2021/04/24

 Tài liệu lịch sử

Le%20Anh%20Tuan



NGƯỜI HÙNG LÊ ANH TUẤN

MẶT TRẬN TUYÊN NHƠN




ĐIỆP MỸ LINH



Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 – dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Thiếu-Tá Đoàn Quan Vũ –  đóng cạnh Chi-Khu Tuyên-Nhơn, gồm có hai đơn vị sau đây:

  • Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn.

  • Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Thiếu-Tá T.M.H.

Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 chịu trách nhiệm những vùng sông rạch thuộc tỉnh Kiến-Tường (Mộc-Hóa) và Định-Tường.

Là một chướng ngại đáng kể đối với những đơn vị cộng sản Việt Nam (csVN) lâm le muốn đưa quân vào Long-An bằng đường thủy, Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 luôn luôn sẵn sàng chấp nhận những trận thư hùng đẩm máu. 

Trong tất cả những trận đụng độ, phải kể đến những cuộc tấn công quy mô do Trung-Đoàn E1 của csVN tấn công vào Tuyên-Nhơn vào cuối năm 1974.

Đêm 6 tháng 12 năm 1974, csVN tấn công dữ dội/dai dẳng/điên cuồng, chiếm được chợ Tuyên-Nhơn và nhiều đồn. Nhưng csVN cũng vẫn không thể xâm nhập vòng đai đơn vị Hải-Quân và Chi-Khu Tuyên-Nhơn; vì Chi-Khu đóng cạnh Bộ-Chỉ-Huy Hải-Quân.

Thời điểm này, Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1, Hải-Quân Thiếu-Tá Đoàn Quan Vũ và Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám đều về Đồng-Tâm hội. Chỉ-Huy-Phó Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1, Hải-Quân Thiếu-Tá Phạm Văn Tạo, phải túc trực tại Bộ-Chỉ-Huy Sư-Đoàn 9 Bộ-Binh để điều hợp hành quân. Chỉ còn Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn – Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận – là sĩ quan thâm niên hiện diện tại đơn vị.

Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn sinh ngày 12 tháng 12 năm 1943; xuất thân trường trung học Chu-Văn-An. Ông học hết năm thứ ba Đại-Học Luật-Khoa thì gia nhập khóa 14 sĩ-quan Hải-Quân Nha-Trang.

Là người em út của một vị Tướng đầy uy quyền – Trung Tướng Lê Nguyên Khang – nhưng Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn không xin phục vụ tại những đơn vị ít nguy hiểm mà Ông lại tình nguyện về các đơn vị tác chiến. Đơn vị cuối cùng do Ông chỉ huy là Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận, đóng tại Tuyên-Nhơn

Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn điều động và chỉ huy phản công. CsVN rút lui, bỏ lại hơn 20 xác!

Đêm 7 tháng 12 năm 1974, để rửa hận, csVN lại tấn công tàn bạo hơn, quyết dứt điểm Hải-Quân để tiến chiếm Chi-Khu Tuyên-Nhơn; nhưng vẫn bị Hải-Quân chống trả mãnh liệt. CsVN lại rút lui, bỏ lại 11 xác!

Sau đó, biết không thể dứt nổi Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1, csVN vẫn cố giữ những địa điểm đã chiếm; đồng thời pháo kích dai dẳng vào đơn vị Hải-Quân và Chi-Khu Tuyên-Nhơn.

Không-Quân Việt-Nam được điều động đến yểm trợ và Sư-Đoàn 9 Bộ-Binh cũng tham chiến, chận đường tiến quân của địch.

Ngày 11 tháng 12 năm 1974, trên đường viện binh, một Chinook chở một đại đội Trinh-Sát thuộc Sư-Đoàn 9 bị csVN dùng SA7 bắn hạ. Rất nhiều thương vong!

Kể từ thời điểm này cho đến tháng 3 năm 1975, đơn vị Hải-Quân và Chi-Khu Tuyên-Nhơn luôn luôn bị áp lực của địch rất nặng nề.

Ngày 26 tháng 3 năm 1975, csVN lại tấn công hết sức quy mô và tàn bạo vào Chi-Khu Tuyên-Nhơn. Hải-Quân và quân bạn chống trả rất mãnh liệt. Cuối cùng, csVN phải rút lui, để lại trận địa khoảng 200 xác! Vũ khí của địch bị tịch thu phải chuyển vận bằng GMC.

Sau chiến thắng tại Tuyên-Nhơn, Hải-Quân Thiếu-Tá Lê-Anh-Tuấn được đề nghị thăng Trung-Tá tại mặt trận.

Ngày 23 tháng 4, Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn về Saigon họp. Khi trở lại đơn vị, trên đường từ Cai-Lậy vào Mộc-Hóa để vào Tuyên-Nhơn, Thiếu-Tá Tuấn xử dụng GMC và bị csVN pháo kích liên tục. Thiếu-Tá Tuấn liên lạc truyền tin với người bạn cùng khóa – Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 40 Ngăn-Chận – xin tiếp viện. Nhưng ăng-ten bị gãy, cuộc điện đàm đứt đoạn.

Tối 24 tháng 4 Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn về đến Tuyên-Nhơn.

Ngày 26 tháng 4, csVN dốc toàn lực tấn công Tuyên-Nhơn. Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 đi phép. Lực-Lượng Hải-Quân tại Tuyên-Nhơn bị pháo kích nặng nề. Tất cả hệ thống truyền tin bị hư hại. Thiếu-Tá Tuấn cố gắng liên lạc với Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám. Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám cho Thiếu-Tá Tuấn biết rằng Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám cũng đang bị địch pháo kích dữ dội. Và, với giọng thất vọng, Ông nói với Thiếu-Tá Tuấn: 

-Thôi, mày báo cáo chi nữa. Hai đứa mình chịu trận cho đến chết thôi! 

Cuộc điện đàm vừa đến đó, bỗng, một tiếng nổ lớn, mọi tần số liên lạc truyền tin đều bất khiển dụng. Cùng lúc đó, csVN đứng thẳng người, vừa tràn vào phòng tuyến của quân Việt-Nam Cộng-Hòa (VNCH) vừa bắn chứ không còn ẩn núp nữa!

Tuy trận chiến khốc liệt như vậy, nhưng Tuyên-Nhơn vẫn đứng vững như tinh thần chiến đấu kiên cường của Người Lính VNCH.

Sau khi không phá vỡ được phòng tuyến Tuyên-Nhơn, Trung-Đoàn E1 của csVN phong tỏa Tuyên-Nhơn bằng một hệ thống phòng không dày đặc và thả thủy lôi trên mọi thủy trình dẫn đến Tuyên-Nhơn. Sự tiếp tế cho Chi-Khu và Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 vô cùng khó khăn.

Tối 29 tháng 4, Tư-Lệnh-Phó Lực-Lượng Trung-Ương – Hải-Quân Đại-Tá Vũ Xuân An – từ Đồng-Tâm, liên lạc được với Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn và ra lệnh Thiếu-Tá Tuấn, bằng mọi cách, phải đưa đơn vị rời Tuyên-Nhơn.

Là một sĩ quan nặng tinh thần kỹ luật, Thiếu-Tá Tuấn triệu tập ngay cuộc họp khẩn cấp. Tất cả sĩ quan chỉ mới tề tựu được mấy phút thì csVN tiến vào và dừng lại cách vòng đai căn cứ Hải-Quân một khoảng ngắn. Hai bên không nổ súng. Thiếu-Tá Tuấn liên lạc, hỏi Đại-Tá An:

-Có đi được không, Commandant? 

Đến lúc đó Đại-Tá Vũ Xuân An mới cho Thiếu-Tá Tuấn biết là đã rã ngũ! Thiếu-Tá Tuấn lại liên lạc với Chỉ-Huy-Phó Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 214.1 – Hải-Quân Thiếu-Tá Phạm Văn Tạo – để được xác nhận.

Hiểu rõ tình hình, Thiếu-Tá Lê-Anh-Tuấn nhân danh Tư-Lệnh Hải-Quân, tuyên bố giải nhiệm những đơn vị Hải-Quân trong vùng trách nhiệm; rồi Ông mở đường máu, đưa đoàn chiến đỉnh về Bến-Lức.

Khi đoàn chiến đỉnh vừa rời nơi đồn trú khoảng một cây số thì bị csVN tấn công. Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận và Giang-Đoàn 64 Tuần-Thám vừa phản công vừa xuôi theo sông Vàm-Cỏ.

Tối 30 tháng 4, khoảng nửa đêm, đoàn giang đỉnh về gần đến kinh Thủ-Thừa, csVN bắn chỉ thiên, gọi đoàn giang đỉnh lại. Để tránh đổ máu, Thiếu-Tá Lê-Anh-Tuấn ra lệnh đoàn chiến đỉnh cứ tiến, không được bắn trả, trừ trường hợp csVN cố tình tiêu diệt mình thì mình mới tự vệ.

Thấy đoàn chiến đỉnh vẫn tiếp tục di chuyển, chiến xa csVN hạ nòng súng bắn trực xạ. Nhiều nhân viên Giang-Đoàn chết và bị thương. Tức tốc, đoàn chiến đỉnh bắn trả.

Khi bắt được tần số truyền tin nội bộ của Hải-Quân, csVN kêu gọi Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn cho chiến đỉnh ủi bãi, lên bờ trình diện. 

Quá phẫn uất, Thiếu-Tá Lê-Anh-Tuấn đưa nòng súng “ru-lô” lên…

Khuya 30 tháng 4, rạng ngày 1 tháng 5 năm 1975, trên sông Vàm-Cỏ-Tây, Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn 43 Ngăn-Chận – Hải-Quân Thiếu-Tá Lê Anh Tuấn – “đi” vào lịch sử!


ĐIỆP MỸ LINH

https://www.diepmylinh.com/

(Trích Hải Quân VNCH Ra Khơi, 1975)


2021/04/22

 ĐÚNG LÀ NHƯ VẬY!

