Blog CHIA SẺ VUI BUỒN:
Viết, đọc thơ văn là thú vui tao nhã. Xin chép lại nơi đây thơ văn của bè bạn, của tôi và sưu tầm những bài hay của các thi văn sĩ thành danh nổi tiếng, bên cạnh đó là những nhạc khúc, clips, hình ảnh đẹp … để chia sẻ với mọi người cùng tìm chút niềm vui.
Anh Tú
anhtu010168@yahoo.com.vn
Mây hải vân đùn quanh tháp ngọc tay ngà Chiều tà chiều tà nắng đổ bờ vai Chợt buồn đêm nay đếm ngón tay mới ngỡ mình già Ờ, ba mươi tuổi rồi Đồng tiền mừng tuổi lên năm đã mất theo mùa xuân nảy lộc Mây hải vân đùn quanh tháp ngọc tay ngà Chiều tà chiều tà nắng đổ bờ vai Trời buồn mây bay qua mấy truông bóng nhỏ đường dài Đường xưa đưa tiễn người Dịu dàng ngả nón trông theo Người ra đi dấu vội lệ nhòa
Điệp khúc: Anh yêu em Từ đó Mưa trên cao nguyên mưa qua lá đồi sim tím Về con đê đầu làng Về con sông đầu ngõ Từ đó yêu em Đêm chiếu chăn tình xưa chín đỏ Chớm thu già tóc bỏ đường ngôi
Lời 2:
Đêm tháng năm nằm nghe gió lộng đi về Đi về Người từ trên đỉnh mù sương Người từ biên cương nghe tiếng reo bếp lửa chiều chiều Mà thương em thật nhiều Bàn tay ru nắng nâng niu những cánh chim dìu trong giấc mộng Đêm tháng năm nằm nghe gió lộng đi về Đi về Người từ trên đỉnh mù sương Người từ biên cương nghe dấu chân đá sỏi rộn ràng Đường xa trông thật gần Vội vàng len lén vô sân Dành cho em giây phút thật tình cờ
Điệp khúc: Anh yêu em Từ đó Môi em rưng rưng đong đưa lá đò nôi nhỏ Mẹ ru anh lần đầu và em ru lần cuối Từ đó yêu em Chim ngủ quên đường xưa lối cũ Nắng hanh vàng hong tóc rũ ngoài song
Nhà thơ Cung Trầm Tưởng, tác giả ‘Mùa Thu Paris,’ qua đời ở tuổi 90
October 9, 2022
EAGAN, Minnesota (NV) – Nhà thơ Cung Trầm Tưởng, tác giả của nhiều bài thơ nổi tiếng được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc như “Mùa Thu Paris,” “Chưa Bao Giờ Buồn Thế,”… vừa qua đời lúc 4 giờ 27 phút, chiều 9 Tháng Mười, tại bệnh viện United Hospital, thành phố Saint Paul, tiểu bang Minnesota.
“Bố tôi mất vì viêm phổi nặng và nhịp tim yếu quá!” Bà Hằng Cung, người con gái lớn trong bảy người con (bốn trai, ba gái) của nhà thơ, xác nhận với Nhật báo Người Việt.
Nhà thơ Cung Trầm Tưởng. (Hình: Hạnh Tuyền/Người Việt)
Bà Hằng Cung nói thêm: “Chúng tôi rất buồn, rất sốc về sự ra đi của bố. Nhưng cũng rất tự hào về bố, về các bài thơ nổi tiếng của bố được bác Phạm Duy phổ nhạc quen thuộc mà nhiều người biết.”
Theo bà Hằng Cung, nhà thơ Cung Trầm Tưởng “tên thật là Cung Thức Cần, sinh ngày 28 Tháng Hai, 1932, tại Hà Nội, sau đó di cư vào Nam và sống tại Sài Gòn. Sau 1975 ông bị tù cộng sản, gia đình mất nhà và về sống với nhà bà nội tại đường Trần Hưng Đạo, Quận 1. Năm 1993 gia đình sang Mỹ theo diện HO, định cư tại thành phố Eagan, tiểu bang Minnesota, với sự giúp đỡ của nhạc sĩ Cung Tiến.”
Còn theo một người bạn của nhà thơ, cựu Trung Tá Không Quân VNCH Võ Ý: “Cung Trầm Tưởng là trung tá Không Quân VNCH, trưởng Phòng Kế Hoạch, Bộ Tư Lệnh Không Quân cho đến 30 Tháng Tư, 1975. Sau đó ông đi tù Cộng Sản 10 năm và qua Mỹ năm 1993.”
“Tôi cũng ở tù Cộng Sản 13 năm, ra tù sau Cung Trầm Tưởng, nhưng ở cùng ông trong các trại tù như Long Giao, hay Hà Tây ngoài Bắc,” ông Võ Ý cho hay.
Theo trang Wikipedia, Cung Trầm Tưởng bắt đầu làm thơ năm 15 tuổi (1947) và có tập thơ đầu tay tên là “Sóng đầu dòng” (chưa in).
“Năm 1949, ông rời Hà Nội vào Sài Gòn, học tiếp trung học tại trường Chasseloup Laubat (nay là Trung Học Lê Quý Đôn).
Năm 1952, sau một năm học đại học, ông sang Pháp du học tại Trường Kỹ Sư Không Quân ở Salon-de-Provence.
