Kỷ niệm gặp thi sĩ ‘điên’ Bùi Giáng
Tôi có người bạn học khá thân là Đại đức Thích Huệ Nhật,
người gốc Quảng Trị. Chúng tôi hoạt động chung trong một số công tác xã hội năm
1970-1971, khi cùng học ở ĐH Vạn Hạnh. Huệ Nhật khá thân với Bùi Giáng.
Những ngày cuối của cuộc chiến
Qua Huệ Nhật, thỉnh thoảng tôi cũng gặp Bùi Giáng, mặc dù ở
ĐH Vạn Hạnh đôi lần tôi cũng nhìn thấy ông ở hành lang trên lầu gần phòng thầy
Viện trưởng Thích Minh Châu hay trong thư viện.
Bạn tôi giới thiệu tôi là một người làm thơ, rất thích thơ
ông, Bùi Giáng chỉ im lặng nhìn tôi chẳng thèm nói một lời... Cuối năm 1973 tôi
bị tù rồi đi quân dịch. Đến tháng 1-1975, khi tôi đào ngũ về lại Sài Gòn, mới
gặp lại Huệ Nhật, lúc này đã cởi áo tu, chung sống với một cô tiến sĩ người Đức
trong một căn nhà lá tuềnh toàng ven một con kênh ở Nhà Bè xung quanh toàn dừa
nước. Hỏi ra mới biết bạn tôi cùng làm công tác xã hội Terre des Homes tại Gò
Vấp với cô người Đức này. Hai người phải lòng nhau, chàng cởi áo tu, rủ nàng
cùng nhau về đây chung sống, tuy nghèo nhưng rất hạnh phúc. Đúng là một túp lều
tranh hai quả tim vàng! Mặc dù đã cởi áo tu, không còn là đại đức nhưng mọi
người theo thói quen vẫn gọi pháp danh cũ của anh, ít ai biết hay gọi tên thật
của anh là Nguyễn Đại Ủy.
Thời gian này tôi hay gặp Bùi Giáng ở nhà Huệ Nhật. Nhật bảo
có khi ông ghé ở cả tuần, lúc nào chán ông lại đi. Cô vợ người Đức của anh cũng
rất thích Bùi Giáng. Ông nói chuyện với cô gái Đức bằng tiếng Pháp, thỉnh
thoảng chêm tiếng Đức hoặc tiếng Anh, không có vẻ gì là một “người điên”, một
“nhà thơ điên” nổi tiếng nhất miền Nam. Thật lạ lùng là trong những ngày cuối
của chế độ Sài Gòn, không khí chiến tranh lẫn tình hình chính trị nóng hầm hập
nhưng ở căn nhà tranh của vợ chồng Huệ Nhật vẫn êm đềm, tĩnh lặng như ở một thế
giới khác. Bùi Giáng với phong thái ung dung của một đạo sĩ, từ tốn nói, còn cô
tiến sĩ người Đức thì ngồi chăm chú nghe say sưa... Huệ Nhật và tôi chỉ lẳng
lặng nghe hay lảng ra bờ kênh nghe tiếng lá dừa nước rì rào chen lẫn tiếng súng
từ xa vọng lại của những giờ phút cuối cuộc chiến tranh...
Dùng “thần chú” điều khiển thi sĩ điên
Sau ngày 30-4-1975, Bùi Giáng bỗng trở nên “điên” dữ dội.
Hằng ngày ông mang lỉnh kỉnh trên người đủ thứ đồ phế thải mà người ta vất đi,
từ cái chuồng chim, thùng các tông, tấm áo mưa rách, đến cả áo lót phụ nữ ông
cũng choàng lên vai, ra đứng giữa đường điều khiển giao thông, quay qua quay
lại chỉ trỏ hướng dẫn xe cộ, có khi ông bị mấy cậu thanh niên đeo băng đỏ túm
kéo ông về phường. Lần đó, đâu khoảng giữa năm 1976, gặp ông mang đủ thứ trên
người, đứng giữa đường trước chợ Trương Minh Giảng (sau đổi là chợ Nguyễn Văn
Trỗi) múa chân múa tay, sợ ông lại bị công an hay thanh niên cờ đỏ tới tóm, tôi
chạy đến nói để tôi chở ông đi nhưng ông phớt lờ như không nghe không thấy tôi.