Hôm nay gặp bài viết tựa đề là:
“Sự trở lại của văn học đô thị miền nam”: Đi đâu mà trở lại? của Tuấn Khanh
Bài viết khiến tôi nhớ lại một tình-huống liên-quan trong biến-cố 30 tháng Tư 1975 xảy ra vào lúc tôi đang làm việc tại trường Trung-học Bình-Minh, Vĩnh-Long.
Tôi bàn-giao mọi việc của trường cho người tiếp-quản của chánh-quyền mới tên là "anh" Tư Quản; được biết anh là một giáo-viên từ miền Bắc vượt Trường-Sơn len lỏi vào Nam. Khách-quan mà nói anh cũng "hề hà", không "cách-mạng triệt-để", không trịch-thượng như cán-bộ "Mặt trận Giải-Phóng Miền Nam" mà sau này tôi gặp, làm việc uyển-chuyển thông-cảm dù vẫn quyết-liệt theo nguyên-tắc của Cộng-Sản. Nói không quá lắm thì anh ta có một chút "bản-chất tiểu-tư -sản" phảng-phất trong tư-cách với cây súng Colt sét, hình như không có viên đạn nào trong ổ đạn.
Tôi được "ban" cho chức-vụ "Trưởng-ban Điều-hành" trường trong ba tháng dưới sự chỉ-đạo của anh ta để anh ta có thời-gian làm quen với mọi công việc của trường và sắp xếp lại những gì mà Cộng-Sản chủ-trương.
Có thể nói là "ưu ái" khi anh cho tôi một bàn làm việc kề bên bàn của anh ? Hay là như vậy cho dể dàng ban lệnh và kiểm-soát tôi?
Đến khi một lệnh mang "tính-chất Tần Thủy Hoàng" ban ra để hủy diệt văn-hóa "đồi-trụy, ủy-mỵ" của chính-quyền Mỹ Ngụy, nhà trường phải huy-động giáo-sư <mà bấy giờ phải gọi là giáo-viên hay thầy cô giáo> và học-sinh phải gom góp tất cả sách báo, băng nhạc, hình ảnh đang có để thiêu đốt. Trong không-gian và thời-gian khủng-khiếp ấy tâm-tư của mọi người như vừa tê dại cũng phải xót xa ...
Sau khi hoàn-tất "công-tác tàn-nhẫn" này, thỉnh-thoảng vào trưa tôi thấy anh Tư Quản chăm-chỉ nhìn vào hộc tủ của bàn viết được kéo ra khoảng 2 phần 3 ...từ giờ này qua giờ khác không mệt mõi.
Một hôm vắng mặt anh trong phòng việc, tò mò tôi ... ngó vào hộc tủ của anh xem có gì.....thì khám-phá ra một số văn-hoá-phẩm miền Nam được anh giữ lại và lén đọc, trong đó đa phần là tiểu-thuyết và truyện kiếm-hiệp.
Vậy thì..."văn-học ...đô thị miền Nam" đâu có đi đâu mà vẫn còn nằm lại từ tháng tư 1975, có đúng không?

Xin anh-chi-em cùng đọc:

“Sự trở lại của văn học đô thị miền nam”: Đi đâu mà trở lại?

Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng. Ảnh Tuấn Khanh

Hơn một năm trước, thật may mắn được chứng kiến buổi ngỏ ý của một nhà xuất bản, muốn tái bản lại cuốn Vòng tay học trò của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, một cây viết quen thuộc của độc giả miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Với Nguyễn Thị Hoàng, thì đó rõ là điểm sáng đáng quý trên bầu trời lấp lánh của văn chương tự do miền Nam Việt Nam trước năm 1975.

Thoáng thấy trên Facebook, báo điện tử… những lời chia sẻ với nhà văn Nguyễn Thị Hoàng với cuốn sách Vòng tay học trò được tái bản, cùng sự hào hứng quen gọi tên là tác phẩm thuộc “dòng văn học đô thị miền Nam”.

Nghe đột nhiên chạnh lòng. Nghe “đô thị”, có vẻ như co cụm và không thuộc về nhân dân. Nói như nhà văn Nguyễn Hưng Quốc, nói văn chương “đô thị” miền Nam, thì không sai nhưng thừa. Bởi sự nhấn nhá riêng “đô thị” của miệng lưỡi tuyên truyền là thừa ác ý. Có nơi còn gọi là sự “trở lại”!

Thế nhưng văn chương miền Nam đi đâu mà trở lại?

Toàn bộ chữ nghĩa đã được hình thành, nuôi dưỡng và tồn tại suốt trong hai nền cộng hòa ở miền Nam Việt Nam chỉ có một hành trình duy nhất là đi xuyên qua sự thù hận, chà đạp và hủy diệt… mà dù có đau đớn hay rách nát thế nào, nền văn chương (hay nền văn hóa Cộng hòa miền Nam Việt Nam nói chung) vẫn tiếp tục tồn tại trong một thời đại mới và tỏa sáng với những tư tưởng tự do không kiểm duyệt.

Văn chương miền Nam Việt Nam, tự nó cũng giống như số phận của ông Khai Trí, một người ước mơ đem sách và chữ đến cho dân tộc mình, rồi chính quyền mới, nói tiếng Việt, tịch thu. Gia sản tri thức bị đốt và bản thân ông cũng bị cầm tù. Nhưng câu chuyện Khai Trí và những ấn phẩm của ông vẫn tiếp tục lưu truyền một cách im lặng trong lòng người dân Việt Nam, mà có những giai đoạn phải thầm kín và gìn giữ trong nơm nớp sợ hãi không khác gì những tờ truyền đơn của người Do Thái trong thời Phát xít Đức.

46 năm, suốt thời thống nhất địa lý, văn chương miền Nam Việt Nam (chứ cũng không phải là đô-thị-miền-Nam), trở thành một di sản quý được tìm mua với những giá ngày càng đắt. Hãy thử nghĩ xem, vì sao một tổng tập của nhà thơ Tố Hữu có thể được in ấn tuyệt đẹp, trợ giá bán rẻ vẫn không có sức thu hút bằng một tập thơ mỏng, cũ rách của Nguyên Sa hay Thanh Tâm Tuyền?

“Văn học đô thị miền Nam” – cách gọi bị ám ảnh từ lối tuyên truyền văn hóa của chính quyền mới sau năm 1975 cho đến nay – vẫn ngầm chứa trong đó một sự khinh thị, chỉ để góp vào cái nhìn toàn cảnh cố không công nhận miền Nam Việt Nam là một chính thể. Rất nhiều những tham luận, những nghiên cứu, và cả cuốn sách dày cộp của tác giả Trần Trọng Đăng Đàn “Văn hóa văn nghệ Việt Nam từ 54 đến 75” đều coi văn chương miền Nam là một thứ hỗn độn hình thành từ sự phồn vinh giả tạo của Mỹ-Ngụy.

Báo Nhân Dân số ra ngày 13-9-2016, với bài viết “Ứng xử với văn học miền Nam trước năm 1975” của tác giả Hạnh Nguyễn, còn nói với giọng trịch thượng rằng “bằng sự gạn đục khơi trong, chính quyền cách mạng đã cho phép lưu hành 1.067 cuốn sách tiếng Việt, 562 cuốn sách tiếng Anh, 359 cuốn từ điển bằng tiếng nước ngoài”.

Sự cho phép nó chỉ là một giả định trên đời sống thật. Không có phép thì suốt vài thập niên nay, người miền Nam vẫn ca hát những bài hát không được duyệt, thậm chí còn làm cho nó lan ra đến cả nước. Sách vở không được in, không có phép thì vẫn được chuyền tay nhau, và vẫn được thế hệ mới ngày hôm nay tìm đọc với một sự thích thú về khung trời tự do trong tư tưởng. Cho phép và không cho phép, chỉ là màn trình diễn giả định về luật pháp giữa người dân và chính quyền, nghiễm nhiên tồn tại suốt bấy lâu nay.

Vì vậy, cách nói rằng văn chương đô thị miền Nam “trở lại”, khi có dăm ba cuốn sách cũ tái bản, có vẻ khiên cưỡng trong sự thật lịch sử của một di sản văn hóa vĩ đại của Việt Nam Cộng Hòa.

Nói “trở lại” là giả tạo trong việc mô tả một chính quyền đủ tốt để dung nhận tất cả. Giả tạo như tất cả mọi thứ trong cuộc sống đang là một vòng quay đẹp đẽ theo tự nhiên, nhưng lờ hẳn phần xin lỗi về một giai đoạn mà những nhà văn, nhà thơ miền Nam đã từng bị tù đày, và tác phẩm của họ thì bị đấu tố như kẻ thù của dân tộc.

Trong tiểu luận “Văn học Miền Nam 1954 – 1975: những Khuynh hướng chủ yếu và thành tựu hiện đại hóa” của giáo sư, tiến sĩ Huỳnh Như Phương, mô tả về căn nguyên quan trọng ra đời của nền văn hóa văn nghệ Miền Nam Việt Nam là bởi “nhờ đồng lương và các khoản thu nhập khác, nên một bộ phận công chức và giới trung lưu có thể chi tiêu những khoản tiền vào việc mua sắm theo ý muốn, ngoài các nhu cầu thiết yếu hằng ngày. Chính đây là tiền đề dẫn đến sự hình thành một thị trường văn nghệ ở miền Nam những năm 1954 – 1975”.

Có vẻ sự căn bản hình thành của văn chương miền Nam Việt Nam thực dụng và không được cao quý, theo cách mô tả của tất cả những ngôn luận nhận định từ bên thắng cuộc. Nhưng lại không hiểu vì sao hàng chục năm xây dựng xã hội chủ nghĩa, với những thành tựu xuất chúng, như trên báo chí vẫn nói, xã hội cách mạng hôm nay vẫn reo mừng khi những thứ bị chà đạp ấy quay “trở lại”, như Vòng tay học trò của nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng, và của nhiều trí thức từng bị phủ nhận khác.

Tuấn Khanh

Bình Luận từ Facebook

2021/04/17

 Tài liệu lich sử

    HẢI VẬN HẠM LAM GIANG HQ 402

MỘT HUYỀN THOẠI

HQ%20402  

 

Sau nhiều chuyến chuyển quân và dân từ miền Trung vào, HQ 402 vào tiểu kỳ tại Hải-Quân Công-Xưởng.

Tình trạng kỹ thuật của HQ 402 đáng lẽ phải vào đại kỳ; nhưng vì kế sách của Bộ-Tư-Lệnh đã hoạch định, HQ 402 chỉ được tiểu kỳ.

Vì tình trạng chiến hạm đang sửa chữa, cả Hạm-Trưởng lẫn Hạm-Phó đều vắng mặt. Quân số của HQ 402 chỉ còn khoảng 50 nhân viên, 10 Thiếu-Úy và một sĩ quan cơ khí – Trung-Úy Cao Thế Hùng.

Sáng 30 tháng 4, khoảng 6 giờ 30, lệnh gọi tất cả sĩ quan và nhân viên chiến hạm đang sửa chữa tại Hải-Quân Công-Xưởng tập họp tại Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội. Một sĩ quan cao cấp Hải-Quân tuyên bố rã ngũ.

Từ Bộ-Tư-Lệnh Hạm-Đội trở lại HQ 402, với tư cách sĩ quan thâm niên hiện diện, Trung-Úy Cao Thế Hùng ra lệnh Thiếu-Úy Ninh – sĩ quan an ninh – bắn vỡ ổ khóa phòng Hạm-Trưởng, lấy tiền trong tủ sắt phát cho nhân viên để họ tùy nghi. Nhân viên ngậm ngùi rời chiến hạm, chỉ còn một hạ sĩ, một hạ sĩ nhất, một hạ sĩ quan tiếp liệu, vì nhà xa không về được.

Lúc này nhiều ngàn người đã tuôn vào Hải-Quân Công-Xưởng và tràn lên HQ 402. Sau khi tuyên bố tàu hư không đi được, Trung-Úy Hùng rời chiến hạm, đi về bến Bạch-Đằng.

Tại bến Bạch-Đằng, thấy xe tăng Việt-Cộng đang tiến vào công trường Mê-Linh và nghe nhiều tiếng súng, Trung-Úy Hùng trở lại HQ 402. 

Sau khi trở lại, Trung-Úy Hùng thấy trong số người trên HQ 402 có Trung-Úy Thước, thuộc HQ 402; một số sĩ quan Hải-Quân khóa 19; Thiếu-Úy Hải, cùng ngành với Trung-Úy Hùng và rất nhiều Đại-Tá Bộ-Binh. Tất cả đều yêu cầu Trung-Úy Hùng sửa chữa HQ 402 để di tản.