Năm 1957, ông tốt nghiệp trở về nước làm trong ngành không quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.”
“Trong năm này, hai bài thơ của ông là “Mùa Thu Paris” và “Vô Đề” (thơ trường thiên) xuất hiện trong tuyển tập Đất Đứng của nhóm Quan Điểm (gồm Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng), và đã làm người đọc chú ý.
Năm 1958, ông đứng ra chủ trương tờ Văn Nghệ Mới và cộng tác thường xuyên cho các tạp chí Sáng Tạo, Hiện Đại, Nghệ Thuật, Văn, Khởi Hành…”
“Trong khoảng thời gian này, nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc một số bài thơ của ông, đó là những bài “Mùa Thu Paris”, “Chưa Bao Giờ Buồn Thế” (Phạm Duy gộp lại và lấy tên là “Tiễn Em”), “Bên Ni Bên Nớ”, “Khoác Kín” (Phạm Duy lấy tên “Chiều Đông”), “Kiếp Sau”, “Về đây”…. Tổng cộng trong 13 bài thơ trong tập Tình Ca của ông thì sáu bài Phạm Duy chọn phổ nhạc.”
Vẫn theo Wikipedia, “Năm 1962, ông sang Hoa Kỳ học về khí tượng, đậu tiến sĩ khí tượng học tại Đại Học Saint Louis. Sau đó, ông trở về Sài Gòn tiếp tục làm trong binh chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa với cấp bậc cuối cùng là trung tá (1975).”
“Các tác phẩm của Cung Trầm Tưởng đã in: Tình Ca (Nhà xuất bản Công Đàn, Sài Gòn, 1959); Lục bát Cung Trầm Tưởng (Nhà xuất bản Con Đuông, Sài Gòn, 1970); Lời Viết Hai Tay (Nhà xuất bản Imn, Bonn, 1994; thơ tù cải tạo); Bài Ca Níu Quan Tài (tác giả tự xuất bản, Minnesota, Hoa Kỳ, 2001; thơ tù cải tạo); Một hành trình thơ (Nhà xuất bản Tiếng Quê Hương, Falls Church, Virginia, Hoa Kỳ, 2012).”
Nhưng có lẽ, một trong những đoạn thơ của Cung Trầm Tưởng được người đời nhớ nhất là “Lên xe tiễn em đi/Chưa bao giờ buồn thế/Trời mùa đông Paris/Suốt đời làm chia ly…” trong bài “Chưa Bao Giờ Buồn Thế” được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc.
Nguồn: Khôi Nguyên/Người Việt
Ý Lan - Mùa Thu Paris (Phạm Duy, thơ: Cung Trầm Tưởng ) PBN 107
If I had only known the last time would be the last time
I would've put off all the things I had to do
I would've stayed a little longer, held on a little tighter
Now what I'd give for one more day with you
'Cause there's a wound here in my heart where something's missing
And they tell me that it's gonna heal with time
But I know you're in a place where all your wounds have been erased
And knowing yours are healed is healing mine
The only scars in Heaven, they won't belong to me and you
There'll be no such thing as broken, and all the old will be made new
And the thought that makes me smile now, even as the tears fall down
Is that the only scars in Heaven are on the hands that hold you now
I know the road you walked was anything but easy
You picked up your share of scars along the way
Oh, but now you're standing in the sun, you've fought your fight and your race
is run
The pain is all a million miles away
The only scars in Heaven, they won't belong to me and you
There'll be no such thing as broken, and all the old will be made new
And the thought that makes me smile now, even as the tears fall down
Is that the only scars in Heaven, yeah, are on the hands that hold you now
Hallelujah, hallelujah
Hallelujah, for the hands that hold you now
There's not a day goes by that I don't see you
You live on in all the better parts of me
Until I'm standing with you in the sun, I'll fight this fight and this race
I'll run
Until I finally see what you can see, oh-oh
The only scars in Heaven, they won't belong to me and you
There'll be no such thing as broken, and all the old will be made new
And the thought that makes me smile now, even as the tears fall down
Is that the only scars in Heaven are on the hands that hold you now
2022/06/02
MÙA THU TRÊN CAO
Thơ: Trầm Hương Ptt
Nhạc: Nguyễn Văn Thơ
Trình bày: Lệ Tuyền
2022/05/25
MƯA HẠ
Sáng tác: Kim Dung
Trình bày:Thu Huỳnh
2022/04/19
NGÀY CÒN EM BÊN TÔI
Tác giả: Trần Uyên Khanh
Ngày còn em bên tôi đời là xuân với vạn câu cười...
Ngày còn em bên tôi trăm niềm vui nhớ thương hờn dỗi...
Ngày còn em bên tôi, ngày thần tiên yêu dấu lên ngôi...
Tiếng đẹp lời êm trên môi, có gì đẹp hơn em ơi !!!
Ngày còn em bên tôi là còn mơ với mộng trong đời...
Ngày còn em bên tôi trăng còn soi bước đôi về tối...
Ngày còn em bên tôi, ngày còn nghe câu hát lên khơi...
Ngày em...... đến bên tôi lần cuối mắt lệ nhòa tiếng phân ly, khóc một lần cho mãi mãi... xa nhau từ đấy thôi hết rồi mơ ước xưa...
Để rồi em xa tôi trời vào thu lá đổ ngập lòng...
Để rồi em xa tôi cho mùa đông tuyết giăng ngập lối...
