Hiển thị các bài đăng có nhãn THƠ DỊCH. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn THƠ DỊCH. Hiển thị tất cả bài đăng

2019/03/15




TIẾT PHỤ NGÂM*

Quân tri thiếp hữu phu,
Tặng thiếp song minh châu.
Cảm quân triền miên ý,
Hệ tại hồng la nhu.
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,
Lương nhân chấp kích Minh Quang lý.
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt,
Sự phụ thệ nghĩ đồng sinh tử.
Hoàn quân minh châu song lệ thuỳ,
Hận bất tương phùng vị giá thì.

Trương Tịch
*Thơ cổ phong, thời Trung Đường


Dịch nghĩa:

KHÚC NGÂM CỦA TIẾT PHỤ

Chàng biết em đã có chồng
Tặng em đôi hạt châu sáng
Cảm động trước tình đeo đẳng của chàng
Em buộc vào áo lụa hồng
Nhà em có lầu cao bên vườn hoa
Chồng em cầm kích túc trực trong điện Minh Quang
Vẫn biết lòng chàng trong sáng như mặt trời, mặt trăng
(Nhưng) em đã thề cùng sống chết với chồng
Trả lại chàng hạt châu sáng, hai hàng nước mắt ròng ròng
Ân hận rằng không thể gặp nhau lúc chưa chồng.



Dịch bằng thơ:

KHÚC NGÂM CỦA TIẾT PHỤ

Chàng hay em có chồng rồi,
Yêu em chàng tặng một đôi ngọc lành.
Vấn vương những mối cảm tình,
Em đeo trong áo lót mình màu sen.
Nhà em vườn ngự kề bên,
Chồng em cầm kích trong đền Minh Quang.
Như gương, vâng biết lòng chàng,
Thờ chồng, quyết chẳng phụ phàng thề xưa.
Trả ngọc chàng, lệ như mưa,
Giận không gặp gỡ khi chưa có chồng.

Ngô Tất Tố
(Sưu tầm trên Internet)
******************
Thơ cảm tác

TÌNH LỠ

Biết chân em vướng chỉ hồng
Tơ tình anh vẫn tỏ lòng cùng ai
Động lòng đeo đẳng dằn dai
Hồn quay về lại những ngày xa xăm

Vườn nhà hoa thắm hằng năm
Duyên chồng nghĩa vợ đã thâm sâu rồi
Dù tình người sáng rạng ngời
Tôi xin sống hết một đời phu thê

Lệ rưng trả lại cơn mê
Kiếp sau hẹn gặp ... xin thề cùng nhau!

Anh Tú
March 15. 2019

2018/10/03



Lương Châu nay thuộc tỉnh Cam Túc, giữa Lan Châu và Vũ Uy, trước đây là nơi hàng bao thế kỷ người Hồ và người Hán đánh nhau. Lương Châu từ là một điệu hát cổ của nói về chuyện trận mạc biên ải. Những điệu hát cổ như: Thượng chi hồi, Chiến thành nam, Thương tiến tửu, Quân mã hoàng, Viễn như kỳ, Hoàng tước hành, Lạc mai hoa, v.v... được các thi nhân thời trước lấy làm đầu đề để sáng tác.


凉州
葡萄美酒夜光杯,
欲飲琵琶馬上催.
醉臥沙場君莫笑,
古來征戰幾人回?
王翰

Lời: 
Lương Châu T
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi?
Vương Hàn

Dịch ý:
Rượu Bồ đào (rượu từ quả nho - rượu ngon) chứa trong chén bằng ngọc Dạ quang (rất quý);
Đang muốn uống thì tiếng đàn tỳ bà đã giục (phải) lên lưng ngựa (để ra đi);
(Đã hoặc nếu) Say nằm giữa bãi cát, mong người đừng cười (chê trách);
(Bởi vì) Từ xưa đến nay, người đi chinh chiến có mấy ai trở về.

Thoáng dịch:
 Bài từ viết tại Lương Châu 
Chén ngọc rượu ngon đang quyến rũ
Chưa chi tiếng nhạc giục lên đường
Lỡ say ngoài trận xin tha lỗi
Chiến sĩ bao người về cố hương?
Anh Tú
October 3, 2018

2017/05/20

Ảnh: Trương Văn Phú
ĐI RỒI VỀ.*

Xuân đi rồi lại trở về
Xuân, hoa luôn mãi cận kề bên nhau
Mỗi việc đời thay đổi mau
Dấu già xuất hiện bạc phau trên đầu
Đi rồi về... có mất đâu?
Tối qua mai nở rực màu trước sân!

Anh Tú
May 20, 2017
*Mượn ý từ CÁO TẬT THỊ CHNG của Mãn Giác Thiền sư.
*Những bài dịch và bài viết liên quan:

2017/01/03

XUÂN VỌNG của ĐỖ PHỦ (712-770)

Chân dung Đỗ Phủ
Không hề có bức họa Đỗ Phủ nào của người đương thời; đây là hình vẽ theo cảm tưởng của nghệ sĩ

 Là thi sĩ lớn nhất đời Đường của Trung Hoa, được gọi là “thi thánh”, sáng tác gần 1500 bài thơ.

Loạn An - Sử nổ ra năm 755, lúc đó Đỗ Phủ chỉ là một viên quan nhỏ, bị giặc bắt, giam tại Trường An. Cảnh chết chóc, thân ở tù xa vợ con Chiến tranh tàn khốc tăng dữ dội không ngừng. Mòn mỏi chờ một bức thư của vợ con, nhưng càng trông tin càng tuyệt vọng.

“Xuân vọng” là một bài thơ xuân đặc sắc của Đỗ Phủ. Tổ quốc nát tan với nỗi đau chiến tranh, nhà thơ gởi gấm vào bàt thơ của niềm tin vào sự vững bền của tổ quốc, hy vọng vào sự hồi sinh của đất nước, mong ngóng sự thanh bình trở lại để được đoàn tựu với gia đình.

Nguyên tác:

春望

國破山河在
城春草木深
感時花濺淚
恨別鳥驚心

烽火連三月
家書抵萬金
白頭搔更短
渾欲不勝簪

Phiên âm Hán - Việt:

Xuân Vọng

Quốc phá sơn hà tại
Thành xuân thảo mộc thâm
Cảm thì hoa tiễn lệ
Hận biệt điểu kinh tâm

Phong hoả liên tam nguyệt
Gia thư để vạn kim
Bạch đầu tao cánh đoản
Hồn dục bất thăng trâm

Dịch nghĩa:

Nước bị tàn phá, núi sông vẫn còn đấy
Mùa xuân trong thành, cỏ cây mọc đầy
Cảm (thương) thời thế, hoa rơi lệ
(Oán) hận biệt ly, chim kinh sợ trong lòng

Khói lửa báo động liên miên ba tháng trời
Thư nhà (đến), quý như muôn lạng vàng
Ðầu bạc, xoa thấy càng lưa thưa
Coi bộ không đủ (dày) để cài trâm

Bản dịch của Trần Trọng Kim:

Nước phá tan, núi sông còn đó,
Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu.
Cảm thời hoa rỏ dòng châu
Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng.

Ba tháng khói lửa ròng không ngớt,
Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn.
Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun,
Dường như hết thảy, e khôn búi tròn.

Bản dịch của Trương Văn Tú (Lãng Nhai):

Nước mất nhà tan còn sông núi,
Xuân thành cây cỏ mọc thâm u.
Nhìn hoa hoang dại sầu rơi lệ,
Chim kêu hoảng sợ hận biệt ly.

Khói lửa binh đao liền ba tháng,
Thư nhà nhận được đáng vạn ngân.
Tóc bạc như sương càng thưa thớt,
E không đủ búi để cài trâm.

(Nguồn: Internet)

Thơ thoáng dịch của Anh Tú, Trần Văn Dõng, Trần Hoành Châu:

Xuân Mong

Tổ quốc tan còn sông núi đây
Mùa Xuân thành phố cỏ cây dầy
Thương cho thời thế hoa rơi lệ
Ly biệt hận sầu chim vướn lây

Ba tháng loạn tràn lan chẳng vơi
Thư nhà được quý ngàn lời
Xoa đầu bạc trắng lưa thưa tóc
Ngần ngại trâm cài sợ rớt rơi

Anh Tú
January 3, 2017

ĐÓN XUÂN

Nước mất, nhà tan, sông núi đây
Thành xa xuân đến, cỏ chen dày
Tang thương hoa la,́ sầu bi lụy
Ly cách chim trời, hận oán ai.

Ba tháng ngút trời khói bốc xa
Mừng vui tin quý, lá thư nhà
Loe hoe tóc trắng, đầu thưa thớt
Lạc lỏng trâm cài, vứt chỏng chơ

Trần Văn Dõng
January 3, 17

XUÂN QUA

Nước loạn ly còn sông còn núi 
Hoa xuân kia hờn tủi thêm đau 
Chân đi mắt lệ tuôn trào 
Biệt ly tim nghẹn , lòng sao u hoài !

Chinh chiến kéo hạn dài ba tháng 
Nhận thư nhà...xứng đáng bao ngân 
Tóc già rụng trắng phân vân 
Làm sao búi được ...tần ngần tháng năm !

Trần Hoành Châu
January 3, 17