Tôi bèn kề tai ông nói nhỏ một câu “thần chú”! Đây là kế mà Huệ Nhật đã bày
tôi. Thật ra đó chỉ là câu “cô Kim Cương đang chờ anh”. Bấy giờ ông mới chịu
cho tôi chở ông đi. Tôi bảo ông vất bớt ba thứ linh tinh đi nhưng ông lắc đầu.
Tôi đành chở ông mang theo đồ lỉnh kỉnh ra “văn phòng giao dịch chợ trời” của
tôi ở quán cà phê không tên, số 75 Gia Long (Lý Tự Trọng) quận 1. Tôi mời ông
uống cà phê, ông hỏi: “Cà phê sữa bao nhiêu, mi?”, tôi bảo hai đồng. Ông nói:
“Tau không uống cà phê. Tau uống nước trà, mi cho tau hai đồng rứa, hỉ?”. Tôi
gọi cà phê và đưa ông mấy đồng. Bùi Giáng cười hề hề bảo uống cà phê mà lại có
tiền thì tau tới tìm chú mi hoài. Té ra ông già tỉnh như sáo chứ có điên gì
đâu! Thật ra bấy giờ Bùi Giáng mới 50 tuổi nhưng với râu tóc bù xù điểm bạc,
lại ăn mặc xốc xếch nên trông như một ông già.
Ông ngồi im lặng ngó mông ra đường nhìn xe cộ chạy qua.
Chợt thấy cuốn Nam Hoa Kinh, bản dịch của Nhượng Tống, mà tôi thường mang
theo đọc trong những lúc một mình, mắt Bùi Giáng sáng lên. Ông hỏi: “Mi đọc Nam
Hoa mà mi có biết tại sao “thằng” Trang Tử chửi “thằng” Khổng Tử không?”. Tôi
khá bất ngờ và tính thưa thiệt là không biết nhưng không chờ tôi nói, ông đã tự
trả lời: “Bởi “thằng” Trang Tử “nó” quá mê và nể sợ Khổng Tử nên phải chửi
thôi! Chửi theo ngôn ngữ của Trang”. Ông đã khai sáng cho tôi một điều rất thú
vị mà tôi nhớ hoài! Đó là dịp hiếm có vì cả buổi sáng hôm đó, tôi bỏ chạy chợ
trời, ngồi trò chuyện với ông về đủ thứ chuyện, từ chuyện thi ca, triết học đến
chuyện bán thuốc Tây chợ trời... Bùi Giáng bảo Nhượng Tống tài hoa lắm, dịch
hay nhưng biết khiêm tốn.
Thấy ông vui, tôi cũng chọc ông vài câu chơi. Tôi bảo lục
bát Mưa Nguồncủa anh rất hay nhưng sao bằng Kiều và... Lửa
Thiêng. Ông gật gật đầu. Tôi biết ông rất nể Huy Cận mỗi khi nhắc đến.
Nhưng bỗng nhiên ông nổi đóa: “Mưa Nguồn của tau tưới tắt Lửa Thiêng...”.
Hình như ông thấy mình “bị dụ”. Tôi chộp ngay: “Thấy chưa, anh đặt cái tựa
tập Mưa Nguồnlà cũng từ Lửa Thiêng, phải không?”.
Ông im lặng, vẻ mặt đăm chiêu. Bỗng nhiên tôi thấy mình có
lỗi, tôi mời ông đi ăn cơm trưa nhưng ông lắc đầu, rồi ông đứng dậy mang mấy
món đồ lỉnh kỉnh đi ngược đường về phía Công viên Tao Đàn. Tôi nói ông đi đâu
để tôi chở nhưng ông lắc đầu. Tôi nhìn theo ông mà lòng nặng trĩu. Tôi dặn
chị chủ quán khi nào thấy ông đến thì mời ông cà phê và gửi ông 10 đồng rồi tôi
sẽ trả lại. Nhưng cả năm không thấy ông trở lại quán, có thể là ông cũng chẳng
nhớ gì.