Còn gì đây em ơi ! còn lại đây trong phút giây thôi...
Giữ đời lời cuối cho nhau kỷ niệm mình thuở ban đầu...
2022/02/25
Xin Chào Việt Nam | Nghệ sỹ Violin JMI KO
2022/02/06
Mùa Xuân Đầu Tiên
Trần Mạnh Hảo: Tác phẩm “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao từng
bị “giết” như thế nào?
Nhạc sĩ Văn Cao (file photo) - SGN
Không đợi khi Xuân đến, Tết về như dịp này, chúng tôi mới
nghe lại bản nhạc bất hủ “Mùa xuân đầu tiên” Văn Cao khởi viết cuối Tháng Mười
Hai 1975, hoàn thành trong dịp Tết Bính Thìn năm 1976. Đây là bài hát có số
phận đặc biệt nhất trong cuộc đời sáng tác của Văn Cao. Đây cũng là bài hát
mang nhiều tâm trạng đối lập, hòa trộn nước với lửa: vui ít, buồn nhiều, mừng
ít, tủi nhiều, hoan ca ít, bi ca nhiều, tha thiết ít, nghẹn ngào nhiều, bâng
khuâng ít, đau đáu nhiều, tự sự ít, ai oán nhiều, mê say ít, thở than nhiều,
cứng cỏi ít, run run nhiều, da diết ít, nỉ non nhiều, cười ít, khóc nhiều, sum
họp ít, cô đơn nhiều, yêu thương ít, đau thương nhiều, gặp gỡ ít, bơ vơ nhiều…
Hầu như tất cả trạng thái tình cảm trái ngược nhau của con
người đều có trong bản nhạc kỳ lạ này: ai vui hát lên thì nghe vui, ai buồn hát
lên thấy buồn não ruột, ai đau khổ hát lên thấy một trời đau khổ, ai sầu thảm
hát lên thấy cả một thế giới sầu thảm đang đồng cảm cùng mình… Nghe đi nghe lại
bản nhạc này, ta thấy xuất hiện trong tâm trí mình rất nhiều tâm trạng không
thể dùng ngôn ngữ diễn đạt. Nếu bạn đã hoặc đang đi qua bể khổ trần gian, nghe
bản nhạc “Mùa xuân đầu tiên” bạn sẽ cảm thương, nhờ nước mắt diễn đạt nỗi lòng
mình.
Riêng lời bài hát đã là một bài thơ hay:
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường mùa vui nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
Một trưa nắng cho bao tâm hồn
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai
anh
Niềm vui phút giây như đang long lanh
Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên
Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người
Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường, mùa vui nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
Một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông
Rất nhiều chim én, nhiều nắng gió, có nước mắt vui gặp gỡ
của đàn con nay đã về, có cuộc đời êm ấm… nhưng sao hình ảnh “khói bay trên
sông, gà đang gáy trưa trên sông” lặp lại hai lần làm không gian của “Mùa xuân
đầu tiên” xa xôi, bơ phờ thế, xao xác thế, hoang vắng thế, hiu quạnh thế, đơn
độc có phần cô đơn thế? Chợt nhớ nỗi buồn thiếu quê hương của Thôi Hiệu trong
Hoàng Hạc lâu xưa, cũng một tiếng gà trưa Văn Cao nay, một khói sóng trên sông
xa Văn Cao nay, u hoài khôn xiết: “Một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông”:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!)
Chợt nhớ Lưu Trọng Lư “thời con nai vàng ngơ ngác” với câu
thơ tiền chiến xưa sao rất đồng cảm với nỗi vui não nùng Văn Cao nay: “Tiếng gà
trưa xao xác não nùng”.
Bài hát như một điệu valse bằng nước mắt; sự thướt tha, quý
phái của một giai điệu bi thương; sự sang trọng của ngậm ngùi, day dứt; sự lãng
mạn của một phiêu linh, xô dạt; sự mê đắm của một vu vơ; sự đoan trang của cái
đẹp lỡ thì; sự liêu trai của ngơ ngác, đìu hiu; sự dịu dàng của nỗi thương đau,
xót nhớ…
Chừng như đã mấy chục năm chiến tranh liên miên chưa từng có
Xuân về? Chừng như gần hết cả đời người bận chuyện đấu tranh giai cấp giành
giật miếng ăn chưa từng thấy chim én báo Xuân? Chừng như đã rất lâu rồi sự căm
thù trùm lên xã hội không còn ai biết thương người? Chừng như đã lâu lắm rồi ta
tha hương trên chính quê hương mình? Chừng như suốt mấy cuộc chém giết kinh
hoàng mạo danh cách mạng, không còn ai biết yêu con người? Chừng như mấy mươi
năm rồi con người đã quên mình còn nước mắt? Chừng như lâu rồi tâm hồn người
không được sưởi nắng mùa Xuân?
Và chừng như lâu lắm rồi Văn Cao quên không còn nhớ mình
từng là nhạc sĩ lãng mạn đã có cả chục ca khúc vào hàng kiệt tác? Chừng như cây
đàn piano cũ kỹ do Hội nhạc sĩ Việt Nam cho Văn Cao thuê mỗi tháng bảy
đồng (thuê căn gác chật hẹp cũ kỹ 108 Yết Kiêu 15 đồng) đã bị thời gian phủ bụi
đầy rêu mốc? Chừng như đôi tai Văn Cao đã bị súng đạn thời cuộc, sự hò hét
xướng ca hò vè phục vụ chính trị một thời làm ù đặc, khi tất cả kiệt tác âm
nhạc của ông đều bị chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc) cấm hát, trừ
bài Quốc ca (kể cả thơ Văn Cao cũng bị cấm)?
Và chừng như toàn bộ vết thương cuộc đời Văn Cao, vết thương
cuộc đời dân tộc, bỗng mượn ngón tay ông mà nhỏ xuống cây đàn piano những giọt
nước mắt giai điệu, khiến những vết thương chợt mở miệng ca hát: “Mùa xuân đầu
tiên”.
Chừng như nỗi niềm ngày 30 Tháng Tư 1975: “Có một triệu
người Việt Nam vui thì cũng
có một triệu người Việt Nam
buồn” (lời ông cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã hiện ra nơi bài hát “Mùa xuân đầu
tiên” của Văn Cao? Trong bài hát ấy, kỳ lạ thay, tôi nghe có một nửa nước vui
thắng trận trào nước mắt và một nửa nước buồn thua trận cũng trào nước mắt,
chợt ôm chầm lấy nhau mà quằn quại, mà dằn vặt giằng xé nhau, cười khóc mếu máo
bầm dập nhau, nên vui ấy sao buồn hiu hắt thế, lênh đênh phiêu bạt thế, nức nở
nghẹn ngào thế?
Có lẽ, chính vì những điều trên mà kiệt tác “Mùa xuân đầu
tiên” của Văn Cao sau khi được báo Sài Gòn Giải Phóng in trước Tết
Bính Thìn, ngày 1 Tháng Một 1976, được hát trên Đài Tiếng nói Việt Nam mấy lần,
liền bị cấm suốt 24 năm (1976-2000)! Sinh thời, Văn Cao không được nghe, được
nhìn thấy đứa con tinh thần lớn lao này của mình được trình diễn. Sau khi ông
mất (1995) năm năm, “Mùa xuân đầu tiên” mới ra khỏi nhà tù kiểm duyệt của chế
độ.
Xin quý bạn đọc hãy nghe nhà thơ, họa sĩ Văn Thao, con trai
trưởng của nhạc sĩ Văn Cao kể sơ qua về sự ra đời của bài hát này:
“Sau khi bài “Tiến về Hà Nội” ra đời cuối năm 1949, bố bị
đưa ra kiểm điểm và bị phê phán khắp nơi. Từ đó bố đã thề, sẽ không sáng tác ca
khúc chính trị nữa… Nhưng rồi những năm tháng sau này đôi lúc hứng khởi bố vẫn
sáng tác. Vẫn biết có sáng tác ra cũng chẳng được dàn dựng… Tôi còn lưu giữ
được một số tác phẩm của ông sáng tác sau này nên tôi hiểu những điều ông nói.
Giá như ông không bị rơi vào cái nạn “Nhân văn” và bị “vô hiệu hóa” mất 30 năm
thì tôi chắc rằng ông sẽ còn sáng tác được thêm nhiều tác phẩm cho nền âm nhạc
Việt Nam. Những ngày tháng sau đó, căn gác nhỏ nhà Văn Cao không lúc nào ngớt
khách. Những khuôn mặt bừng sáng. Những nụ cười rạng rỡ. Những giọt nước mắt
sung sướng bên những ly rượu tràn đầy và có cả những khuôn mặt, một thời không
dám bước chân đến căn gác nhỏ này vì sợ “bị vỗ vai”. Văn Cao đã sáng tác xong
ca khúc MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN vào đúng dịp tết Bính Thìn”.
(Trích bài “Văn Cao với ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” của Văn
Thao in trên Tạp chí Sông Hương số 179-180).
Văn Thao tiết lộ tiếp rằng, bài hát bị cấm ở Việt Nam nhưng bên Liên Xô người ta lại dịch sang
tiếng Nga, phát trên Đài phát thanh Moscow:
“Nhưng cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng con đường nào),
trong cái năm 1976 ấy, MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN đã được in ở nước Nga và được Liên Xô
trả nhuận bút cho tác giả 100 rúp. Văn Cao phải viết giấy ủy quyền qua sứ quán
để con gái ông đang học bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: ‘Con cứ lấy mà tiêu, ở
nước mình bao lâu nay bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu”.
Nhạc sĩ Văn Cao dưới nét vẽ của họa sĩ Trần Thế Vĩnh
Qua tiết lộ trên của anh Văn Thao, con trưởng nhạc sĩ, thì
nhà ông Văn Cao trên căn gác nhỏ 108 Yết Kiêu suốt một thời luôn luôn có công
an ngầm canh gác, ai đến đều “bị vỗ vai” hỏi tên tuổi, xem đến nhà tên phản
động “Nhân Văn” làm gì? Người viết bài này sau năm 1975 có lần đến thăm nhạc sĩ
Văn Cao để cho ông mượn cuốn tiểu thuyết vĩ đại “Giờ thứ 25” của văn hào
Romania Constantin Virgil Gheorghiu (1916-1992) mang ra từ Sài Gòn như đã hứa,
cũng từng bị công an mật “vỗ vai” hỏi đi đâu? Bèn bảo: Đi phỏng vấn tác giả Quốc
ca viết bài in báo cũng bị cấm à? Người “vỗ vai” hất đầu cộc lốc: “Vào đi”.
Người ta đã cầm giữ Văn Cao như một tù nhân lương tâm bị
giam lỏng, một thứ nhà tù tại chỗ, nhà tù nhân dân kiểu xã hội chủ nghĩa. Rằng
Văn Cao bị vô hiệu hóa suốt 30 năm vì tội Nhân Văn-Giai Phẩm. Rằng suốt 30 năm
ấy, nhạc sĩ Văn Cao sống rất nghèo khổ, “bố có được biết đến đồng nhuận bút tác
phẩm nào đâu”.
Chúng ta lại được nghe người con trai thứ của nhạc sĩ Văn
Cao, nhà thơ Nghiêm Bằng kể sơ qua về sự ra đời của “Mùa xuân đầu tiên”:
“Đó là một đêm vào giữa Tháng Mười Hai 1975. Chúng tôi đang
sống với cha mẹ trong ngôi nhà số 108 Yết Kiêu. Mùa Đông, Hà Nội rét tê tái.
Cha tôi đã từ lâu rồi không đàn. Vậy mà trong đêm ấy, tôi nghe có tiếng chân
nhè nhẹ lần từng bước từ phòng trong ra gần chiếc đàn piano – đối diện với
chiếc đivăng tôi đang ngủ. Một giai điệu khe khẽ vang lên, nó được đàn bởi một
bàn tay phải. Cũng phải nói thêm là cha tôi đã đàn trên chiếc đàn vốn được Hội
Nhạc sĩ Việt Nam cho thuê lại với giá bảy đồng rưỡi một tháng (lương tôi hồi đó
là 63 đồng, còn tiền thuê nhà là 15 đồng); từ ngày kỷ niệm 30 năm Tiến quân ca
(1974), chiếc đàn mới được tặng hẳn cho cha tôi thì cha lại rất ít có dịp dùng
đến.
“Bài hát đã được báo Sài Gòn Giải Phóng số năm mới
1 Tháng Một 1976 in trang trọng ở bìa bốn và thu thanh ngay sau đó, được phát
trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, nếu tôi không nhầm thì do ca sĩ Trần Khánh và
đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam trình bày. Bài hát được phát khoảng mươi
lần trong chừng một tháng (hồi ấy ca khúc được truyền bá chủ yếu qua sóng phát
thanh), rồi không hiểu sao lặng lẽ chìm đi, như thể bị quên lãng. Như mọi lần,
trong suốt mấy chục năm, cha không tỏ ra bực bội gì, chỉ hơi buồn thôi. Cha tôi
nói chắc chắn bài hát sẽ có ngày được hát lại và mọi người sẽ yêu nó. Và như
mọi lần, cha tôi lại đúng. Chỉ có điều lúc đó cha tôi không còn nữa. Khi bài
hát lần đầu tiên được phát trên sóng truyền hình Việt Nam năm 2000,
cha tôi đã mất được năm năm”
(nhà thơ Nghiêm Bằng-Thu Hà ghi).
2021/10/28
"CHO EM QUÊN TUỔI NGỌC"
Nhạc sĩ Lam Phương viết tuyệt phẩm nầy trong những thập niên 80 tại nước Pháp, đặc biệt dành cho nữ danh ca Bạch Yến trình bày. Sau đó có rất nhiều nữ ca sĩ khác cũng trình bày bài hát nầy, các giọng ca đều rất hay, đặc biệt mình rất thích giọng ca Bạch Yến trong bài nầy. Lam Phương viết hai lời, Việt và Pháp cho bài hát nầy, tuy nhiên nội dung hai lời Việt và Pháp hoàn toàn khác nhau và không có liên quan với nhau...Lời Pháp rất hay, rất lãng mạn và rất buồn...Bài hát đã thoát ra khỏi dòng nhạc thông thường mà Lam Phương thường hay viết. Một ca khúc duy nhất mà Lam Phương viết cả lời Pháp lẫn lời Việt. Bài hát được nhiều nữ danh ca trình bày trong gần 40 năm qua, được nhiều người yêu thích.
Lời Việt:
Cho em quên cơn mộng ảo xa xôi thơ ngây ngày nào
Em quên được phút trong tay mưa bay dạt dào
Ðến muôn đời sau em không còn nhớ yêu đương bên nhau lần đầu
Cho em trao một lời cuối ăn năn quê hương tội tình
Em xin được khóc cô đơn ôi thân phận mình
Thế gian còn ai ? Em xin từ giã thơ ngây xuôi theo dòng đời.
Hơi men nồng cũng chẳng đủ say
Thêm cho đầy giấc mộng chua cay
Có nhớ phút giây lầm lỡ
Uống cho thật say
Uống quên ngày mai
Thế gian đổi thay
Quanh ta có ai
Ðời còn chi trong tay
Mai đây khi hoa tàn úa xanh xao phong ba dập vùi
Em xin nằm xuống mang theo con tim ngậm ngùi
Giấc mơ nhỏ nhoi đưa em vào cõi thiên thu yêu thương đời đời .
Lời Pháp:
C'est toi
C'est toi qui emportes mon cœur
au firmament et qui me fais envie
à chaque instant, à chaque moment.
Il n'y a que la mort qui change mon sort.
C'est toi qui veux oublier tous nos souvenirs
et qui fais vite pâlir mon doux sourire.
A cause de toi,
j'entends murmurer les feuilles jaunies
Dans le rêve tout est fleuri
Dans la vie tout est fini.
Chagrin, chagrin, c'est toi qui me tourmentes
et me poursuis à l'infini.
Amour, tu me délaisses, tu t'enfuis, tu t'enfuis
Amour, je ne veux plus te voir
Tu sais pourquoi!
Mais le bonheur ne dure qu'un seul soir
Il ne reste que ton image
gravée dans ma mémoire.
Dịch sát nghĩa lời Pháp: « Chính là em »
Chính em đã mang con tim tôi lên bầu trời và khiến cho tôi thèm muốn từng khoảnh khắc, từng lúc
chỉ có cái chết mới thay đổi được số phận của tôi.
Chính em muốn quên đi những kỷ niệm của chúng ta
và làm tái đi nụ cười êm dịu của tôi
Chính vì em, tôi nghe những chiếc lá vàng thì thầm
Trong giấc mơ mọi thứ đều nở hoa
Trong cuộc đời tất cả đều chấm dứt
Buồn ơi, buồn ơi chính mi làm ta đau khổ
và theo đuổi ta đến vô tận
Tình yêu, mi chối bỏ ta, mi trốn chạy, mi trốn chạy
Tình yêu, ta không muốn thấy mi nữa
Mi biết tại sao rồi...
Nhưng hạnh phúc chỉ kéo dài một buổi chiều
Chỉ còn lại hình ảnh của em
khắc sâu vào tâm khảm tôi...
Sau đây là bài thơ phỏng dịch theo ý lời Pháp trên:
Chính là em
Em đã mang đi trái tim tôi
Mỗi lần mỗi lúc đậm trong tôi
Nỗi yêu thèm muốn tôi luôn giữ
Và khi tôi mất mới ngừng thôi...
****
Em muốn quên đi những chiều mưa
Và làm tê tái nụ cười xưa
Vì em tôi đứng nghe rừng chết
Thỏ thẻ lá vàng trong gió thưa...
***
Trong mơ tôi thấy nhiều hoa lá,
Trong đời lại thấy những chia xa
Trong mơ chỉ thấy nhiều hoa đẹp
Nhưng rồi hết cả chuyện ngày qua...
***
Buồn ơi sao cuốn mãi trong ta
Tình yêu sao chối bỏ lòng ta
Thôi thì bỏ mặc tình yêu trốn...
Ngày sau ai đó chắc hiểu ra...
***
Hạnh phúc thoáng qua một buổi chiều
Bóng hình ai đó dáng thương yêu,
Trong tim, tâm khảm tôi thầm khắc
Hình ảnh em xưa mãi đáng yêu...
Patrice Tran
Paris 29/02/2020
Chú ý: Xin mời xem clip bài hát nầy do ca sĩ Bạch Yến trình bày :
Phổ nhạc: Phạm Duy / Thơ: Lê Thụ Ý / Trình bày: Ý Lan
Nữ sĩ Lê Thị Ý: ‘Người lính và chiến tranh chưa bao giờ rời
xa tôi’
FALLS CHURCH, Virginia (NV) – Mỗi khi Tháng Tư
đến, những câu chuyện về người lính Việt Nam Cộng Hòa lại cuồn cuộn tuôn chảy
trong ký ức của những ai đã đi qua cuộc chiến. Trong đó, hình ảnh người góa
phụ, hay một cô gái có yêu tử trận, trong cuộc chiến Việt Nam, trong ca khúc
“Tưởng Như Còn Người Yêu,” do Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ “Thương Ca 1” của
nhà thơ Lê Thị Ý, sau hơn nửa thế kỷ, vẫn còn gây nhiều xúc động cho mọi người.
Cuối Tháng Ba, trời Virginia vẫn còn se lạnh. Người phụ nữ
với vóc dáng nhỏ bé, khoác chiếc áo lạnh vừa người, bước vào quán. So với cuộc
gặp gỡ chớp nhoáng sáu năm trước, bà, nữ sĩ Lê Thị Ý, không thay đổi nhiều. Vẫn
mái tóc đơn giản đó, vẫn nụ cười hiền lành, vẫn giọng nói thấm đậm âm hưởng của
người Hà Nội “một ngày năm bốn, cha bỏ quê xa.”
Như hàng triệu người Việt Nam khác, bà là nhân chứng
trong hai cuộc di tản vĩ đại của dân tộc. Nhưng nếu ai có hỏi, cuộc “chạy trốn”
nào để lại trong bà nhiều dấu ấn nhất? Bà sẽ trả lời: “Đó là chuyến vượt biển
năm 1981.”
Sau khi ra khỏi hải phận Việt Nam, tàu của bà
lênh đênh trên biển ba ngày. Sau đó, tàu cập vào đảo Songkhla, Thái Lan. Chỉ
trong ba ngày thôi, con tàu đó gặp hải tặc sáu lần. Không một ai trên con tàu,
kể cả đứa bé chỉ mới tám tuổi, có thể thoát khỏi hành động hãm hiếp của hải
tặc, trừ bà.
“Nói thì không ai tin, nhưng đó là sự thật. Chỉ một mình tôi
may mắn thoát. Có đôi vợ chồng đó, người chồng đau đớn nhìn vợ mình bị hãm hại
ngay trước mắt. Nhưng khi đến đảo rồi, họ lại quyết định chia tay. Có lẽ họ
không thoát ra được cơn ác mộng đó, tôi nghĩ vậy.” bà nói.
Đặt chân đến Mỹ, bà định cư tại Maryland cho
đến tuổi về hưu thì về Virginia sống
đến hôm nay. So với những cuộc đời tị nạn khác, năm tháng tha hương của bà có
phần nhẹ nhàng hơn, dù cũng trải qua nhiều công việc làm để tồn tại. Bà từng học
để lấy bằng kỹ thuật viên máy tính, nhưng do giới hạn ngôn ngữ, nên cũng phải
dở dang, chuyển sang công việc khác.
Những năm tháng đó, thơ vẫn là gia tài lớn nhất người nữ sĩ
có được. Bà đã âm thầm cho ra đời bốn, năm tập thơ, chỉ dành tặng cho người
quen, thân hữu.
“Cuộc đời của tôi khá đơn giản, nếu không muốn nói là ‘hạn
hẹp.’ Viết văn thì tả cảnh, tả tình. Thơ thì từ cảm xúc. Mà cuộc đời tôi thì
bình dị, chỉ chất chứa toàn hình ảnh lính và chiến tranh,” bà nói với nụ cười
thật hiền.
“Người lính và chiến tranh chưa bao giờ rời xa tôi”
Nữ sĩ Lê Thị Ý là “con nhà nòi” của thi ca. Bà xuất thân
trong một gia đình văn nghệ. Người anh lớn là nhà thơ Vương Ðức Lệ, người chị
lớn là nhà văn Phượng Kiều, và cô em gái là nhà văn Lê Thị Nhị.
Bà đến với thơ rất sớm, từ lúc còn học trung học. Khi cùng
gia đình di tản vào Nam năm
1954, nữ sĩ Lê Thị Ý sống cùng một người anh là sĩ quan. Đến năm 1960, bà về
Pleiku, làm việc cũng trong một trại lính. Cũng chính vì vậy, theo lời bà,
“Người lính luôn luôn trước mặt. Chiến tranh luôn luôn ở trước mặt. Không bao
giờ rời xa tôi.”
Cả cuộc đời của nữ sĩ Lê Thị Ý được bao phủ bằng hình ảnh
kiên cường, oai hùng của người lính Việt Nam Cộng Hoà. Bà như con chim nhỏ bay
nhảy trong không gian khép kín của cuộc chiến. Thế giới của bà là những bộ quân
phục màu lá rừng, những đôi mắt sáng ngời ý chí, những vầng trán cao kiên cường
của tuổi trẻ lấy tình yêu đất nước làm lẽ sống. Có phải nữ sĩ thần tượng và
thần tượng hóa hình ảnh người lính trong cuộc chiến không?
“Tôi vừa thương vừa thần tượng. Tôi yêu nhất là bộ quân phục
của người lính. Cuộc đời của họ là anh hùng, là sự dấn thân,” bà nói.
Thủ bút của nhạc sĩ Phạm Duy trong bài “Tưởng Như Còn Người Yêu,”
Trong câu chuyện bà kể, khi ở chiến trường, người lính là
anh hùng, là dấn thân. Ngày về phép, hoặc cuối tuần, cởi bỏ bộ quân phục, họ là
người lính chân tình, dễ thương. Bà kể, nếu người lính ấy có 500 đồng để tiêu
xài trong một tuần, thì họ sẽ không dùng. Họ để dành cuối tuần gặp người yêu,
cả hai cùng đi dạo phố.
Hướng tầm mắt ra cửa, bà nói nhẹ: “Tôi vừa thương vừa thần
tượng. Khi người lính vừa ra khỏi cửa, là tôi lại nghĩ ngay đến những hiểm nguy
có thể xảy đến với họ. Tôi có những liên hệ lạ lùng lắm. Nếu nói tôi tưởng
tượng, cũng được.”
Người anh cả của nữ sĩ là một sĩ quan. Lúc nào bà cũng mang
tâm trạng lo sợ anh mình đi trận không trở về. Người yêu đầu đời của bà, là một
người lính. Người yêu thứ hai trong đời, vẫn là một người lính – người đã tử
trận trong một trận đánh.
“Thương Ca 1”
Năm 1965, nữ sĩ rời Sài Gòn. Bà về Pleiku làm việc trong một
trại lính. Năm năm ở phố núi bé nhỏ này, mỗi một ngày bà đối diện với vô vàn
những câu chuyện không tên về cuộc đời người lính. Lúc này, cũng là thời điểm
khốc liệt nhất của chiến tranh. Thế giới xung quanh bà khi ấy chỉ toàn lính, và
lính. Lính và vợ. Lính và vũ khí. Lính và đạn bom. Lính và tử trận. Từ đó, tình
yêu bà dành cho người lính, cuộc đời người lính, càng thêm cao dầy. Đôi khi,
chỉ những câu chuyện trò ngắn ngủi đời thường với vợ lính cũng làm cho trái tim
nữ sĩ chạnh lòng.
Bà nhớ lại, rồi kể:
“Chúng tôi, những người phụ nữ nói chuyện vui đùa với nhau.
Có người nói:
-Trời lạnh thế này mà được ở nhà ôm ông xã thì sướng biết
mấy.
-Thế ông xã đâu?
-Ông xã đi đánh trận.”
Chỉ đơn giản thế thôi, nhưng cũng đủ làm tâm hồn người nữ sĩ
bồi hồi xúc động.
Hình bìa tuyển tập thơ văn “Quê Hương và Kỷ Niệm” trong đó có tác phẩm của Lê Thị Ý. (Hình: Kalynh Ngô/Người Việt)
Thời gian trong trại lính ở Pleiku, nữ sĩ chiêm nghiệm rõ
như nhật nguyệt sự vô thường của đời người trong chiến tranh. Những người ở đó,
gặp đó, rồi mất đó. Một câu chuyện được bà nhớ và kể lại:
“Tôi nhớ vào Giáng Sinh năm đó, có một người lính đến cửa
hàng của tôi mua quà lưu niệm gửi cho gia đình. Anh ấy xin cho khất lại tiền,
đến đầu Tháng Giêng, dịp Tết Tây, anh về trại sẽ gửi trả. Nhưng lần ra trận đó,
người lính mãi mãi không quay về. Sau đó, người em của anh ấy ra nhận trả số
tiền đó. Nhưng tôi không nhận.”
Nữ sĩ đa cảm “thương vay khóc mướn” (theo lời bà tự nhận)
nói rằng, những năm tháng đó, bà rất gần gũi với cái chết của mọi người. Không
biết bao nhiêu lần bà chứng kiến người phụ nữ, những đứa trẻ, những cô gái tuổi
xuân đến mở chiếc “poncho” quấn xác để nhận xác chồng, cha, người yêu. Bà đau
với nỗi đau của họ. Nước mắt của bà rơi cùng tiếng khóc của họ.
“Tôi đi ngang nhà xác, nghe tiếng khóc vọng ra. Tôi nhìn vào
thấy người ta đang nhận xác… đau lắm. Không phải chỉ khi của mình, mình mới
đau…” bà kể. “Nó (nỗi đau) không phải là của mình nhưng đã hóa thành của mình.”
Và bài thơ “Thương Ca 1” ra đời từ đó.
“Tôi làm bài thơ đó rất nhanh. Tôi làm một mạch, không sửa
gì cả. Tôi làm xong cất vào trong bàn học. Ngày xưa, anh tôi, nhà thơ Vương Đức
Lệ, không muốn các em mình theo nghiệp thơ văn, nên tôi làm xong toàn là giấu
đi. Nhưng hôm đó, bạn của anh tôi đến nhà chơi, vô tình thấy bài thơ đó. Ông
nói ‘thơ hay thế này mà không đi đăng.’ Thế là ông xé tờ giấy tập có bài thơ,
đưa cho cụ Nguyễn Ðức Quỳnh, là người trụ trì sinh hoạt Ðàm Trường Viễn Kiến.
Cụ Quỳnh đọc rồi lại chuyển cho cho ông Phạm Duy phổ nhạc,” nữ sĩ kể lại quá
trình ra đời bài thơ “Thương Ca 1” và bài hát “Tưởng Như Còn Người Yêu.”
Nữ ca sĩ Julie Quang, con dâu nhạc sĩ Phạm Duy, là người đầu
tiên hát ca khúc này.
Đã hơn 50 năm trôi qua kể từ khi “Thương Ca 1” ra đời, hình
ảnh người lính Việt Nam Cộng Hòa với bộ quân phục hiên ngang, dũng mãnh, vẫn
mãi trọn vẹn trong trái tim và tâm hồn người nữ sĩ – nhà thơ Lê Thị Ý. [đ.d.]
Người tình già trên đầu nonTuyết đã tan trên vai mỏi mònGiữa đám mây xanh xao chập chờnNhìn mặt trời thoi thóp hoàng hônNgười tình già trên đỉnh khơiMuốn lãng quên trăm năm một đờiNhưng dưới thế gian mông mênh vời vợiNgười chợt nghe tiếng em chờ đợi.ÐIỆP KHÚC'' Người tình già trong lẻ loiCó nhớ thương.... ai ? ''Người tình già nghe lời kêuLững thững đi trên con đường chiềuXuống lũng sâu, leo qua ngọn đèoVề một miền phơn phớt cỏ nâuNgười tình còn nhớ tuổi sonCúi xuống hôn bông hoa thật gầnNghe suối vẫn reo trong hang rì rầmNgười tưởng nghe tiếng em thì thầm...ÐIỆP KHÚC'' Ðợi người tình đã từ lâuVẫn khát khao... nhau ''Người từng là nắng mùa XuânÐã dắt em đi trên đường trầnÐã vuốt ve em trong Hạ mềmRồi lạnh lùng Thu đến... lìa emNgười trở thành cây mùa ÐôngLá úa rơi vun cao cội nguồnNhưng cuối bước đi trăm năm một lầnÐầu cành khô bỗng hoa nở trànÐIỆP KHÚCNgười tình vào cuộc tử sinhSống chết lung... linh.Thành người tình đang trẻ ngâySẽ đứng lên mê say từng ngàyCất bước Xuân đi qua Hạ dài,Người hẹn người leo thế kỷ chơiMột đời người trong tầm taySống với nhau hơn ba vạn ngàyXin cố gắng nuôi sao cho tình đầyChẳng vì Thu với Ðông, ngần ngạiÐIỆP KHÚCVà người tình ngoảnh về nonHát khúc Xuân... sang.CODARồi hẹn rằng sẽ về thămLúc đã trăm... nămVà người tình sẽ từ khơiXuống núi vui... chơiRồi lại từng thế kỷ sauCứ hoá sinh... theo.