Biết tình trạng hư hại nặng nề của HQ 402, Trung-Úy Hùng tự nghĩ một mình Ông không thể sửa được; Ông lén trốn lên bờ.Vừa cho chìa khóa vào cổ xe Jeep, Trung-Úy Hùng bị nhiều người kéo lại, đưa trở lại HQ 402.

 

https://dongsongcu.files.wordpress.com/2021/04/huy-hieu-hvh-lam-giang-hq402..jpg?w=436

 

Lần trở lại thứ hai này, Trung-Úy Hùng gặp giáo sư Triết của Ông – Cha Huynh – hiệu trưởng trường trung học Hưng-Đạo Saigon. Trung-Úy Hùng giải thích với Cha Huynh: 24 bình điện của chiến hạm đều hết hơi, cần charge. Mỗi bình rất lớn và nặng. Nếu được đưa lên Hải-Quân Công-Xưởng thì cũng mất khoảng một ngày mới charge được một bình! Thêm nữa, la bàn điện (Gyro Compass) ở đài-chỉ-huy đã bị tháo, đưa lên Hải-Quân Công-Xưởng sửa mấy ngày nay. Trung-Úy Hùng trình với Cha Huynh, với trách nhiệm tinh thần cho cả 2.000 người trên HQ 402, Cha Huynh nên yêu cầu mọi người rời chiến hạm vì chiến hạm bất khiển dụng và Việt-Cộng đang tiến vào ngõ Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân.

Sau khi Cha Huynh thông báo, mọi người đồng lòng ở lại, chết chung với HQ 402!

Trước tình thế như vậy, Trung-Úy Hùng đành phải huy động tất cả đàn ông, thanh niên phụ giúp. Ngại nội tuyến thảy lựu đạn xuống hầm máy, nhiều Đại-Tá phụ trách an ninh. Thanh niên hăng hái di chuyển những máy điện theo lời chỉ dẫn của Trung-Úy Hùng. 

Sau nhiều giờ sửa chữa, một máy tàu nổ, nhưng dầu xịt ra tung tóe. Trung-Úy Hùng bảo mọi người lấy áo quần, khăn trải giường quấn quanh các ống dẫn dầu. Khi máy chính nổ, Trung-Úy Hùng tức tốc cho tắt tất cả hệ thống điện – trừ máy ép gió.

3 giờ chiều cùng ngày, máy tàu chạy êm. Trung-Úy Hùng bảo mọi người lấy tất cả phao trên những chiến hạm bỏ trống, đem sang HQ 402. Trung-Úy Hùng chọn một số thanh niên lực lưỡng – không cần biết họ là Hải-Quân hay không – để lái tàu; nhóm khác sắp hàng một từ đài-chỉ-huy đến hầm máy để chuyền khẩu lệnh.

Sau khi chỉ cho nhóm thanh niên bẻ tay lái sang phải, sang trái, Trung-Úy Hùng chạy lên, chạy xuống đài-chỉ-huy và hầm máy, tìm cách đưa chiến hạm ra sông.

Ra đến sông, Trung-Úy Hùng ra lệnh “tiến 5”. Lệnh được chuyền miệng từ hầm lái lên đài-chỉ-huy cũng mất cả một phút.Không hiểu những “nhân viên vận chuyển (!)” lái như thế nào mà phần sau của HQ 402 đâm vào câu-lạc-bộ-nổi của Hải-Quân! Nước chảy xiết! Trung-Úy Hùng vội thét lên: “phải 5”. Nhóm thanh niên lái tàu vặn tay lái như thế nào mà mũi chiến hạm đâm sang Thủ-Thiêm, làm hư hại một số nhà sàn! Cứ “phải 5”, “trái 5”, HQ 402 quay vòng vòng trước công trường Mê-Linh chứ không chạy thẳng được.

Ngại bị Việt-Cộng bắn, Trung-Úy Hùng bảo mọi người nằm sát xuống sàn chiến hạm, không để Việt-Cộng thấy. Đồng thời Trung-Úy Hùng lấy vạt áo trắng của một người nào đó, bảo mấy ông Hải-Quân cột vào giây cờ, kéo lên.

Trên công trường Mê-Linh, Việt-Cộng tưởng rằng HQ 402 từ xa về cho nên họ đưa tay vẫy chào. Trên chiến hạm, mấy ông Hải-Quân cũng giả vờ vẫy tay reo hò.

Sau gần một tiếng đồng hồ loanh quanh trước công trường Mê-Linh, cuối cùng HQ 402 từ từ “bò” thẳng.

Từ nhà hàng Majestic đến Nhà-Bè, HQ 402 vớt thêm rất nhiều người từ những ghe nhỏ chạy theo hai bên hông tàu.

Khoảng 5 giờ chiều, lúc đến sông Soài Rạp, HQ 402 gặp HQ 601 trở về. Hạm-Trưởng HQ 601, Hải-Quân Đại-Úy Trần Văn Chánh, bảo Trung-Úy Hùng đừng đi ngã Vũng-Tàu, Việt-Cộng chận rồi. Chiếc Việt-Nam Thương-Tín bị bắn lúc sáng.

Đang lúng túng ở ngã ba sông Soài Rạp, Trung-Úy Hùng thấy từng đoàn PBR và rất nhiều loại chiến đỉnh của Lực-Lượng Tuần-Thám, Lực-Lượng Trung-Ương, Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99 và những đơn vị Hải-Quân khác chạy vòng vòng bên Bắc-Cầu-Nổi.

Biết Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99 thuộc quyền chỉ huy của Hải-Quân Đại-Tá Lê Hữu Dõng, Thiếu-Úy Hải trên HQ 402 liên lạc vô tuyến tìm Đại-Tá Dõng, nhờ Đại-Tá Dõng đưa HQ 402 ra biển.

Từ LCM8 Đại-Tá Dõng lên HQ 402. Sau khi xem xét tình trạng HQ 402 và nghe Trung-Úy Hùng trình bày, Đại-Tá Dõng cũng phải lắc đầu, thán phục những người đã có công đưa được HQ 402 đến đây!

Sau khi lái thử, thấy HQ 402 cứ chạy được một chốc lại quay một vòng 30 độ – vì lệnh truyền miệng từ đài-chỉ-huy đến phòng lái mất thời gian tính – Đại-Tá Dõng không dám tự tin vào kinh nghiệm hải vụ của Ông nữa. Lúc này Trung-Úy Hùng lại huy động thêm một toán tác nước, vì nước ngập phòng máy.

Cũng thời điểm này, Phó-Đề-Đốc Nghiêm Văn Phú, bác sĩ Trần Quốc Dũng và rất nhiều quân nhân của các Lực-Lượng Hải-Quân nhập hạm.

Sáng 1 tháng 5, hì hục mãi, Đại-Tá Dõng cũng hướng dẫn HQ 402 ra đến biển. Một Destroyer – thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa Kỳ – thấy HQ 402 chạy một chốc lại quay 30 độ thì biết có sự bất thường. Destroyer này muốn đến yểm trợ HQ 402. Nhưng khi Destroyer vừa đến gần, gặp lúc HQ 402 quay, suýt đụng vào Destroyer,  Destroyer hoảng, kéo còi bỏ chạy!

Bất ngờ mọi người ngạc nhiên thấy sự hiện diện của hai người Mỹ trên HQ 402. Nhiều người Việt uất, vì cho rằng Mỹ bỏ rơi Nam Việt-Nam, muốn giết hai người Mỹ này. Trung-Úy Hùng đưa hai người Mỹ lên phòng, bảo vệ họ. Đại-Tá Dõng nhờ hai người Mỹ này gọi Đệ Thất Hạm-Đội, xin tiếp cứu; nhưng hai người Mỹ này không biết tần số liên lạc của Đệ Thất Hạm-Đội.

Đại-Tá Dõng gọi Phó-Đô-Đốc Cang trình bày tình trạng của HQ 402. Cựu Tư-Lệnh Hạm-Đội, Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Xuân Sơn “lên” máy, bảo Đại-Tá Dõng cố đưa HQ 402 đến càng gần Côn-Sơn càng tốt, sẽ có chiến hạm khác trợ giúp.

Sáng 2 tháng 5, chiếc Destroyer hôm qua trở lại, liên lạc vô tuyến hỏi Đại-Tá Dõng về tình trạng HQ 402. Sau khi nghe Đại-Tá Dõng trình bày, Hạm-Trưởng Destroyer chuyển sang HQ 402 một toán chuyên viên kỹ thuật. 

Sau 20 phút quan sát, toán chuyên viên trình lên Hạm-Trưởng Destroyer. Hạm-Trưởng Destroyer trình lên Đề-Đốc Tư-Lệnh Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ.

Lệnh di chuyển tất cả mọi người rời khỏi HQ 402 được ban hành. HQ 2 được lệnh cặp sát bên hông HQ 402 để đồng bào và quân bạn chuyển sang.

Sau khi kiểm soát, rung chuông nhiều lần mà vẫn không thấy còn ai trên HQ 402, lệnh đánh chìm HQ 402 được thi hành.

3 giờ chiều cùng ngày, hai chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ bắn chìm Hải-Vận-Hạm Lam-Giang HQ 402.

 

ĐIỆP MỸ LINH

https://www.diepmylinh.com/

2021/04/16

VÀI VẬT DỤNG CẦN THIẾT TRONG ĐỜI SỐNG Ở NHÀ QUÊ

Lời mở

Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, trang nhà Thất Sơn Châu Đôc của chị Nguyễn Thị Lộc Tưởng, cảm ơn nhà văn Khiêm Cung –Dương Văn Chung đã phác họa hình cái đáy bắt cá và đặc biệt cảm ơn bạn Thái Lý đã bỏ thời giờ quí báu đi sưu tầm và chụp cho nhiều hình ảnh (chiếm khoảng 96%) cho bài viết này. Nếu không có những hình ảnh của các anh chị và của bạn Thái Lý thì bài viết dưới đây chắc chắn là rất khô khan và vô cùng thiếu sót.

Một lần nữa xin thành thật cảm ơn các anh chị và Thái Lý nhiều lắm.