“Đi lên đi xuống đã đời du côn”
Mãi mấy năm sau, hình như cuối năm 1983 đầu 1984, tôi mới
lại gặp Bùi Giáng, cũng lại nhà Huệ Nhật nhưng ở đường Lương Nhữ Học, quận 5,
gần nhà thuốc Tây của tôi mới mở chung với mấy người bạn trên đường Trần Hưng
Đạo B. Lúc này bạn tôi, cựu tu sĩ Huệ Nhật đã lấy một cô vợ khác người Việt, là
trưởng hay phó đoàn văn công gì đó. Bởi sau ngày 30-4-1975, cô vợ người Đức của
Huệ Nhật bị trục xuất về nước và bạn tôi bị nhốt mấy tháng vì bị nghi làm gián
điệp do có vợ Tây. Ra tù, Nhật bị bệnh, nằm bệnh viện và quen cô văn công cũng
đang nằm bệnh viện. Rồi hai người phải lòng nhau, lấy nhau... Vợ của anh có cái
tên khá lạ là Thương Muộn, là con gái nuôi của nhà báo, nhà thơ trào phúng Xích
Điểu. Chị là lãnh đạo đoàn hát nên được cấp cái nhà mặt tiền trên đường Lương
Nhữ Học, quận 5. Chị Thương Muộn thường đi theo đoàn hát, còn bạn tôi ở nhà bán
bu lông, đinh tán, ốc vít trên lề đường trước nhà. Bùi Giáng lúc này khá tỉnh,
thỉnh thoảng ghé nhà Huệ Nhật ở chơi vài ba ngày. Huệ Nhật chỉ đường Bùi Giáng
ghé nhà thuốc Tây tôi chơi. Một chiều, ông lững thững xách một cái bao vải thật
bự không biết đựng gì trong đó, ghé nhà thuốc ngoắc tôi ra ngoài. Ông ngồi bệt
xuống lề đường trước cửa nhà thuốc nhìn xe chạy. Tôi phải nhờ anh bạn dược sĩ
thay tôi trực nhà thuốc để tôi chở ông đi loanh quanh: “Sài Gòn - Chợ Lớn
rong chơi/ Đi lên đi xuống đã đời du côn”, rồi chiều tối ghé lại sạp bán bu
lông, ốc vít của Huệ Nhật, chờ bạn tôi dọn hàng xong rồi lai rai...
Khi Bùi Giáng mất, tôi và Nguyễn Tôn Nhan - nhà thơ, nhà Hán
học, nhà nghiên cứu văn học cổ Trung Quốc - đến viếng ông đang quàn tại chùa
Vĩnh Nghiêm. Nhưng rồi hai đứa tôi chỉ đứng ngoài lề đường trước chùa, vái ông
hai vái, vì trong nhà tang lễ đông nghẹt người, lại nghe cả tiếng đọc thơ và
tiếng đàn hát... Bây giờ Nguyễn Tôn Nhan cũng đã ra người thiên cổ.
Tôi đọc Bùi Giáng từ năm 16 tuổi. Từ các tập thơ Mưa
Nguồn, Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Màu Hoa Trên Ngàn... đến các sách
biên khảo Tư Tưởng Hiện Đại, Sương Bình Nguyên, Thi Ca Tư Tưởng, Con Đường
Ngã Ba... Nhất là các bản dịch Albert Camus, André Gide, Saint Exupéry...
Tôi nhớ nhà Trang học Lâm Tây Trọng trong lời tựa bản chú giải Nam Hoa
kinh của Trang Tử (một tác phẩm mà Bùi Giáng cũng rất mê và bàng bạc trong
nhiều tác phẩm của ông), rằng: “Đã đọc Trang, có ai chẳng khen là lạ lùng,
tuyệt diệu? Tôi trộm nghĩ: Kẻ đọc Trang, thực ra chưa ai đọc nổi Trang. Mà kẻ
khen Trang, thực cũng chưa ai khen được đúng những chỗ lạ lùng tuyệt diệu
đâu...”. Thiết nghĩ với Bùi Giáng cũng vậy. Nhiều người đọc và khen thơ Bùi
Giáng một cách vô tư, bởi đọc thơ Bùi Giáng rất dễ nhưng lại khó vô cùng. Trừ
những câu thơ, bài thơ cà rỡn, đùa chơi mà người đời hay gọi là “thơ điên” ra
thì thơ ông đầy ẩn dụ, gợi cảm mà người đọc phải đắm mình góp phần sáng tạo với
thi sĩ mới cảm nhận được cái đẹp, cái hay của thơ Bùi Giáng. Đọc thơ Bùi Giáng
đôi khi như “cất mình bay lên khỏi mặt đất và lòng thì đầy những ngậm ngùi và
tha thứ”, như cách ví von của Nhượng Tống khi đọc Nam Hoa kinh của
Trang Tử...
Phạm Chu Sa
Nguồn: