mộ, giá rẽ hơn thuê người thành phố. Một cách kín đáo, người giữ mộ lén đem từng người trong gia đình từ dưới quê lên sống trong nhà mồ. Lâu dần họ tìm cách hợp thức hóa bằng hóa đơn điện/nước, rồi họ được sống tại đó. 


Tôi chợt nhớ đến gia đình tôi. Sau khi Ba và các em trai của tôi bị cộng sản Việt Nam nhốt tù và tài sản “được” nhà nước quản lý, Má tôi và các em gái của tôi phải “tình nguyện” đi kinh tế mới. Ðời sống tại kinh tế mới cơ cực quá, chịu không nỗi, Má tôi phải lén đưa các em gái tôi chui rúc nhiều nơi, kể cả nghĩa trang, để mong tìm đường trở về thành phố; nhưng lần nào cũng bị công an khu vực bắt, “lùa” về lại kinh tế mới! Mai-Trâm và Trúc-Uyên không chịu được sự tủi nhục/sự đói khát/ sự cơ cực, đành xin thuốc giết chuột của người láng giềng, cùng kết liễu cuộc sống!


Khi nào chợt nhớ đến sự sa sút thảm hại của gia đình, tôi cũng không còn cảm thấy thích thú gì trong cuộc đời này nữa! Vì thế, suốt thời gian viếng thăm các ngôi đền và bảo tàn viện, tôi ngồi lại trong xe. 


Người tài xế mở radio, đài nào tôi không biết, nhưng xướng ngôn bằng tiếng Anh và rồi một giọng nữ đơn ca. Tôi không nhớ tên ca sĩ mà tôi lại nhớ đó là ca khúc Unbreak My Heart. Tôi hỏi ông tài xế: 


- Ở đây nhiều người nghe nhạc Mỹ không?


- Nhiều lắm. Ða số là người trẻ. Không những họ nghe mà họ còn đàn và hát nhạc Mỹ nữa kìa. 


- Thảo nào tối hôm qua tôi nghe ban nhạc chơi nhạc Mỹ tại pool party, nơi hồ bơi.


- Ðó không phải là pool party mà là đám cưới nhà giàu.


Nhìn quanh, tôi ngạc nhiên, kể từ sau khi rời phi trường quốc tế Cairo, tôi chưa hề thấy một hành khất nào cả. Nhưng, sau khi rời khách sạn Elephantine Island Resort tại Aswan để du ngoạn bằng felucca đến đảo Kitchener Island, tôi thấy vài  em bé trai, mỗi cậu một chiếc thuyền nhỏ -- thuyền được ghép lại bằng ba tấm kim loại, sơn màu lòe loẹt -- vừa chèo theo felucca của du khách, vừa hát bài Clementine để xin tiền. Loại thuyền nhỏ này tôi cũng thấy dân cư dọc theo bờ sông xử dụng để đi câu, đi gỡ lưới hoặc làm phương tiện di chuyển dọc bờ sông Nile.


Dọc hai bờ sông Nile, tôi thấy những mái nhà lụp xụp ẩn mình dưới bóng cây chà là. Phía sau những vùng dân cư không đông đúc đó là một vùng đá thấp và cát, hoàn toàn không có cây cỏ. Vùng đá thấp và cát này kéo rộng ra một đoạn khá xa thì “đụng” phải hai bờ đá cao. Trên hai bờ đá cao đó là triệu triệu đường nứt nẻ chứ không thấy được dấu vết của sự sống.

Trong giải sa mạc rực nắng và thiếu mưa, chúng tôi leo hết bậc cấp này đến phiến đá nọ để tìm xem đền đài và những ngôi mộ cổ. Ðến bất cứ đâu tôi cũng thấy những hình tượng được tạc bằng đá và những nét vẽ rất lạ được khắc vào đá. Tôi không thể vào sâu trong mộ vì diện tích bên trong rất hẹp, ít dưỡng khí trong khi bên ngoài trời nóng như thiêu/như đốt.


Khi chiếc du thuyền nhỏ đến Edfu, tôi thấy người dân địa phương dùng loại xe được đóng bằng gỗ, không mui, do ngựa hoặc lừa kéo. Xe lừa được phụ nữ dùng để chở rau cải, hàng hóa. Tôi cũng thấy tận mắt những con lạc đà da khô như vỏ cây nhưng mắt thì hắt hiu buồn. Tôi chưa hề thấy sinh vật nào có ánh mắt buồn da diết và dáng vẻ khắc khổ/chịu đựng như lạc đà!


Không hiểu tại sao dáng vẻ khắc khổ và chịu đựng của lạc đà lại khiến tôi nhớ đến Tuấn. Trong lần tôi trở về quê sau hơn hai mươi năm xa cách, tôi không nhận ra Tuấn. Tuấn chỉ hơn 40, nhưng thân người khô đét và khuôn mặt cằn cỗi trông Tuấn như ông già 70! Bao nhiêu bất hạnh và tủi nhục được Tuấn dấu kín trong đôi mắt hắt hiu. Tôi im lặng, cố nén vào lòng niềm thương cảm! Khi Tuấn búng tàn thuốc ra cửa xe, thấy ngón tay trỏ của Tuấn bị mất một đốt, tôi hỏi. Tuấn im lặng, nhìn ra xa...


Không bao giờ tôi ngờ được rằng tôi đã hỏi Tuấn một câu hệt như câu mà Má tôi đã hỏi Tuấn vào năm 1976, khi Tuấn thì thầm cho Má tôi biết rằng Tuấn sẽ vượt biên bằng đường bộ. Má tôi thoáng giật mình, nhưng vội trấn tỉnh ngay. Má tôi lần trong thắt lưng lấy tất cả vốn liếng của mấy mẹ con – khoảng hơn 50 đồng – dúi vào tay Tuấn. Tuấn nắm tay Má tôi, để trọn số tiền đó vào lại trong tay Má tôi. Sự va chạm này khiến Má tôi nhận ra sự biến dạng nơi ngón tay trỏ của Tuấn. Má tôi kinh ngạc, hỏi. Giọng Tuấn buồn buồn: 


-Những người vượt biên đường bộ, nhỡ bị bắt họ thường bị ghép vào tội theo thế lực thù nghịch để chống lại nhà nước. Vì vậy, con chặt bỏ lóng tay trỏ để, nhỡ bị bắt, họ biết con không có khả năng xử dụng súng, họ sẽ không ghép con vào tội chống phá “cách mạng”, thì tội của con sẽ nhẹ và con sẽ không ở tù lâu.


Ước tính của Tuấn là như vậy. Nhưng khi bị bắt tại Nât-Luông, họ nhốt Tuấn vào nhà tù ở núi Sam, bốn năm! 


Suốt bốn năm tù, không biết bao nhiêu lần Tuấn hối tiếc vì nhớ lại buổi chiều cuối cùng, tháng Tư-1975, tôi gặp Tuấn tại nhà Thọ -- người bạn thân của Tuấn, cùng học tại đại học Khoa-Học. Tôi bảo Tuấn về nhà tôi, nhỡ có gì thì đi trốn pháo kích với gia đình tôi. Tuấn có vẻ suy nghĩ. Thọ khuyên tôi đừng đi đâu cả. Tôi thuyết phục Tuấn. Tuấn hơi xiêu lòng thì Thọ lại  lên tiếng: 


-Chị về trước đi. Em chở nó theo chị ngay.


Tôi nhìn Tuấn, chờ đợi. Tuấn lập lại ý của Thọ. Tôi tin lời Tuấn. Nhưng khuya đó, lúc gia đình tôi rời nhà, vẫn không thấy Tuấn về, tôi khóc!


Ngày đó tôi khóc vì thương Tuấn. Ở trong tù, mỗi khi ban quảng giáo bắt Tuấn đàn, tập cho cả trại cùng hát, Tuấn khóc thầm; vì sự bất khiển dụng của ngón tay trỏ nơi bàn tay phải khiến Tuấn vụng về khi búng giây đàn; và cũng vì Tuấn nhớ lại cảm giác rờn rợn khi thằng bạn dùng cái rựa, bảo Tuấn kê ngón tay trỏ lên thanh gỗ, nhắm mắt lại để nó chặt. Một tiếng “phụm” khô khan, đốt ngón tay lăn trên đất, máu tươi tuôn ròng ròng...


Vừa nhớ đến đây, tiếng Sammy cắt đứt dòng ý tưởng của tôi: 


- Ai cần mua nước chai thì mua bây giờ; vì về đến tàu là tàu nhổ neo đi Luxor ngay. 


Ðến Luxor, cũng dưới ánh nắng và sức nóng như trong lò hầm than, Sammy thu xếp cho du khách đi thăm thành phố bằng xe ngựa. Ba du khách ngồi chung một xe.


Tiếng “lóc cóc” do móng ngựa chạm vào mặt đường như khơi giậy trong lòng tôi dòng âm thanh xưa, trên những chuyến xe ngựa từ Nha-Trang đi Thành/đi Cầu-Ðá hoặc Tháp-Bà/Hòn-Chồng. Ôi, những chuyến xe ngựa của tuổi thơ!


Mọi người vui cười rời xe ngựa, đi vào xem chợ Trời, tôi vẫn ngồi yên, không rời xe; vì tôi hoang tưởng, nghĩ rằng/mơ ước rằng chuyến xe ngựa này là chuyến “xe ngựa tuổi thơ” của tôi!


Lúc mọi người trở lại, Sammy bảo tất cả du khách chuyển sang xe buýt.


Chiếc buýt chạy khá xa nhưng tôi vẫn quay lui để nhìn lại một lần cuối chiếc “xe ngựa tuổi thơ” của tôi. 


Trong ý nghĩ của tôi, những chuyến “xe ngựa tuổi thơ” trên những con đường xưa có sự sống – ít ra là trong hồn tôi – còn quanh khu vực giành cho du khách thăm viếng, tôi chỉ thấy, ngoài nhóm công an mặc sắc phục, còn tất cả là đá. Núi đá, phiến đá, ghềnh đá, tượng đá, hốc đá, viên đá và đá vụn chứ tôi không thấy được bất cứ một sinh vật hay thực vật nào khác.


Khi ngồi trốn nắng nơi hốc đá ở Queen Hatshepsut’s monumental rock temple, tôi chợt nghĩ, các em tôi chết trẻ, tôi không biết mồ mả như thế nào; thế mà suốt mấy ngày qua tôi lại lặn lội đi tìm xem mộ của những người đã chết từ bao nhiêu ngàn năm trước! Ý nghĩ này làm lòng tôi buồn đến héo hon!


Trở lại tàu, tôi lên thẳng sân thượng, tìm nơi khuất lấp, ngồi một mình. Nhìn những áng mây đỏ rực cuối trời xa, tôi lại nhớ Tuấn. Tôi nhớ đến lần Tuấn báo cho tôi biết, khi nhận vẽ bảng hiệu cho công ty xuất cảng cá tôm sang Hoa-Kỳ, bất ngờ Tuấn gặp lại Thọ – giám đốc công ty này. Thọ cần một người có khả năng Anh ngữ để giao dịch, mua và kiểm soát thực phẩm cho cá tôm ăn. Thế là Tuấn không phải lang thang vẽ bảng hiệu để kiếm sống nữa. Tôi mừng cho Tuấn và cũng mừng cho tình bạn giữa Tuấn và Thọ.


Cách nay mấy tuần – trong khi nhờ Phổ chở về nhà bằng Honda – Tuấn điện thoại cho tôi. Sau vài câu thăm hỏi, Tuấn dặn:


-Chị Hai! Chị nhớ đừng mua cá tôm nhập cảng từ Việt-Nam, nha!


-Tại sao?


- Họ lấy gà vịt bị bệnh dịch đem về chế biến ra thực phẩm cho cá tôm ăn. 


-Ủa, báo chí Việt-Nam đăng tải là chính quyền Việt-Nam đã ra lệnh thiêu hủy tất cả gia cầm nghi ngờ có mầm bệnh rồi mà. 


-Tụi nó đốt lấy lệ, để báo chí chụp hình cho bà con tin thôi, rồi tụi nó lấp hờ tại đó. Ðến tối, cũng chính tụi nó trở lại, đào lên, đem về, lựa con nào kha khá bán cho nhà hàng; con nào tệ, bán cho mấy công ty xuất cảng tôm càng, cá tra để được chế biến thành thức ăn nuôi tôm cá. 


-Thôi, đừng nói nữa! Nguy hiểm!


-Nếu chị không phải là chị ruột của em thì em nói làm gì!


- Cảm ơn. Tuấn cẩn thận!


-Chị đừng lo cho em. Chị biết “sếp” công an khu vực này lài ai không?

-Ai vậy? 


-Thằng Lực, con của bà Ba Giàu chứ ai! Chị nhớ bà Ba Giàu không?


Bà Ba Giàu, trước năm 1975, giúp việc nhà cho Má tôi. Ông Ba Giàu làm nghề đạp xích lô. Hằng tháng, đến ngày Má tôi phát lương cho bà Ba Giàu, ông Ba Giàu chở thằng Lực trên xích-lô, đến nhà tôi nhận tiền. Tối đó thế nào ông Ba Giàu cũng “nhậu” mấy “xị” đế, rồi “xỉn”, thằng Lực phải chạy bộ qua nhà Ba Má tôi, gọi bà Ba Giàu về cạo gió cho Ba nó. Tôi thầm phục Lực là người có tình, vẫn còn nghĩ đến các em tôi như người thân. Tôi không hiểu làm thế nào Lực “ngon lành” như vậy, nhưng tôi hơi yên lòng; vì các em tôi ở kinh tế mới, quen biết một người có “chút thế lực(!)” cũng đỡ.


Tôi chỉ yên lòng được vài hôm thì Lộc – vợ của Tuấn – gọi sang, báo cho biết Tuấn bị công an khu vực gọi đến trụ sở “làm việc” rồi bị tống giam mà không viện dẫn lý do. Tôi chợt nhớ đến Lực, vội bảo Lộc liên lạc với Lực. Lộc nức nỡ: 


-Dạ rồi. Anh Lực nói do “trên” chỉ thị thì ảnh thi hành chứ ảnh không biết tội danh. Nhưng anh Lực hứa là ảnh sẽ cố giúp nếu em có điều kiện... 


Tôi hiểu và gửi ngay về cho Lộc một số tiền kha khá để lo cho Tuấn.


Tuấn hiền lành, lại điển trai hơn Thọ, và có tý văn nghệ nên được nhiều người quý mến. Thọ không mặc cảm về những điều đó; nhưng Thọ lại khó chịu và cảm thấy bất an khi sếp lớn của Thọ nhiều lần ngõ lời khen ngợi Tuấn. Thọ ngại Thọ sẽ mất chức về tay Tuấn. Thọ tìm nhiều cơ hội đề nghị sếp lớn cho Tuấn nghỉ việc, nhưng sếp lớn bảo ông ta cần những người như Tuấn. Sau khi Phổ lập lại cho Thọ nghe cuộc điện đàm giữa Tuấn và người chị ở Mỹ thì Thọ có lý do và cơ hội “loại” Tuấn ra khỏi công ty. Thọ kín đáo báo cáo công an và ghi tên Phổ là nhân chứng. Tuấn vào tù mà Tuấn không hề nghi ngờ Thọ.


Lực gặp riêng Thọ để “thương lượng”. Sau khi Lực cho Thọ biết chính “chị Hai thằng Tuấn” nhờ Lực can thiệp, Thọ cười, thỏa thuận nhận số tiền do Lực trao rồi hai người chở nhau đi ăn uống no say. 


Lúc bắt tay từ giã Lực, giọng Thọ nhừa nhựa vì rượu: 


-Cứ thả thằng Tuấn đi, tao có cách khác ngoạn mục hơn nhiều.


Sau khi Tuấn được thả, Thọ đến tận nhà thăm và rủ Tuấn đi ăn mừng. Tuấn vui vẻ nhận lời, không nghi ngờ gì cả… 


Những chi tiết kể trên về sau Lộc mới cho tôi hay. Còn khi tôi đang kiểm soát lại lần cuối những thứ lặt vặt để sáng hôm sau ra phi trường, khởi hành chuyến du lịch này thì tôi nhận được điện thoại từ Việt-Nam. Lộc cho biết Tuấn được thả buổi trưa thì chiều Thọ ghé thăm rồi chở Tuấn đi ăn mừng. Tối Thọ đưa Tuấn về. Tuấn say khướt, đại tiện, tiểu tiện ngay trên chiếu. Cơ thể của Tuấn tím dần và Tuấn không nói được! Đem Tuấn đến bệnh xá, y tá bắt mạch, bảo Tuấn bị trúng độc nặng lắm, không cứu được!


Nghe Lộc vừa khóc vừa kể về Tuấn, tôi lạnh toát người, đứng trơ, không khóc được – và cũng không thể đình hoản chuyến du lịch này để ở nhà khóc em!


Hôm đó tôi không khóc được. Nhưng, giây phút trên sân thượng của chiếc du thuyền nhỏ neo bên bờ sông Nile, tôi âm thầm lấy khăn giấy thấm nhanh những giọt nước mắt muộn màng! 


Nhìn về hướng mặt trời lặn, tôi không biết chính xác mặt trời có lặn về phía quê tôi hay không; nhưng tôi biết, trên giải đất đầy oan khiêng và khổ nạn đó, Tuấn không phải là người đầu tiên và Tuấn cũng chẳng phải là người cuối cùng phải chết vì  tính dễ tin, lòng thành thật và sự thẳng thắn của mình!


Nhìn ra xa, trong ánh hoàng hôn, dòng nước trong mát của sông Nile vẫn lặng lờ xuôi ra biển, nhưng hồn tôi lại vượt không gian tìm về chốn xưa; nơi đó, cũng như trong lòng tôi, tiếng hát của Tuấn lúc nào cũng chơi vơi, lạc lõng, buồn buồn!


Tôi thương nhớ Tuấn như thương nhớ gốc phượng già trước ngôi nhà xưa của Ba Má tôi; như thương nhớ một phần đời thơ ấu của tôi; như thương nhớ tiếng đàn Accordéon của tôi; như thương nhớ những buổi tối hai chị em cùng hát nghêu ngao trên sân thượng nhà tôi. “Yesterday, all my troubles seemed so far away. Now it looks as though they’re here to stay....”. (1)


Troubles are here to stay mà Tuấn thì đã far away, đã vút cao – cao hơn tất cả những nghịch lý/những hèn mọn/những đau thương/những uất hờn và thù hận trong cuộc sống này! “...Oh, yesterday came suddenly...”. (2)


ĐIỆP MỸ LINH

https://www.diepmylinh.com/

1 và 2 .-Yesterday, The Beatle.

2021/03/26



MƯA THÁNG BA

Mưa tháng ba trời xa đất lạ

Tiển đông đi buồn lúc chia phôi

Lòng lưu luyến vẫy tay từ tạ

Duyên gặp nhau rồi... xa cách thôi!


Mưa tháng ba đất người xứ lạ

Đón xuân về xao xuyến trong tôi

Cành cây rộn rã xanh mầm lá

Vạn vật chờ hy vọng lên ngôi

***

Mưa tháng ba quê nhà chẳng có

Nắng chang chang rám mặt em yêu

Mồ hôi mặn điểm tô nhan sắc

Nheo mắt nhìn thêm nét diễm kiều


Mưa tháng ba quê nhà chuyện lạ

Chỉ mình tôi bắt gặp trong mơ

Mưa xoa dịu nỗi hờn nung nóng

Gội mái đầu bạc trắng vật vờ.


Anh Tú

March 25, 2021

Đông Bắc Hoa Kỳ

2021/03/20

Truyện ngắn


CHIA LY NGHẸN NGÀO


Hình ảnh đẹp về tình yêu buồn lãng mạn nhất | Tình yêu đẹp - Website của  Lưu Cao Thâm


ĐIỆP MỸ LINH

Đang kể tên các nghệ sĩ thuộc thập niên 60/70 để người bán hàng tìm trên computer, bà Lan chợt nghe ông Mỹ – sắp hàng sau bà – nhắc khẽ:

-Bà tìm những ca sĩ đó mà tại sao bà không tìm Ricky Nelson, Dean Martin, Frank Sinatra?

Bà Lan cười, nói với người bán hàng:

-Em làm ơn tìm giùm CD của các ca sĩ mà ông này vừa nhắc – nhất là Dean Martin.

Ông Mỹ phía sau lại tìm cách làm quen:

-Tại sao bà thích Dean Martin?

-Vì tôi thích tiếng Accordéon.

-Đúng. Bà có trí nhớ tốt.

-Cảm ơn ông.

Sau khi trả tiền, bà Lan cầm bao ny lông có mấy CD bên trong, đi ra cửa. Ông Mỹ vội rời hàng, bước theo, tự giới thiệu:

-Tôi là John Smith. Rất hân hạnh được gặp bà.

Bà Lan bắt tay John:

-Rất vui được gặp ông. Tôi tên Lan. 

-Bà mua những tác phẩm vang tiếng một thời, có lẽ bà chơi đàn, phải không ạ?

-Ông nhớ tên nhiều nghệ sĩ hơn tôi, điều đó chứng tỏ ông là một người am hiểu nhiều về âm nhạc. Đúng không?

-Đúng. Làm thế nào tôi được hân hạnh đàn cho bà nghe?

-Cảm ơn ông. Ông chơi đàn gì?

-Piano. 

-Tuyệt vời! Nhưng tôi có việc, phải đi. Xin lỗi.

Vừa bước theo bà Lan John vừa hỏi:

-Thưa bà, tôi rất cần một phụ nữ cùng trang lứa với tôi để thỉnh thoảng đi nghe hòa nhạc. Bà có cho phép tôi…

-Rất tiếc!

-Tại sao? Nếu bà là một phụ nữ có chồng thì tôi đã thấy nhẫn cưới trên ngón tay áp út nơi bàn tay trái của bà.

-Thưa ông, chồng tôi bị cộng sản Việt Nam (c.s.V.N.) nhốt tù từ năm 1975. Còn nhẫn cưới, tôi phải bán, lấy tiền mua gạo và vật dụng để mở quán cơm dĩa nơi ga xe lửa ở kinh tế mới!

-Chúa ơi! Sao xót xa đến thế!

Vừa nói “Cảm ơn” bà Lan vừa bấm nút để mở khóa xe. John vừa mở cửa xe cho bà Lan vừa nói:

-Mong bà hiểu, tôi không còn ở lứa tuổi thanh xuân để bảo rằng mình bồng bột, bị “tiếng sét ai tình”. Nhưng không hiểu tại sao chỉ mới gặp bà, tôi lại rất muốn làm quen với bà. 

-Cảm ơn ông. Nhưng xin lỗi, tôi phải đi.

-Vâng, chúc bà một buổi chiều tuyệt đẹp!


****** 

Sau khi tiễn các con ra bãi đậu xe, bà Lan quay vào chung cư Woodlands Senior Independent Living.

Vừa đến cửa phòng, chợt nghe tiếng Piano dìu dặt từ phòng khánh tiết,  trong tình khúc None But The Lonely Heart của Tschaikowsky, bà Lan thở dài, đứng lặng một chốc rồi mở cửa, vào phòng. 

Mở computer, sau khi login, vào Inbox, thấy youtube có tựa hơi lạ – Anh Ở Đây – bà Lan mở ra. Tiếng acoustic guitar dạo phân đoạn đầu rồi tiếng hát nghẹn ngào: 

“Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây. 

Áo rách xác xơ vai gầy, 

cùng chung kiếp sống lưu đầy. 

Anh ở đây, ngày ngày cơm chưa đầy chén... 

Toa liền toa, tầu đi trong ánh hoàng hôn, 

tiếp nối những dư âm buồn …” (1) 

Tiếng hát vừa đến đây, màn ảnh computer trở nên nhạt nhòa! Qua làn nước mắt, bà Lan tưởng như thấy lại được hình dáng tàn tạ, đói khổ của Bà và các con tại kinh tế mới. 

Một buổi chiều, tại kinh tế mới, bà Lan vừa gắp vài miếng dưa leo để vào dĩa cơm thịt nướng, chợt nghe Hưng – con trai của bà – đang hát khe khẽ theo âm điệu bài Quốc ca của c.s.V.N.: 

Đoàn quân cộng nô kia như một lũ chó. 

Chúng bây từ đâu mang điêu tàn vào Nam. 

Từ ngoài Bắc suốt kiếp chúng bây nghèo đói. 

Lết vào Nam vơ vét không ngừng tay…” 

Bà Lan hãi quá, bảo:

-Hưng! Im đi, con! Ở tù đó, con!

-Bạn con hát thiếu gì. Hát mà cũng ở tù, kỳ thiệt!

Bà Lan ôm Hưng, giải thích rất ngắn gọn. Hưng xụ mặt, bưng dĩa cơm đến bên cửa sổ toa xe, mời hành khách. Một người đàn ông gầy gò từ cửa sổ toa xe chồm ra nói gì với Hưng rồi ông ấy nhìn bà Lan chăm chăm. Chỉ một chốc sau, ông này rời xe lửa, đi nhanh về phía bà Lan, hỏi nhỏ:

-Xin lỗi, phải chị là vợ của thiếu tá Hùng hay không?

-Ông là ai?

-Đúng rồi! Nghe giọng của chị, em nhận ra rồi.

-Xin lỗi, tôi không biết ông.

-Em là Năng, hồi đó ổng và chị đại diện nhà trai, cưới vợ cho em đó.

-Ô, trung úy Năng! Anh gầy và đen quá, tôi nhận không ra. Vợ con anh khỏe không? 

-Cảm ơn chị, vợ con của em cũng lam lũ, cực nhọc như chị và mấy cháu. Em thấy cậu bé bán cơm sao giống ổng quá, em hỏi, nó xác nhận. Thế là em rời xe lửa.

-Từ mấy năm qua Mẹ con tôi không được tin tức gì của ông ấy cả; không biết ổng còn sống hay không nữa!

-Chị chưa đi thăm ổng lần nào sao?

-Biết ổng ở đâu mà đi! Mẹ con tôi bị đuổi đi kính tế mới thì dù ổng có viết thư, nhắn tin về địa chỉ cũ, cũng chẳng ai biết tôi ở đâu mà đưa!

-Chuyện hơi dài. Chị bảo mấy cháu coi hàng, chị ngồi đây, em kể chị nghe.

Bà Lan vừa dặn bốn đứa con vừa chỉ về phía Năng:

-Má phải nói chuyện với chú kia để tìm tin tức của Ba. Nếu hai chị của các con mót khoai, mót củi về sớm, các con nói hai chị phụ với các con, nha!

-Dạ. Con biết rồi.

Ngồi cạnh Năng, bà Lan nghe Năng hỏi rất nhỏ:

-Trước khi đi “đăng ký” vào tù, thiếu tá có nói với chị điều gì hay không?

-Khi các cuộc rút quân từ vùng I bắt đầu, tôi thấy ông nhà tôi trở thành một người hoàn toàn khác! Sau khi Saigon thất thủ rồi radio kêu gọi sĩ quan “Ngụy” đi “đăng ký”, chính tôi khuyên ông ấy nên trình diện để được hợp thức hóa tình trạng “rã ngũ” của quân đội miền Nam. Ổng nhìn tôi, cười “nửa miệng”, bảo: “Em lớn lên trong một xã hội tự do, nhân bản, đạo đức cho nên em dễ tin người. Còn anh, anh đã thấy cảnh ông bà Nội, ông bà Ngoại của anh bị ném đá đến chết trong thời cải cách ruộng đất; Bố Mợ cùng em của anh chết nát thây trên chuyến xe đò bị giật mìn ở Cái Sắn. Bằng ngần ấy thù hận thì không thể nào anh tha thứ cho những kẻ đã tạo nên những thảm cảnh đó!”

-Chị có biết là ổng đã thành lập được một nhóm phục quốc khoảng trên dưới 30 người hay không?

-Trời!

-Trưa 28 tháng 04-1975, họp nhau tại văn phòng, sau khi nghe ổng trình bày, thuyết phục, tụi em, gồm thằng Nam, thằng Lành, thằng Hiếu, thiếu úy Phúc, trung úy Quốc, đại úy Đức, thiếu tá Dân đều đồng lòng theo ổng để làm “điều phi thường”!

-Trời! Rồi sao nữa, anh nói nhanh đi, tàu sắp chạy rồi.

-Dạ, không sao. Trễ chuyến này em đi chuyến sau. Em cố ý tìm chị mấy năm qua, nhưng quanh nhà chị chỉ toàn người từ Bắc vô không hà. Hôm nay bất ngờ gặp chị, em mừng lắm! Em chỉ muốn chị và mấy cháu biết rõ về ổng để được hãnh diện về ổng.

-Bây giờ ổng ở đâu, anh Năng?

-Ngày 05-05-1975, ổng giả vờ đi “đăng ký” học tập; thật ra ổng và tụi em đi ra Đồng Bò – mật khu cũ của Việt Cộng – trốn trên đó để chờ kết nạp với nhóm của ông Đặng Hữu Thân, Hải Quân, nhóm của anh Đức và nhóm của thầy Nguyễn Hữu Dưỡng.

Sau khi được tin ông Thân bị bắt, vì muốn tất cả rời Đồng Bò để khỏi bị bại lộ, ổng bảo Quốc và em đem tin đến thầy Dưỡng và anh Đức. Không ngờ trên đường đi, Quốc và em bị bắt. Quốc và em bị tụi c.s.V.N. tra khảo, đánh đập rất dã man. Nhưng Quốc – nhờ có võ – tránh né được. Biết Quốc có võ, tụi c.s.V.N. huy động bộ đội đông gấp mười để “dần nát thây” mà Quốc cũng vẫn không khai. Lần cuối cùng, bị tụi c.s.V.N. bảo lên văn phòng “làm việc”, Quốc thấy một vệ binh mang súng ra cổng thay phiên gác. Chờ lúc tên quản giáo và tên vệ binh sơ ý, Quốc quật ngã tên vệ binh, cướp súng, bắn tên quản giáo còn tên vệ binh bỏ chạy. Quốc quay súng, để nòng súng dưới cằm, bấm “cò”, chết!

-Trời! Tội quá! 

-Riêng em, em vẫn không khai. Tụi c.s.V.N. cũng “dần” em “nhừ xương” rồi chuyển em về trại tù Nghĩa Phú. Em gặp lại thiếu tá Hùng tại đó…

Nói đến đây, Năng nghẹn lời! Nhìn chuyến xe lửa khuất dần cuối nẽo xa, Năng tưởng như có thể thấy lại hình ảnh lếch thết của ông Hùng vào những buổi chiều cùng đoàn tù trở về trại sau một ngày quần quật chặt cây, cưa gỗ để xây trại tù, tự nhốt mình! 

Một buổi chiều, khi đoàn tù vừa về đến trại, Năng thấy toán vệ binh áp giải ông Hùng đến phòng quản giáo. Tên quản giáo đứng trước cửa, mắt lườm lườm, quát:

-Ai cho anh hát nhạc phản động, hả?

-Âm nhạc là một trong bảy bộ môn nghệ thuật; mà nghệ thuật thì chỉ có hay hoặc dở chứ nghệ thuật không phản động. 

-Anh muốn “ný nuận” với tôi, hả? Anh có biết “nà” “noại” nhạc “nãng” mạn/thương vay khóc mướn ấy nó “nàm” cho tâm hồn con người mềm yếu, mất sức sống hay không?

-Chính cộng sản các anh cũng muốn chúng tôi mềm yếu/mất sức sống mà! 

-Này! Này! Để ông bảo cho biết, nhá! Các anh có bao giờ mạnh đâu mà bảo cộng sản chúng tôi muốn các anh yếu?

-Chúng tôi không mạnh tại sao các anh sợ chúng tôi?

-Ai bảo thế? Sợ cái gì?

  -Các anh không sợ chúng tôi tại sao các anh ra thông cáo lừa gạc – đem theo tiền ăn cho 10 ngày – rồi nhốt chúng tôi mà không có bản án? Các anh không những sợ chúng tôi mà các anh còn sợ cả thương binh Việt Nam Cộng Hòa (V.N.C.H.). Thương binh đang còn điều trị trong bệnh viện mà ngày 30-04-1975 các anh cũng nhẫn tâm đuổi họ ra đường. Họ phải bò lê bò lết bên vệ đường, về nhà không có thuốc chữa trị, họ phải chết! Bức Tượng Thương Tiếc chỉ là biểu tượng của người Lính miền Nam thương nhớ đồng đội đã bị các anh giết mà các anh cũng sợ, vội đập bỏ. Nhạc miền Nam được người dân miền Bắc yêu thích, gọi là “nhạc vàng”, các anh cũng sợ, cấm, không cho đàn/hát. Sách vở/báo chí miền Nam là kho tàng của văn học/lịch sử, thế mà các anh cũng đốt cả. Các anh không sợ tại sao các anh hủy diệt? Các anh dùng vũ khí của ai để giết chúng tôi và đồng bào miền Nam? Tụi lính, cố vấn Trung Cộng nhỏ thó, giống người Việt, các anh cho chúng nó mặc đồ giống các anh để ngụy tạo; còn tụi Nga da trắng, mũi cao, to con – khó ngụy trang – các anh cho tụi Nga đóng dọc biên giới để các anh ngụy biện là cộng sản các anh có chính nghĩa rồi các anh gán cho chúng tôi là lính đánh thuê! Cái hèn của các anh là ở chỗ đó!

-Mày là một tên “Ngụy” cực kỳ phản động! Vệ binh! Đấm vỡ mặt nó!

Ông Hùng bị đòn “hội chợ” trong khi mọi tù nhân cúi mặt! Khuya hôm đó, ông Hùng bị chuyển ra Bắc.


*****

Nhờ người bạn giỏi âm nhạc viết bài Anh Ở Đây từ youtube thành bản nhạc có notes, chuyển đến bà bằng email, bà Lan rất vui. Sau khi in ra, viết lời ca vào, bà Lan đến phòng khánh tiết.

Nhìn bản nhạc, dạo qua vài lần, bà Lan bắt đầu vừa đàn vừa hát nho nhỏ. Theo tiếng đàn và giọng hát – không còn trong và thánh thót như xưa – của chính mình, bà Lan nhận ra niềm u uất và nỗi nhớ thương của bà dành cho ông Hùng dâng lên ngập lòng rồi tràn ra khóe mắt. Khi hát đến câu:

“…Chiều Suối Máu xót xa buồn nhớ con. 

Tình thương em vẫn đong đầy khoé mắt. 

Chiều Long Giao sương mờ đêm u uất…”(1) 

bà Lan tưởng như bà có thể cảm nhận được sự thương nhớ/sự oán than/sự đau khổ/niềm khóc hận đang xâu xé trái tim của những thành phần ưu tú của Quân Lực V.N.C.H. trong các trại tù của c.s.V.N. 

Đang đắm hồn vào lời ca, tiếng đàn, bà Lan chợt cảm biết dường như có người đang nhìn bà qua của sổ. Nhìn đồng hồ, nhận ra bà đã đàn/hát khá lâu, có lẽ có người đang chờ để được đàn. Bà Lan ngưng đàn.

Vừa mở cửa bước ra, bà Lan thấy một người đàn ông ngoại quốc đang ngồi lẻ loi. Bà Lan chưa kịp tỏ thái độ thân thiện thì người đàn ông vội đứng lên, giọng ngạc nhiên:

-Bà Lan! Có phải bà là Lan – người tôi đã gặp tại tiệm bán băng nhạc cách nay vài tuần – hay không?

-Hi, John! Thế giới nhỏ thật! 

-Bà dời vào đây khi nào? Từ trước đến giờ tôi chưa hề thấy Bà ở đây.

-Cuối tuần trước.

-Thế thì từ nay tôi được nghe bà đàn.

-Có phải từ nãy giờ tôi đàn lâu quá, John phải chờ hay không?

-Không. Từ nãy giờ, dù không hiểu tiếng Việt, tôi cũng cảm nhận được những giai điệu êm đềm, thiết tha nhưng mang nhiều u uất. Tiếng Bass của Piano như dội thẳng vào tâm thức u hoài, làm bừng sống trong tôi một thời khói lửa ngập trời tại Khê Sanh và các mặt trận dọc biên giới Lào Việt.

-Ô, ông đã từng tham chiến tại Việt Nam! Cảm ơn ông đã giúp chúng tôi chống lại Vi Ci.

-Thôi, quên hết đi để vui tuổi già!

-Vâng. Ông nói đúng.

-Mời bà ở lại, đàn, hát cho tôi nghe bài ấy một lần nữa. Please!

Hai người vào phòng khánh tiết. Bà Lan mở nắp Piano, để bản nhạc trên giá nhạc. John ngồi trên ghế, cạnh Piano. Bà Lan dạo phân đoạn đầu rồi “bắt” vào: “Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây…” Khi tiếng hát nghẹn ngào như chan chứa nỗi xót xa đoài đoạn của bà Lan đến câu: 

“…Ôi đời ta, ngờ đâu trăm đắng nghìn cay. 

Khúc sắn bát ngô vơi đầy, 

sầu nuôi thân xác hao gầy…” 

Thấy hai hàng nước mắt chảy dọc cánh mũi thon của bà Lan, John đứng lên, bước đến, khom người, thì thầm:

-Cảm ơn nhiều. Nhưng xin bà dừng lại. 

-Tại sao? Có lẽ, vì xúc động, tôi hát dỡ quá, phải không?

-Không. Lúc nào tôi cũng muốn nghe bà đàn và hát; nhưng tôi nhận ra sự vô tình của tôi đã “đọa đày” trái tim của bà!

Im lặng. Một chốc sau, John hỏi:

-Hôm trước bà bảo chồng của bà bị c.s.V.N. cầm tù. Thế tình trạng hiện tại của chồng bà như thế nào?

-Khi tôi còn ở kinh tế mới, một sĩ quan từng làm việc và ở tù chung trại với chồng tôi cho tôi hay rằng chồng tôi bị đánh đập rất tàn bạo. Sau đó, chồng tôi bị chuyển ra Bắc cho nên vị sĩ quan này không biết gì thêm. 

-Bà có làm đơn khiếu nại với nhà cầm quyền c.s.V.N. hay không?

-C.s.V.N. chứ không phải xứ tự do dân chủ như Mỹ, Canada và các nước bên Châu Âu đâu mà xét đơn khiếu nại của dân. Nhà, đất, tài sản của dân, của nhà thờ, của chùa mà khi người c.s.V.N. muốn thì người c.s.V.N. cũng tịch thu rồi đuổi dân, đuổi tu sĩ đi thì c.s.V.N. xét đơn của dân để làm gì!

-Thật sao? Thế thì, trước khi sang Mỹ, bà có đến các trại tù của c.s.V.N. để tìm chồng bà hay không?

-Ông có biết là sau 30-04-1975, c.s.V.N. đã tạo nên bao nhiêu địa điểm trắc trở, khắc nghiệt, hung hãng và tồi tệ nhất thế giới để nhốt sĩ quan và công chức V.N.C.H. hay không? Mỗi khi đến những địa điểm đó thì phải có giấy phép của c.s.V.N. cấp. Muốn có giấy phép thì người xin giấy phép phải hối lộ tiền cho c.s.V.N.. Nhưng, ở kinh tế mới, bo bo và củ mì mà chúng tôi cũng không đủ ăn thì tiền ở đâu tôi có thể hối lộ c.s.V.N. để xin giấy phép và đi khắp các trại tù để tìm chồng? Đó là chưa kể tôi bỏ bốn đứa con dại ở kinh tế mới cho ai?

John cúi mặt, đưa tay bóp trán, im lặng. Một chốc sau, John thở dài, hỏi:

-Bà còn giữ ý định tìm chồng của bà hay không?

-Bất cứ lúc nào tôi cũng mong được biết tin của chồng tôi.

-Tôi sẽ giúp bà. Tôi không dám hứa điều gì, nhưng tôi sẽ hết lòng. Bà cho tôi biết tên, họ, ngày, tháng, năm sinh và số quân của chồng bà. 

-Ô, xin Phật/Chúa và các đấng thiên liêng phù hộ ông! Trái tim của ông thật là vỹ đại!


******


Suốt thời gian hai gia đình sum họp, Hưng đề nghị sẽ ăn cơm tại nhà hàng để bà Lan, chị em của Hưng và Nở – vợ kế của ông Hùng – khỏi nhọc công. Dù trong lòng rất muốn “thủ thỉ” với chồng, bà Lan cũng cố ý không đến gần và cũng không tỏ cử chỉ thân mật với ông Hùng. Nở luôn tìm cách lánh mặt bà Lan; chỉ có hai đứa con của Nở và ông Hùng thì lúc nào cũng chơi đùa vui vẻ với cháu nội, cháu ngoại của bà Lan; và Hưng thì không rời “Ba Hùng”.

Thấy “Ba Hùng” chỉ dùng iPad, Hưng mua tặng “Ba Hùng” computer với màn hình khá rộng và một máy in. Sau khi chỉ cho ông Hùng cách thức xử dụng computer, Hưng nói:

-Từ nay, gặp trở ngại gì về computer, Ba gọi hoặc email cho “thằng Hưng của Ba” nè!

Ông Hùng nghẹn lời vì bốn tiếng “thằng Hưng của Ba”. Hưng tiếp: 

-Ba ngồi, thực hành đi. Con ra phụ dọn dẹp để chiều Má và tụi con ra phi trường.

Hưng tìm bà Lan, khoe:

-Ba vui lắm. Tội nghiệp Ba!

-Cảm ơn con. Con chỉ cho Ba cách dùng chưa?

-Ba “smart” lắm, Má đừng lo!

Nhìn đồng hồ tay, Hưng tiếp:

-Thôi, đi ăn, Má. Tụi con đói bụng rồi!


******

Mang giày cho cháu xong, bà Lan chợt nghe tiếng hát văng vẳng. Bà Lan đến bên cửa sổ, nhìn về hướng có tiếng hát và thấy ông Hùng đang tựa gốc cây sồi, ánh mắt xa xăm, vừa nhìn về phương trời vô định vừa “ngân nga” nho nhỏ: 

“…Gọi người yêu dấu muôn đời, 

nghẹn ngào không nói thành lời. 

Tình yêu xưa ngày tháng phôi phai 

biết bao giờ nguôi…” (2)

Bà Lan thở dài, cúi mặt, quay vào nhà.

Thấy các con đem hành lý ra xe, ông Hùng vào nhà, giúp mọi người. Sau khi kiểm soát hành lý, Hưng bảo các con và cháu lần lược “hug” ông Hùng, dì Nở và hai em. Bà Lan ôm hôn hai đứa con của Nở và ông Hùng rồi xoay sang ông Hùng – không “hug” – khẽ nói:

-Em và các con rất vui. Từ nay Bố con có thể liên lạc với nhau rồi.

-Em cho anh một phút để anh nói với em những gì cần phải nói.

Bà Lan rơm rớm nước mắt, cúi đầu. Ông Hùng tiếp:

-Anh cảm tạ em đã nuôi dạy các con nên người. Khi mới gặp lại nhau, các con chỉ muốn nghỉ lại tại “nhà Ba” chứ không muốn nghỉ tại khách sạn thì anh biết em đã giáo dục các con theo đạo lý của nền văn hóa Việt Nam thuần túy. Với một phụ nữ đẹp, có tài – như em – mà em cũng vẫn chung tình với anh thì em chính là Thiên Thần của anh. Anh cũng cảm ơn chị Hai đã bảo lãnh em và các con sang Mỹ; nếu không có chị Hai, không biết cuộc đời của các con có thoát được cảnh “xuất cảnh lao động” để con gái đi làm điếm, con trai đi ăn cắp hoặc buôn bán cần sa hay không!

Về phần anh, sau khi anh được c.s.V.N. thả ra, trở về chốn xưa với tấm thân tàn tạ, đầy bệnh tật và không nơi nương tựa thì chính Nở – cô gái bán bánh mì – đã cho anh từng ổ bánh mì. Thấy anh ngủ bờ, ngủ bụi, Nở đem cho anh cái mền cũ rồi Nở nhận vé số nơi chủ thầu cho anh đi bán. Lúc rãnh, anh dạy Nở học tiếng Anh. Khi làm đơn theo chương trình HO, anh đề nghị Nở cùng đi. Qua bên này, anh không đi làm được, vì già và mang nhiều thương tật. Nở làm móng tay để nuôi anh và hai đứa nhỏ…

Bà Lan buồn, nhưng không biết buồn ai và buồn vì cái gì, đành xoay sang, “hug” Nở và khẽ nói:

-Cảm ơn em đã giúp đỡ, thương yêu, lo lắng cho anh Hùng; nhờ vậy, anh Hùng mới sống được để gặp lại các con của anh ấy.

Nở xúc động, khóc ròng:

-Bộ chị “hỏng” giận em sao?

-Không! Em là người ơn của Mẹ con chị.

Hưng bước đến:

-Sorry, Má, Aunty (Dì)! Má và tụi con phải đi kẻo trễ. Con sẽ gửi vé máy bay cho Ba, Aunty và hai em đến thăm Má và tụi con vào cuối niên học. Ok! 

Ông Hùng bước theo Hưng và bà Lan ra xe. Bà Lan ngồi vào ghế bên phải của Hưng.

Hai chiếc xe Van từ từ chuyển bánh. Nhiều bàn tay vẫy vẫy và nhiều tiếng “bye, bye” hướng về phía ông Hùng. Trong khi kéo “seat belt”, bà Lan nhìn vào kính bên phải, thấy ông Hùng vẫn đứng lặng, nhìn theo. Nhìn dáng ông Hùng nhỏ dần…nhỏ dần…bà Lan tưởng như tiếng hát ngọt ngào của Whitney Houston đang ngân lên từ tâm thức của bà: “… So good bye. Please don't cry… And I will always love you…” (3)


ĐIỆP MỸ LINH

https://www.diepmylinh.com/


1.- Anh Ở Đây của Vũ Đức Nghiêm & Thục Vũ.

2.- Gọi Người Yêu Dấu của Vũ Đức Nghiêm.

3.- I Will Always Love You của Dolly Parton