Trân trọng,

Hai Trầu

Houston-Lấp Vò ngày 27.12.2020

---

Nhắc tới nhà quê ở miền Tây là nhắc tới những làng mạc nằm dọc theo các kinh rạch chằng chịt với hình ảnh các cây cầu khỉ, cầu ván nằm rải rác khắp mọi nơi; đồng thời nhắc đến đời sống ở nhà quê vùng sông nước này cách nay sáu bảy chục năm, tức là nhắc tới đời sống nông nghiệp nên không thể không nhắc tới những dụng cụ cùng các vật dụng cần thiết mà mỗi nhà đều phải có dù ít hay nhiều tùy theo công việc đồng áng cùng điều kiện tài chánh gia mỗi đình mà dân quê cần mua sắm để có mà dùng tùy theo mỗi vụ mùa; mà ở nhà quê lại có rất nhiều mùa (*) nên việc nhắc lại các vật dụng cần thiết ngày trước mà ngày nay ít người còn nhớ qua những ký ức nghèo nàn của một người nhà quê già có lẽ là một việc cũng nên khuyến khích…



I/ Lu hũ khạp…

Trước nhứt, là việc nước nôi cần trong đời sống mỗi ngày. Mặc dù làng mạc miền Nam, làng nào cũng nằm cặp theo các dòng sông rạch nên nước sát bên bến sông nhưng bạn cũng cần phải có những dụng cụ để chứa nước dùng trong việc nấu nướng, ăn uống hoặc tắm giặt. Do vậy mà dân quê cần có những lu hũ, những ảng, những khạp để chứa nước. Rồi hồi xưa làm gì có máy bơm để bơm nước lên chứa trong các lu khạp ấy, do vậy mà dân quê mới chế ra cách đan những chiếc gàu bằng tre, rồi trét chay lên những chiếc gàu ấy vừa để nước không bị chảy ra mỗi khi dùng gàu gánh nước vừa để chiếc gàu được dùng lâu mà không bị hư hao. Gàu thì phải có cặp, có đôi, và phải gánh đôi gàu lên vai mà gánh nước từ dưới sông lên nhà; từ đó có thêm cái đòn gánh làm bằng tre cật, mỏng, cứng chắc lấy từ gốc tre già làm đòn gánh. Nước gánh lên nhà ở nhà quê chứa vào các lu khạp này, rồi lóng phèn chua nhằm làm cho bùn lắng xuống để nước trong mà dùng.

Trong các lu chứa nước, thì cái lu nước uống ngay mái hiên mỗi nhà từ ngoài sân bước vào, thường nhà nào cũng dùng cái kiệu còn gọi là cái ché để đựng nước. Cái kiệu màu da lươn, gần miệng kiệu có đắp hình con rồng cho có vẻ vừa đẹp vừa thanh bai, sạch sẽ. Ở gần đáy kiệu hơi tóp lại, gần miệng kiệu phình ra và miệng kiệu thì hơi túm lại một chút. Trên miệng kiệu có nắp bằng thiết hoặc bằng ván để đậy miệng kiệu hầu tránh bụi bặm và có một cái gáo dừa hoặc có cái ca bằng nhôm úp lên nắp kiệu để múc nước.

Tiếp đến là các loại lu lớn, lu nhỏ dùng chứa nước hoặc đựng muối mắm trong nhà. Lu lớn chứa cỡ ba giạ trở lên gọi là mái để phân biệt với lu nhỏ. Những loại lu gọi là mái này có hai loại là mái đầm và mái vú. Mái vú là loại lu có sức chứa khoảng từ ba giạ lúa hột trở lên, các lò sản xuất có đấp thêm bốn cái núm gần miệng lu để dễ nắm, để vịn vào khi di chuyển. Loại mái đầm là loại lu lớn nhưng không có núm như mái vú và thấp hơn. Các vùng nước mặn hoặc vủng nước pha chè miệt gần biển người ta dùng các loại lu lớn này để chứa nước mưa vì nó chứa được nhiều nước. Các vùng khác, nhứt là các vùng nước ngọt người ta không cần chứa nước nhiều như các vùng miệt nước mặn nên mái đầm, mái vú được sử dụng trong việc chứa lúa giống, giú chuối hoặc dùng để đựng mắm; nhứt là các vùng Mặc Cần Dưng, Cầu Số Năm, Vĩnh Hanh, Cần Đăng, Trà Kiết, Định Mỹ, Ba Bần, Phú Hòa thuộc Long Xuyên hoặc các vùng An Phú, Tịnh Biên, Tri Tôn, Tân Châu thuộc Châu Đốc người ta dùng các loại lu lớn này để làm mắm vì các vùng vừa kể tới mùa tát đìa, tát mương, làm lóng cá đen, cá đồng rất nhiều, lu khạp nhỏ chứa mắm hổng đủ.

Khạp da bò là loại lu có màu da bò, trơn láng, miệng và đáy tương đối gần bằng nhau, đường kính của miệng khạp khoảng 8 tấc tây, bề cao cũng khoảng chừng cao hơn đầu gối. Mỗi khạp đều có nắp đậy. Các loại khạp này có lúc dùng chứa nước nhưng thông dụng nhứt ở các vùng có cá linh người ta dùng khạp da bò để ủ nước mắm cá linh vào mùa cá ra sông vào tháng 10, tháng 11 âm lịch. Mỗi khạp da bò có thể ủ được một giạ rưỡi cá linh tươi mới bắt lên khỏi mặt nước. Với số lượng cá như vậy, tùy theo kinh nghiệm mỗi người mà dùng lượng muối cho vừa nước vừa cái; thông thường trung bình là năm lít muối cho một khạp ủ 1 giạ rưỡi cá linh thì nước mắm ngon; nếu quá lượng muối này thì nước mắm bị mặn hoặc lượng muối ít hơn thì mắm bị trở, bị hư. Cách ủ mắm thì cứ một lớp cá, rải một lớp muối và cứ rải đều như vậy, đậy nắp kín, để ngoài nắng, sau khoảng ba tháng mở nắp ra xem thấy mắm có mùi thơm là có thể múc mắm ra nồi nấu cho nước mắm sôi lên, để nguội và múc mắm trong nồi đổ vào cái rổ thưa có trải khăn lượt để lượt nước mắm. Nước mắm mới lượt này gọi là nước nước mắm nhứt, nước mắm nguyên chất, rất thơm và ngon. Để tiết kiệm, người ta đổ nước thêm và nấu xác mắm vừa lượt xong nầy thêm một lần nữa và khi nồi nước mắm này sôi cũng múc ra rổ lượt như lần trước gọi là nước mắm nhì; tuy nước mắm nhì nhưng hồi đó ở nhà quê bà con vẫn thấy nước mắm nhì còn rất ngon dùng để kho cá, kho thịt còn tốt hơn ngày nay dùng nước mắm đựng trong chai bán ở các chợ… thiếu hẳn chất cá nguyên chất.

Tiếp nữa, còn có những lu nhỏ hình ống, miệng và đáy lu có đường kính cỡ ba tấc và có sức chứa khoảng 20 lít, da lu màu sậm, thường dùng để đựng đường mía ở các lò đường hoặc chứa mắm muối dùng trong nhà; loại lu nhỏ này được gọi là hũ như hũ đường, hũ mắm. Còn cái ảng là một dụng cụ bằng sành, đáy lớn, miệng rộng, chiều cao khoảng khỏi đầu gối, dùng để chứa nước đặt tại các cầu tắm giặt nơi ao hồ hoặc các bến sông trước nhà để tiện múc nước chứa và tiện dụng luôn thể. Hồi đời trước vào mùa hè trời oi bức thường hay có các dịch bịnh, ở nhà quê người ta dùng các ảng miệng lớn này pha nước vôi để trẻ nhỏ tắm khỏi bị bịnh.

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc bên kiệu đưng nước uống ở Bình Quới (Sài Gòn) [Trang nhà Bs Đỗ Hồng Ngọc  ngày 20.11.2020]

II/ Vật dụng trong nhà

Vì đời sống ở nhà quê là đời sống nông nghiệp mang tính tự túc, tự lực; nên hồi đời xưa mỗi nhà tự xay lúa lấy gạo để nấu ăn nên nhà nào cũng phải sắm một cái cối xay lúa. Cối xay lúa thường thường làm bằng tre và xảm đất sét cho cái cối có trọng lượng khá nặng để khi mình đẩy giằng xaythì sức nặng ấy ma sát vỏ lúa và làm tróc mấy vỏ lúa này, gọi là trấu. Mỗi cối xay lúa gồm có hai thớt. Thớt dưới cố đinh, thớt trên xoay quanh một cái trục có chiều cao chừng năm phân tây, trục cố định này có tên gọi là ngỗng cối. Thớt trên có hai tai cối đối xứng nhau và mỗi tai cối có lỗ tròn để khi xay lúa mình máng cái giằng xay vô cái lỗ tròn này để xay lúa. Cái giằng xay hình chữ T (còn gọi cần xay hay cán cối xay dài), nơi đầu giằng xay có hình ngang chữ T được buộc lên đòn tay nhà, hoặc trính nhà hay buộc lên nhánh cây lớn vững chắc; còn đầu giằng xay kia cúp xuống thành góc vuông làm thế nào để giằng xay ở thế cân bằng khi nằm ngang; ở đầu này có gắn một khúc sắt nhỏ dài cỡ một tấc được đặt vô một trong hai cái lổ tròn chỗ hai tai cối xay. Thế rồi, muốn xay lúa người ta đổ lúa vô cối xay và đứng ở cuối giằng xay và bắt đầu đẩy giằng xay theo chiều kim đồng hồ; khi cối được chuyển động như vậy thì hột lúa bắt đầu được rút xuống và hai thớt cối với các răng cối ngược chiều nhau làm vỏ lúa từ từ trốc ra và còn lại hột gạo theo các kẽ của răng cối đẩy ra chiếc đệm lót sẵn dưới đáy cối để hứng gạo. Xay hết cối lúa này người ta đổ thêm lúa vào và xay tiếp cối lúa khác cho đến khi nào số lúa mình muốn xay đã xay xong thì thôi. Muốn xay lúa cho khỏe, thường có hai hoặc ba người luân phiên nhau để đẩy giằng xay hầu tránh bớt việc mỏi tay. Sau khi xay lúa xong, người ta phải dê bỏ vỏ trấu còn sót để lấy gạo. Các công đoạn xay lúa, dê trấu đều dùng đệm bàng để hứng gạo và trấu thì do gió hoặc dùng chiếu để quạt gió khi dê, cho nên trấu bay ra ngoài trên mặt đất. Sau khi dê trấu và bụi bặm bay hết rồi, lúc bấy giờ chỉ còn lại gạo và gạo này dân quê gọi là gạo lứt vì hột gạo còn lớp vỏ mỏng sậm chưa tróc nên ở nhà quê phải giã gạo này cho tróc vỏ lứt để thành gạo trắng. Sau này, mấy năm cuối thập niên 1940 các vùng Bình Hòa (Long Xuyên), Lấp Vò (Sa Đéc) và nhiều vùng khác mỗi nơi đều có nhà máy xay lúa với ống khói cao khỏi nóc nhà nên việc xay lúa lấy gạo đỡ cực hơn hồi trước nhiều nhưng gạo xay tay thì ngon cơm hơn.

Trong việc giã gạo thì có cối giã gạo làm bằng cây, thường thường người ta lựa khúc cây lớn rồi đục bỏ cái ruột cây để làm cối giã gạo bằng chày vồ; loại cối này vừa nặng, vừa bền ít khi bị bể hoặc xứt mẻ. Ngày xưa người ta thường giã gạo chày đôi, tức hai người đứng đối diện hai bên cối giã gạo, mỗi người cầm một cái chày, người này giã chày xuống và vừa lấy chày lên thì người kia tiếp theo quết chày xuống và cứ tuần tự như vậy mà không bị quết trúng lẫn nhau cho tới khi nào cối gạo được giã trắng thì thôi. Có trường hợp những đêm trăng sáng tụ họp vui chơi có thêm người thứ ba nữa, các động tác quết chày xuống và lấy chày lên cũng luân phiên liên tục như vậy, người ta gọi là giã gạo chày ba. Để cho vui, những đêm trăng ở nhà quê cùng nhau giã gạo vui lắm! 

Gạo giã tùy theo mình muốn giã trắng thì giã hơi lâu và nặng tay một chút, còn muốn giã lứt thì giã nhẹ tay hơn để lớp cám mỏng còn dính lại chút ít nơi hột gạo; sau khi giã gạo xong là tới màn sàng gạo để loại các loại tấm cám ra và chỉ còn lại gạo trộng. Muốn sàng gạo như vậy, trước tiên phải sắm cái sàng. Sàng được đan bằng trúc hoặc tre mà các rẻ tre trúc này phải được chẻ mỏng và chuốt cho bóng láng. Có hai loại sàng: sàng thưa và sàng dày. Sàng thưa để bắt thóc, và sàng dày để bắt tấm. Cử động khi muốn sàng bắt thóc hay bắt tấm người ta cầm cái sàng bằng hai tay và cứ xoay cái sàng nửa vòng tròn qua tay mặt rồi qua trở qua tay trái một cách uyển chuyển, nhẹ nhàng và cứ lắc như vậy cho tới khi thấy trên sàng còn lại gạo nguyên hột gọi là gạo trộng. Hết sàng này bắt đầu trúc gạo vô thúng và sàng tiếp cho tới khi nào xong thì thôi.

Thường thường khi muốn sàng gạo người trả trải dưới đất một chiếc đệm bàng để hứng tấm hoặc cám; nhưng có khi người ta không dùng đệm mà lại dùng cái nia hứng bên dưới, vậy nên trong nhà phải sắm thêm cái nia. Cái nia được đan ( còn gọi là đương) bằng tre hay trúc, đáy nia cạn, có vành cứng, đường kính chừng 8 tấc đến một thước tây hoặc lớn hơn tùy ý thích của mỗi người. Thường thường nia, rổ, sàng do chính chủ nhà chẻ tre trúc để đan, nhưng có người cũng ra chợ mua các dụng cụ này; những loại rổ, sàng, nia mua ở chợ dân quê gọi là “đồ hàng” tức là những đồ vật làm sẵn, mau hư, không bền như mình tự làm lấy. Vì dùng nia hứng tấm cám nên trong dân gian có tục ngữ “Lọt sàng xuống nia” là do vậy.

Ngoài cối xay lúa, nhà quê còn sắm thêm cối xay bột bằng đá. Cối có hai thớt, thớt trên và thớt dưới; miệt núi Sập, núi Ba Thê thuộc Long Xuyên chuyên sản xuất loại cối xay bột bằng đá này.

Ngoài ra, trong nhà bếp còn có thêm nhiều cái rế để lót nồi trách cho khỏi dính lọ vì ở nhà quê nấu ăn bằng củi nên nồi có nhiều lọ dính bên ngoài. Rế thường thường đan bằng tre hoặc trúc. Ở nhà quê người ta tự chẻ tre hoặc trúc để đan rế dùng trong nhà, nhưng có người cũng ra các tiệm bán rế đan sẵn mà mua về dùng để lót đáy nồi.

Về củi chụm trong bếp có hai loại củi tiêu biểu ở nhà quê là củi tre và củi săn. Củi tre là các nhánh tre được chặt ra rồi phơi khô bó lại thành từng bó để dùng trong việc nấu nướng; dân gian có câu tục ngữ “củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ xài”; còn một loại nữa là các nhánh cây săn chắc được cưa thành từng khúc rồi bửa ra đem phơi khô, bó lại thành từng bó rồi chất vào thành từng cự để dùng trong việc nấu nướng; loại củi này dân quê gọi chung là củi săn. Những loại cây ở nhà quê ưa làm củi săn gồm các nhánh cây trồng trong vườn hoặc mọc hoang ngoài bờ mương, vườn tre như cây bần, cây gáo, nhánh sao, nhánh dầu, cây bằng lăng, cây mù u, nhánh xoài, cây me nước…, cây nào cũng có nhưng nếu các loại cây nhánh ấy trước khi muốn làm củi mà được ngâm trong nước dưới mương, dưới ao cá hoặc dưới hầm một thời gian rồi mới vớt lên làm củi thì củi cháy rất tốt, dân quê gọi cháy rất “đượm”. Các nhánh chà người ta chất trên sông, sau khi mãn mùa chà nếu đem số chà này làm củi thì hết sẩy! Lửa cháy đượm lắm, hổng có khói!

Tóm lại, vì cần phải cưa cây, bửa củi nên trong nhà phải sắm thêm cây cưa và vài cái búa nữa. Cưa thì có cưa tay; búa thì có búa nhỏ bửa củi, búa tài-xồi (ở nhà quê còn gọi là “búa kinh”) tức là loại búa lưỡi lớn, cán dài, phải đứng cầm búa mới bửa những khúc củi lớn ra thành những miếng củi vừa phải; rồi dùng búa nhỏ vừa với tay cầm để chẻ những miếng củi này ra từng miếng củi nhỏ để dễ chụm trong cà rang.

Ở nhà quê có cái vui là trước khi có đám tiệc lớn như đám giỗ hằng năm hoặc sắp có đám hỏi, đám cưới người ta chuẩn bị cưa cây hoặc mé nhánh cây sao, cây dầu rồi đem ngâm nước cho rụng hết lá rồi vớt lên chặt ra làm củi để chụm lửa trong việc nấu nướng đám tiệc. Hồi đời trước có tục đi làm rể; tức là sau khi chàng trai đi hỏi vợ rồi, chờ tới ngày làm lễ cưới có khi vài ba năm mới làm đám cưới được vì chờ ngày tháng cho hạp, thì chàng rể tương lai phải qua nhà gái làm rể; nhứt là mấy tháng gần tới ngày cưới, chàng rể tương lại phải ở lại nhà gái làm những công việc như tiếp bửa củi lo đám cưới, tiếp che nhà khách vân.vân… Có nhiều nhà gái có ý muốn thử sức chàng rể bèn đem những gốc bằng lăng, gốc sao, gốc mù u là các loại gốc cây rất dẻo nên rất khó bửa để cho chàng rể thử bửa làm củi. Sau khi cưới được vợ về rồi sau này có con cháu đầy đàn trong lúc gia đình họp mặt vui vẻ người ta mới ngồi nhắc lại chuyện đời xưa ba đi làm rể bên ông bà ngoại bửa củi gần chết rồi cùng nhau cười rất vui và hổng có trách móc gì.

Thêm nữa, trong bếp lúc nào cũng có vài ba cây chổi để quét nhà. Có hai loại chổi mà ở nhà quê ưa dùng là chổi tàu cau và chổi ráng. Chổi tàu cau người ta lấy tàu cau khô trong vườn rụng xuống rồi đem tước bỏ các lá mỏng đi chỉ chừa cái cọng cứng thôi và kết nhiều tàu cau lại để làm chổi. Chổi ráng là lọai chổi làm bằng cây ráng; loại cây ráng này mọc hoang trong các vùng rừng tràm hoặc vùng nước mặn, lá dày, thân cứng; sau khi chặt ráng về người ta phơi khô và ép cho lá ráng cùng nằm một chiếu và bó lại nhiều nhánh ráng như vậy làm thành chổi. Miệt Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc không có cây ráng, nên các miệt dưới như Cà Mau, Rach Giá ghe buôn ưa chở loại chổi ráng này lên miệt trên để bán cho cư dân ở đây mua về dùng rất tiện và bền. Ngoài hai loại chổi tàu cau và chổi ráng, mấy năm sau này còn có loại chổ bông cỏ, ngọn chổi mềm, mịn thường dùng để quét các nhà có lót gạch tàu, gạch bông rất tiện.

Nói tới bếp núc mà không nhắc nồi trách thì còn thiếu. Dường như nhà nào cũng có một cái giàn bếp đắp bằng đất hoặc xi măng trên cái khuông bằng gốc tre hoặc bằng cây gỗ, cao cỡ chừng một thước tới 1thước 2, trên đó để được khoảng ba bốn cái cà rang hoặc vài cái lò; loại cà rang và lò làm bằng đất nung ngoài Phú Quốc (Rạch Giá) thì xài rất bền, lâu bể và có ghe buôn họ chở loại cà ràng này vô bán khắp các làng mạc vùng này. Thêm nữa nhà nào cũng có đủ thứ nồi bằng đất như nồi đất nhỏ dùng nấu cơm; nồi đất lớn hơi túm miệng, đáy bầu, hông phình, nhỏ hơn cái trã dùng hấp bánh gọi là cái trách; còn cái trã là cái trách lớn, là thứ nồi tròn bằng đất nung, đáy bầu, hông phình rộng ra, miệng trã lận vành chắc chắn có ý cho khi mình nhắc cái nồi lên xuống bếp dễ dàng và không bị xứt bể, thường dùng để nấu bắp, hấp bánh tét, bánh ú, hoặc nấu nếp quết bánh phồng dịp Tết nhứt. Ngoài ra còn có cái mẻ để kho cá. Hồi xưa, ngoài những nồi trách bằng đất, đời cố cựu còn có loại nồi đồng, mâm thau; rồi sau này mấy năm 1950 có các loại nồi nhôm, mâm nhôm, rồi tới thời kỳ có nồi làm bằng gang (gang là loại sắt có từ 2,5%  đến 6% các-bon, giòn và cứng hơn sắt) … nhưng hổng có nồi nào nấu cơm ngon cho bằng nồi đất nấu cơm gạo lúa mới và mẻ cá kho khô bỏ thêm vài chùm tiêu non đăm nhuyễn, mẻ cá kho vừa thơm vừa ngon hơn nữa! Gặp lúc bụng đói là ăn cơm hết nồi luôn!

Ở nhà quê do nhà nào cũng làm ruộng nên ở dân quê phải có thúng dê, thúng giạ, thúng dê đong, thúng giạ đong, thúng giạ rưỡi. Thúng dê là loại thúng nhỏ dùng để dê lúa; thúng dê đong là loại thúng dùng để xúc lúa vừa đủ 20 lít mỗi khi cần bán lúa người ta dùng thúng này để đong lúa bán bằng thùng hay bằng táu 20 lít. Còn thúng giạ là loại thúng đựng được từ một giạ lúa trở lên; thúng giạ đong là thúng dùng xúc lúa để đong bán cho bạn hàng (loại thúng này gọn nhẹ, khi xúc đầy thúng lúa để đổ vào cái giạ 40 lít khi đong lúa bán thì vừa đủ 1 giạ, hoặc dư chút ít, chứ không dư nhiều như thúng giạ thường, nên gọi là thúng giạ đong); thúng giạ rưỡi là thúng chứa được 1giạ rưỡi lúa hột. Hồi đời trước bán lúa tính bằng giạ nên các nhà có ruộng nhiều cỡ vài ba mẫu tới vài chục mẫu thường sắm thêm cái giạ lít, vừa đúng 40 lít, để đong lúa bán; ngoài ra còn sắm thêm cái táu nhỏ (còn gọi cái thùng) đựng được 20 lít, bằng nửa giạ; rồi có thêm cái lít để khi cần đong gạo, đong cám, đong đậu; một lít như vậy bằng 4 lon sữa bò hiệu con chim hồi đó hoặc hiệu ông thọ sau này! 

Về vật dụng trong nhà cũng không thể thiếu các loại rổ thưa, rổ dày để tiện dụng tùy theo từng công việc. Rồi thêm nhà nào trồng nhiều xoài phải có thêm vài ba cái lồng làm bằng ngọn tre xiêm, tre bông dùng để bẻ xoài; có cần xé đựng xoài; cần xé thì có cần xé đít vuông, cần xé đít bầu và hơi tròn ở bên hông, và nhiều thứ lặt vặt khác nữa…. 

Có thêm cái rổ lớn gọi là rổ xúc, vành rổ cứng, đường kính cỡ 8 tấc, đáy sâu cỡ 4 hoặc 5 tấc tây, thường dùng để xúc lùm chỗ nước sâu; và cái sịa bằng tre (viêt với chữ “s”), lỗ sịa nhỏ, đáy cạn, đường kính từ 1 thước tây trở lên dùng để xúc tép chỗ nước cạn hoặc phơi cau khô, chuối khô và còn nhiều lắm, kể hổng xiết! 

Tóm lại, việc nào vật nấy, dân quê cố gắng sắm sửa sao cho vừa túi tiền để có vật dụng đủ dùng trong nhà khi cần để đỡ phải mất công cái gì cũng chạy đi mượn ở hàng xóm láng giềng là rất mừng. 

Vài hình ảnh tiêu tiêu biểu:

III/ Vật dụng làm vườn, làm ruộng

Ở nhà quê nhà nào cũng có chút vườn, không nhiều thì ít nên nhà nào cũng sắm vài dụng cụ cần thiết để làm công việc trồng trọt, ruộng vườn này. Trước nhứt muốn lập vườn phải có cái len để đào đất. Có hai loại len: Len miểng và len thùng. Len miểng đào đất khô trên vườn; len thùng vít đất bùn dưới mương, dưới rạch bơi lên bờ chứa ở một góc nào cho đất bùn khô lại và khi đất khô lấy đất này bồi bổ mấy gốc cây ăn trái trong vườn, vì vậy, người ta còn phải sắm thêm đôi ki đan bằng tre để gánh đất hoặc phải sắm thêm cái xuổng để bứng cây con hoặc để dùng đào chuột. Xuổng thì có loại lưỡi rời bằng sắt, người ta mua về từ chợ hoặc đặt ở lò rèn họ rèn rồi đem tra cán bằng cây săn chuốt bóng để khi cầm cái xuổng không bị phồng tay; có khi người ta dùng nguyên ống sắt tròn, dài cỡ tám tấc hoặc một thước rồi nhờ lò rèn chẻ ra một đầu rèn thành cái lưỡi xuổng và cán xuổng là phần ống sắt còn lại, rất tiện lợi.

Việc ruộng nương rẫy bái cần thêm các dụng cụ như cái cày, cái bừa để cày phá đất, cái trục để trục đất; cái bừa thì có hai loại là bừa răng và bừa muỗng; bừa răng với răng bừa nhọn làm bằng cây hoặc bằng sắt; bừa muỗng với răng bừa bằng sắt có hình dáng như cái muỗng. Hồi đời trước nhà nào cũng có nuôi trâu bò để làm ruộng thì có thêm các vật dụng để nuôi bò như cất chuồng bò để bò ở tránh mưa tránh nắng; còn trâu thì không cần chuồng cứ có gò cao cho trâu nghỉ chưn nằm ngủ và có hầm cho trâu nằm tránh muỗi chích là được;  có thêm dây dàm (viết với chữ “d”) để cột bò trâu; có cộ trâu, cộ bò để gom lúa bông về sân; có xe trâu, xe bò để kéo lúa hột từ trên đồng về nhà; có mỏ xải (dân quê đọc trại thành “mỏ sảy”) để vít rơm, làm bã lúa khi bò trâu vừa đạp xong một bã lúa ra lúa hột; có cái bừa cào (dân quê gọi trại là “bồ cào”) để cào rơm, cào cỏ; có lưỡi hái để căt lúa, cắt cỏ bò; có cái phãng để phát cỏ (phãng có nhiều loại như phãng cổ cò có cái chuôi eo lại dùng phát ruộng sâu; phãng gai loại phãng hơi ngắn dùng để chặt bố; phãng giò nai là loại phãng có cái chuôi dài dùng để phát ruộng khô hoặc ruộng cạn đều được); có cù ngoèo (đọc trại là cù nèo, cù ngoéo) dùng để vừa kéo cỏ gom lại để phát cỏ cho dễ mà cũng vừa để đỡ lưỡi phãng không bị trượt trúng vô chưn, vô giò; có vài cái chét đễ dành giẫy cỏ sân lúa, cỏ vườn, cỏ rẫy bắp, rẫy đậu... Ngoài ra, còn có thêm cái cuốc để cuốc đất vô chưn mía hoặc cuốc đất lên giồng trồng khoai lang; cuốc thì có cuốc tai tượng là thông dụng vì nó bén và hơi bủm (hơi trũng lòng) nên xúc đất được nhiều; sở dĩ gọi cuốc tai tượng vì lưỡi cuốc có bề mặt lớn cúp vô giống như lổ tai voi; bên cạnh có có cái cúp với lưỡi cúp thẳng để xới đất cục cho nhỏ ra.

Vài hình ảnh tiêu tiêu biểu:

IV/ Vật dụng chuyên chở, đi lại

Ở nhà quê vì là miền sông rạch chằng chịt nên phương tiện đi lại thông dụng đời xưa là xuồng bộng, ghe cộ. Xuồng thì có nhiều loại xuồng và bơi xuồng bằng giằm (viết với chữ “gi”, hổng phải “dằm”). Chẳng hạn như xuồng nhỏ thì có xuồng ba lá, xuồng câu, xuồng lườn (là loại xuồng người ta dùng nguyên một khúc cây và đục bỏ cái ruột cây đi, có mũi và lái thon nhọn, nhẹ bơi, lướt nhanh trên mặt nước); xuồng cui thì mũi và lái hơi cao lên, nặng chở dùng để chở lúa, chở vật nặng. Ghe thì có ghe tam bản, ghe cà-vom, ghe cui với mũi và lái gần bằng nhau, ghe đục tiện cho việc chuyên chở cá từ nơi này đi nơi khác mà cá vẫn còn sống vì nhờ hai bên hông ghe có đục lỗ cho nước ra vô thông thương tự nhiên với hai đầu mũi ghe và lái ghe thì có hai tấm bửng ngăn cho nước không vô được và nhờ vậy mà ghe lúc nào cũng nổi trên mặt nước như cái phao, không bị chìm. Miệt Châu Đốc còn có ghe lườn, ghe mui lón; hồi đời xưa nhiều nhà giàu có như điền chủ thường có ghe hầu, tức là loại ghe tam bản nhưng có mui dài từ trước ra sau được chạm trỗ, sơn phết chim cho đẹp để khi cần các chủ điền nay dùng loại ghe hầu này đi du ngoạn. 

Nguyên tắc, khi đi xuồng trên sông thì bơi bằng cây giằm, một người bơi lái, một người bơi mũi; nếu là hai vợ chồng cùng đi trên một chiếc xuồng thì vợ thường thường ngồi bơi lái, chồng bơi mũi. Người biết chuyện, ít có ai để vợ bơi mũi. Khi đi trên đồng lúa vào mùa nước ngập thì xuồng được chống bằng cây sào vì nếu bơi thì vướng lúa, xuồng đi rất chậm. Cây sào chống xuồng được làm bằng cây tầm vông phơi khô và uốn cho thẳng, láng để khi cầm sào chống tay mình không bị phồng. Còn ghe thì không bơi được mà phải chèo vì be ghe nổi lên cao, cách mặt nước rất xa. Tùy theo ghe lớn hoặc ghe nhỏ mà ở mũi ghe có một một chèo và ở phía đằng cuối chiếc ghe có hai cột chèo. Ngoài ra vì ghe lớn nên việc đi trong sông rạch gặp nhiều trở ngại nên trên ghe lúc nào cũng có vài cây sào để phòng hờ khi cần có sào để chống đỡ cho khỏi bị va chạm hoặc đụng vô đầu cầu hay những xuồng ghe khác, nhứt là lúc tấp vô đậu nơi các bến chợ đông đúc dễ bị va chạm với nhiều xuồng ghe khác. Tục ngữ có câu“Đứng mũi chịu sào”. 

Trường hợp ghe xuồng muốn đi xa, từ tỉnh này qua tỉnh khác, thì có tàu kéo ghe đường dài chừng nào muốn đi mình xin giòng ghe theo họ và trả tiền công. Nhiều lúc có nhiều tàu kéo một đoàn ghe xuồng dài có tới cả mấy trăm chiếc buộc dây nối đuôi nhau như vậy. Tới mùa cắt lúa, công cắt từ các tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh muốn lên miệt Long xuyên, Châu Đốc lãnh công cắt lúa mướn, các bà con này luôn luôn phải giòng ghe xuồng theo các đoàn tàu kéo này; đến lúc mãn mùa cắt lúa, bà con từ từ bơi xuồng hoặc chèo ghe chở theo đầy lúa hột về nhà, mà trong bụng mừng vui dữ lắm vì được mùa cắt lúa trúng! Sau này, khi có máy đuôi tôm đặt sau lái ghe thì người ta mua máy gắn sau lái đi đây đi đó đỡ phải chèo ghe mỏi mệt, mà lại đi nhanh nữa

Khoảng cuối thập niên 1950, ở Rạch Giá có kiểu xuồng ghe nhỏ, đít bằng, mũi hơi thon và cất cao lên được gọi là ghe tắc ráng; loại ghe này gắn máy đuôi tôm ghe chạy lướt trên mặt nước rất nhanh nhờ mũi ghe cơi lên khỏi mặt nước; lúc bấy giờ ghe chạy nhanh như rắn lãi chạy và dân quê đặt tên cho loại ghe này “vỏ lãi”.

Tới thời kỳ cơ giới hóa nông nghiệp với máy cày, máy suốt lúa thịnh hành, để chở những chiếc máy này với sức nặng có tới cả mấy tấn, các trại đóng xuồng ghe nghĩ chế ra cách đóng các chiếc trẹt với be ván rất dày, bề ngang rộng bề dài vừa với chiều dài các chiếc máy cày, máy suốt với bề đáy cạn và di chuyên qua các kinh rạch rất thuận tiện. Ngoai việc vận chuyển máy móc như vừa kể, trẹt còn được dùng để đưa đò ngang qua sông rất thuận lợi vì chở được nhiều người như đưa rước khách bộ hành, đưa học trò qua sông đi học , mà chiếc trẹt nó cũng vững vàng nữa vì cái đáy nó bằng và lớn nên không bị lắc qua lắc lại như ghe nhỏ và nếu bến sông rộng có thể gắn máy đuôi tôm để chạy qua chạy lại mỗi chuyến cho nhanh. Hồi đời trước, ở nhà quê có sắm xe đạp để làm phương tiện đi lại trong làng, tới đầu thập niên 1950 có xe gắn máy, xe mô tô nhưng cũng ít nhà có sắm xe gắn máy; mãi tới thập niên 1960-1970 thì xe gắn máy hiệu Honda của Nhựt rất thịnh hành.

Vài hình ảnh tiêu tiêu biểu:

V/ Vật dụng bắt cá tôm

Ở nhà quê mà lại là nhà quê miền sông rạch nhiều, mùa nước lên thì đồng ruộng mênh mông nước ôi thôi là nước nên cá tôm nhiều lắm; thành ra sống ở nhà quê nhà nào cũng sắm một ít dụng cụ giăng bắt cá tôm để làm thức ăn trong gia đình mỗi ngày; nếu có dư còn có thể mang ra chợ bán để thêm chút tiền mua dầu lửa, mua mắm muối…

Trước nhứt là các loại câu giăng, câu cắm, câu thả. Câu giăng thì nhà nào cũng có năm ba gắp câu giăng, mỗi gắp khoảng 100 lưỡi. Có hai loại lưỡi câu thông dụng đó là lưỡi câu uốn và lưỡi câu đúc. Lưỡi câu uốn người ta dùng dây kẻm nhỏ hoặc vừa để uốn lưỡi câu; sở dĩ người ta dùng dây kẻm vì dây kẻm cứng mà chắc, khi cá dính câu ít bị hoác, còn dây chì thì mềm nên khi gặp cá lóc lớn ăn câu câu dễ bị hoác và khi lưỡi câu mà bị hoác như vậy cá sẽ sẩy. Ở gần chợ Cái Sao (Long Xuyên) có cả một dãy chòi bên lề đường liên tỉnh số 9 chuyên môn uốn lưỡi câu các loại để bán; còn lưỡi câu đúc do nhà máy chế biến thì bán ở chợ chỗ các tiệm chuyên bán chài lưới lưỡi câu có đủ các loại lưỡi câu mà dân quê ưa dùng. Trong hai loại lưỡi câu này người ta thường uốn theo hình dáng dấu chưn con ó, hoặc hình dáng chữ U, cả hai loại lưỡi này đều có ngạnh để khi cá dính câu cá khó bị sẩy.

Lưỡi câu dấu ó vì giọng câu nhỏ, nên hợp với các loại cá miệng nhỏ như cá trê vàng, cá trèn, cá thác lác; lưỡi câu đúc giọng câu lớn, thích hợp với các loại cá lớn như cá lóc, cá bông, cá lăng, cá kết, cá trê trắng, cá ngác, cá tra, cá bông lau, cá vồ, cá hô, cá leo, cá kết...

Khi bạn có đủ dụng cụ gồm lưỡi câu, giường câu, nhợ câu (nhợ câu là loại dây gai, dây gân có độ mềm hơn giường câu, chẳng hạn giường câu dùng chỉ đậu 9, thì nhợ câu đậu 6, đậu 7, nhằm mục đích để nhợ câu dịu dàng hơn khi lưỡi câu nằm trong nước nhằm làm cho cá dạn ăn) và gắp câu, rồi thì bạn chỉ cần lấy nhợ câu dài khoảng 3 tấc và tóm lưỡi câu lại ở ngay cái chuôi của lưỡi câu; kế tiếp khi đã tóm câu xong xuôi đâu đấy thì bắt đầu buộc các lưỡi câu đó vào giường câu; để cho câu không bị rối, lúc vừa buộc câu vào giường câu xong người ta lấy lưỡi câu máng vào gắp câu; và rồi buộc tiếp lưỡi câu khác và máng vào gắp như trước cho tới khi nào xong 100 lưỡi cho mỗi gắp như vậy là xong. Nhớ là khoảng cách giữa hai lưỡi câu chia đều nhau, thường thường là khoảng cách chừng 1thước hoặc 1 thước 2 tây cho một lưỡi để khi cá ăn câu các con cá khác không bị nhát, vẫn cứ kiếm mồi và có thể ăn câu tiếp, vị chi nếu mình muốn một gắp câu gắp được 100 lưỡi thì giường câu với sợi dây nilon hoặc dây gai đậu 8 hoặc đậu 9 phải dài cỡ hơn 100 thước vừa trừ bì hai đầu giường câu để còn một khoảng cách khoảng dư cỡ 1 thước là được để khi bủa câu mình buộc vô hai cây đài cấm ở hai đầu giường câu.

Xin nói thêm về gắp câu hình dáng là một miếng cật tre già và dày, bề dài khoảng một gang tay tức khoảng hơn hai tấc. Sau khi kiếm miếng cật tre dày như vậy người ta mới dùng mác vót bén khoét miếng cật tre ấy thành cái rảnh nhỏ làm thế nào để khi mình máng lưỡi câu vô cái gắp nó không bị kẹt cứng mà cũng không bị lỏng qúa; vì chật quá thì khi mở lưỡi câu ra để bủa câu, câu sẽ dễ bị chậm, trở ngại; còn nếu quá lỏng lẻo, lưỡi câu dễ bị rớt ra ngoài và bị rối nùi.

Đó là những luồng câu dài giăng bắt cá trèn, cá thác lác, cá trê bằng mồi trùn, mồi tép và bủa trên những vạt đất rộng theo luồng giữa đồng có nhiều rong đuôi chồn hoặc mã đề vì mấy vạt đất này các loại cá này ưa ở. Còn nếu giăng câu cặp mé vườn thường thường mỗi luồng câu chỉ có khoảng 5 hoặc 10 lưỡi câu là tối đa vì giăng câu cặp mé vườn không phải chỗ nào cũng bủa câu được mà phải lựa chỗ nào êm mà mình biết là cá ưa tới đó tìm mồi; thường thường giăng câu cặp mé vườn người ta dùng mồi chạy như mồi cá linh non, mồi nhái, mồi cá sặt non, cá rô non thì loại câu này ưa dính cá lóc, vì vậy phải canh làm sao cho lưỡi câu vừa chí mí mặt nước thôi để cho con mồi chạy nhảy, bơi lội nơi mặt nước và cá thấy mồi tung tăng như vậy là chúng thích lắm và nhảy lên táp miếng mồi liền hà! Nếu để ngầm lưỡi sâu quá, cá mồi sẽ bị vướng cỏ không lội được thì có khi cá mồi sẽ bị ngộp nước và con mồi bị chết, cá hổng khoái lắm nên câu ít dính cá là do vậy. 

Vào tháng 9, tháng 10 âm lịch, muốn giăng câu cá lóc lớn, người ta giăng câu ngầm mùa nước nhớm giựt. Muốn giăng câu ngầm người ta phải lội xuống nước dùng lưỡi hái cắt cỏ cho trống và dọn một cái luồng dài tùy theo số câu mình muốn giăng, có khi một luồng câu dài cả mấy trăm thước. Sở dĩ dọn luồng câu vào mùa này vì câu ngầm giăng bằng mồi ốc, mồi cua nhỏ, nên có luồng trống như vậy để cua bò tới bò lui dễ dàng mà không bị vướng cỏ và cá dạn ăn câu và luồng câu cứ để một chỗ hoài, không phải dời luồng như mùa nước ngập mênh mông đầy đồng.

Ngoài câu giăng, ở nhà quê còn dùng câu cắm, câu thả hoặc câu rê, câu phượt, câu nhắp.

Câu cắm thì mỗi cần mỗi lưỡi và cắm dọc theo các mé mương, bờ kinh, hoặc các giồng ranh với mồi chạy hoặc mồi ốc để bắt cá trê, cá lóc; tùy loại cá, và tùy mùa có khi dùng mồi trùn, mồi cắt thì cá mới ăn nhứt là vào mùa lạnh, cá bị ê răng nên mồi cắt là thích hợp nhứt. Câu thả là loại câu người ta buộc lưỡi câu và một khúc sậy hoặc ống trúc cỡ ba bốn tấc nhằm mục đích làm cái phao cho câu nổi trên mặt nước; sau khi móc mồi xong mình mới lựa chỗ nào êm êm nhắm có cá là vạch lỗ trống để thả lưỡi câu xuống chỗ đó; khi cá đi kiếm ăn gặp mồi đang treo lơ lững dưới nước là nó ăn liền rồi bắt đầu cá lội lung tung để tìm cách thoát ra, và rồi bị vướng vô cỏ nằm đó đến khi người ta thăm câu gặp cá dính chỉ cần lấy rổ hoặc lấy vợt xúc cá vô rổ và gỡ cá thôi. Thường thường có người thả mỗi lần như vậy khoảng 100 lưỡi câu hoặc nhiều hơn và có hôm may mắ trúng chỗ cá nhiều họ kiếm được cả giỏ cá chứ hổng ít. Vui lắm!

Câu nhắp với với cần câu là ngọn tầm vông vừa phải và gọn chuốt cho láng; ở đầu ngọn cần câu tóm nhợ câu ngắn có chiều dài khoảng vài 2 hoặc 3 thước tây, lưỡi câu lớn; vào mùa nước giựt, người ta đi theo các gốc cây lớn dưới sông hoặc ngồi nơi mũi xuồng cầm cần câu với mồi chạy như cá linh, cá rô đồng còn nhỏ, cá sặt hoặc mồi nhái còn sống và bỏ gần mấy gốc gáo, gốc bần và nhấp nhấp, nhử nhử như vậy, mấy con cá trú ngụ theo mấy gốc cây thấy mồi lội tới lội lui chúng nhào lên ăn mồi và dính câu; người ta nhanh tay giựt mạnh cần câu là dính cá.

Câu rê thì cần câu là một cây trúc dài làm cần câu; ở đầu ngọn cần câu người ta tóm một nhợ câu với lưỡi câu đúc lớn để bắt cá lóc. Sở dĩ gọi câu rê vì khi quăng câu với mồi chạy móc sẵn người câu cá cầm cần câu rê qua rê lại nhằm nhử mồi cho cá thấy mồi và ăn câu. Còn câu phượt thì cũng y loại câu rê nhưng nhợ cầu dài hơn và người ta quăng lưỡi câu thật xa trên mặt kinh, mặt hồ nghe tiếng nhợ câu xé gió một cái vút vậy đó và rồi mới kéo lê nhợ câu vô mình, trên đường kéo nhợ câu cá lóc ở gần đó thấy mồi đang di chuyển là nhảy lên táp mồi liền hà; và người câu giàu kinh nghiệm khi biết cá cắn câu là họ giựt mạnh một cái là dính cá và từ từ kéo cá vô bờ rồi bắt cá. Ham lắm! Cả hai loại câu rê và câu phượt khi móc mồi người ta lấy cọng rau muống móc vô chỗ mũi lưỡi câu choàng tới chuôi lưỡi câu nhằm khi mình rê câu hoặc quăng câu rồi kéo câu rề rề trên cỏ câu không bị vướng cỏ mắc gốc.

Câu cần thì lưỡi câu loại nhỏ để câu cá nhỏ. Cần câu làm bằng ngọn trúc và loại câu cần nhỏ này câu nhiều loại cá như lòng tong, cá he, cá thỉu, cá rô đồng, cá rô biển, cá trèn, cá thác lác, cá dảnh, cá mè vinh; tóm lại là cá gì câu cần câu cũng được nhưng có hai loại cá miệng nhỏ và ít ăn câu là cá linh non và các sặt. Muốn bắt cá linh thì có nhiều cách như đăng đó, giăng lưới, đóng đáy, vó cất; còn muốn bắt cá sặt non thì đặt lờ hoặc giăng lưới. Hồi đời trước, dường như ở nhà quê nhà nào cũng có vài ba cần câu trong nhà để câu cá ăn mỗi ngày.

Câu tôm cũng là một trong những thú nhàn ở nhà quê. Ngoài việc đặt lọp, đặt lờ bắt tôm, người ta còn câu tôm bằng cần câu. Câu tôm bằng cần câu có hai loại, một loại câu có lưỡi và một loại câu không cần lưỡi. Câu có lưỡi thì lưỡi câu nhỏ và không có ngạnh vì tôm chỉ ngậm miến mồi chứ hổng có nuốt mồi nên không lưỡi câu cần ngạnh. Câu không có lưỡi người ta dùng một cọng dây chì và mồi câu là mồi trùn; loại trùn dân quê thường dùng làm mồi câu tôm là trùn hổ đất. Người ta xỏ các con trùn vô cọng dây chì  sau đó cuốn cọng dây chì này lại thành một cục mồi lớn cỡ bằng trái chanh hoặc lớn, rồi ngồi nơi mũi xuồng lựa bến vắng thả mồi và câu tôm. Cả hai cách câu tôm bằng lưỡi câu hoặc không có lưỡi dân quê đều có thêm cái lồng đèn bánh ú, cái vợt với cán dài vừa làm mái giằm vừa để vớt tôm khi tôm ăn mồi. Thí dụ bạn lựa chỗ nào nước vận, tức chỗ dòng nước vừa chảy qua rồi dội cái doi đất và nước chảy vận lại là chỗ tôm ưa ở; thế là thả câu và ngồi chờ; bạn sẽ nghe tôm nhâm nhi miếng mồi ngon lành, dao động cần câu, lúc bấy giờ bạn từ từ kéo nhẹ cần câu lên nhắm vừa tới gần mặt nước và tay kia bạn cằm sẵn cây vợt đưa nhẹ xuống nước và nhẹ nhàng hứng tôm vô vợt; mọi động tác như kéo lưỡi câu lên và đưa vợt vớt tôm bạn phải làm vừa nhanh vừa nhẹ nhàng là bạn sẽ có tôm đầy rộng, vui lắm! 

Còn lưới thì hồi xưa người ta đương lưới bằng chỉ, bằng gai, sau này có ni-lon người ta đương lưới bằng ni-lon. Lưới thì tùy theo loại lưới bắt cá nào thì có tên loại lưới cá nấy. Chẳng hạn lưới giăng bắt cá rô thì có lưới ca rô; lưới giăng bắt cá linh thì gọi lưới cá linh; lưới giăng bắt cá trắng thì gọi là lưới cá trắng (hoặc gọi lưới thưa vì cá trắng như cá mè vinh, cá dảnh có bề ngang lớn, có khi 6, 7 hoặc 8 phân, nên lỗ lưới cũng phải lớn theo kích thước của cá, và gọi chung là lưới thưa; trường hợp muốn giăng bắt cá hô, cá bông lau ở sông cái thì lỗ lưới cỡ một tấc tây trở lên mới bắt được mấy loại cá lớn này). Hồi đó, trung bình nhà nào cũng có ít nhứt bốn năm tay lưới mỗi loại và mỗi tay lưới dài chừng từ 50 thước tới 100 thước là thường.  Cách giăng lưới cũng tùy loại lưới mà giăng; chẳng hạn muốn giăng lưới cá linh thì lựa chỗ đồng trống, chỗ mấy cựa gà bủa lưới đón cá đi; giăng lưới cá rô thì bủa theo đường mòn giồng ranh cá rô ưa vô đó kiếm mồi; giăng lưới cá trắng trên đồng thì dọn luồng băng qua những vạt rong đuôi chồn, vạt bông súng hay mã đề các loại cá trắng ưa ở mà bủa lưới…

Bắt cá mùa mưa cá sắp lên đồng hoặc mùa cá ra sông vào tháng 10, tháng 11 âm lịch thì người ta dùng vó cất. Trong các nghề bắt cá thì làm nghề vó cất là nhàn nhứt. Chỉ cần hạ vó xuống và cất vó lên là có dính cá, không cần mồi, không cần dời chỗ; cứ cố định tại một địa điểm mà bắt cá hết mùa này sang mùa khác; khi nào hết mùa thì cuốn vó lại và đem phơi cho vó khô và chờ tới mùa đem ra móc vó lên bốn cái càng có sẵn và hứng cá! Trung bình từ khi hạ vó xuống tới khoảng 20 phút hoặc nửa giờ là cất vó lên một lần là có cá dính trong vó! Nhàn dư lắm!

Ở nhà quê, còn có nhiều dụng cụ bắt cá khác như lọp đặt bửng để bắt tôm, lọp đặt tép, lọp bắt cá chạch; rồi lờ tôm, mùa tháng 5 chạy dài tới tháng 10, tháng 11 âm lịch; tháng 5 thì đặt lờ dưới sông theo các mé cỏ dọc theo các con kinh, con rạch nhỏ; khi nước nhiều tháng 8 tháng 9 âm lịch thì dời lờ tôm lên đồng đặt mấy chỗ cựa gà nước vận tức là nước chảy qua rồi chảy vận lại là chỗ tôm ưa bò tới bò lui kiếm mồi. Nhà nào cũng sắm sửa một ít lọp, một ít lờ như vậy để đặt lọp đặt lờ bắt cá tôm. Nhà nào cũng sắm một bộ đăng đó để đuổi cá linh, cá ròng ròng và thêm một ít ống trúm để đặt lươn. Cái nôm thì cũng rất cần khi soi cá hoặc khi nước kém cần nôm cá dưới rạch lúc nước ròng sát. Trúm thì làm bằng ống tre gai loại tre có lóng dài, ruột tre bộng, lớn, chiều dài chừng 1,5 thước, một đầu để trống làm miệng trúm, một đầu chừa cái mắt bít kín làm đáy trúm, các mắt tre ở giữa thì dùng cây nhọn như cây tràm hoặc cây sắt thụt các mắt tre nhằm làm các mắt này bị bể ra để khi lươn chun vô không bị vướng lại; miệng ống trúm có một cái hom nhỏ vừa với ống tre được xỏ qua bằng một cây ghim tre nhằm giữ cái hom trúm cho khỏi bị rớt ra ngoài, đồng thời cái ghim này cũng có công dụng là khi mình đặt trúm ghim ống trúm xuống đất ống trúm không bị nước làm trôi hoặc nổi trồi lên mặt nước; đáy ống trùm cất cao lên với góc chừng 30 độ hoặc 35 độ so với bề mặt nước nằm ngang, nhằm mục đích cho lươn chun vô không bị ngộp; do vậy ở đáy ống trùm người ta nướng cây sắt tròn và giùi một cái lỗ hoặc dùng cái đục khoét một đường dài chừng một tấc nhằm làm chỗ thóat hơi để khi lươn chui vô ống trúm chúng có chỗ để thở và không chết ngột. Ngày nay, người ta chế ống trúm bằng ống nhựa, hoặc có người còn dùng rẻ tre rồi bện lại như cái lọp nhỏ, có hom và cũng có cây ghim cắm xuống đất giữ cái lọp này ở thế như đặt ống trúm ngày xưa… Tôi hổng biết đặt loại này có dính lươn nhiều hông thì thú thật tôi hổng rành và loại mới này xem ra hổng hấp dẫn cho lắm! 

Ngoài ra, còn có lọp đặt cua. Hồi đời trước ít ai ăn cua đặt lọp bằng mồi vì cho rằng cua mà ăn mồi thì dơ, và chỉ ăn cua vô lờ tôm vì cua này ăn mồi dừa rất béo, hoặc ăn cua đặt lọp đường ven, cua đặt bửng hoặc bắt cua trên đồng vào mùa mưa để ăn, cua sẽ sạch và ngon hơn. Ngày nay vì cua ốc khá hiếm nên có người chế ra các lờ, lọp để chuyên đặt cua đồng. Loại lờ lọp này thì nhìn vào dễ biết vì nan lờ hoặc rẻ lọp to và thô không bóng như lờ lọp đặt tôm cá. 

Vì muốn cá, lươn, tôm… còn sống, nhà nào cũng sắm cái rộng để rộng cá. Đại khái có mấy dụng cụ cần trong việc bắt cá tôm như vậy, xin mời bạn xem qua vài hình ảnh tượng trưng do bạn Thái Lý sưu tầm và chụp được mới đây.

Vài hình ảnh tiêu tiêu biểu:


VI. Thay lời kết

Qua vài nét rất sơ lược về các vật dụng cần thiết trong đời sống ở nhà quê mà tôi cố gắng nhớ và lược kể lại với bạn chỉ là một phần rất nhỏ so với thực tế đời sống ở làng quê cách nay bảy tám chục năm thôi, vì còn có nhiều loại vật dụng mà tôi không biết rành hoặc tôi không nhớ được hết do đầu óc của tôi bây giờ nó già cỗi nhiều rồi và chữ nghĩa cũng không có được mấy chữ nên không thể nào diễn tả hết ra đây được. Ngày xưa ông bà mình thường hay nhắc “nhà giàu còn thiếu mẻ kho”; và với những hồi ức này tôi chỉ có một mơ ước rất nhỏ là muốn mang tặng cho bạn cái “mẻ kho” của những ngày rất xa xưa ấy vậy!

Hai Trầu

Houston- Lấp Vò, ngày 27-12-2020


PHỤ LỤC:

(*) Vài mùa màng tiêu biểu ở nhà quê có thể lược kể ra trong cuốn “Mùa Màng Ngày Cũ” như dưới đây:

 1. Mùa xoài

2. Mùa cày bừa và phát cỏ

3. Mùa dưa leo, dưa hấu, dưa gang

4. Mùa chuột

5. Mùa làm lóng, tát mương, tát đìa, làm mắm, làm khô

6. Mùa bắt lươn, bắt lịch

7. Mùa sạ lúa

8. Mùa cấy lúa

9. Mùa bắp, mùa đậu

10. Mùa bắt cóc, nhái và ếch

11. Mùa xúc lùm, nhảy hùm, quậy đìa

12. Mùa cá về đồng

13. Mùa xuống bửng, đặt lọp, đặt lờ

14. Mùa câu cá và giăng câu

15. Mùa giăng lưới

16. Mùa cá dại, chất chà , dỡ chà

17. Mùa đặt rù, kéo bò, chận ụ, làm mùng

18. Mùa bông súng, bông sen, củ co

19. Mùa màng tháng Chạp

20. Mùa cắt lúa, đạp lúa, mót lúa

21. Có những mùa chim

22. Mùa cuốc khoai lang

23. Mùa trồng kiệu

24. Mùa cua ốc

25. Mùa nước lên và nước giựt

26. Mùa ngồi tum và vớt tràm lụt

27. Mùa làm gạch

28. Mùa trồng mía và ép đường

29. Mùa trồng khóm

30. Mùa dựa rơm và đốt đồng

31. Mùa cắt cỏ cho trâu bò

32. Vài ba mùa khó quên qua năm ba vùng đất cũ.

 NGUỒN:https://www.ptgdtdusa.com/new-page-tran-ba-xu