2021/07/01

 Truyện ngắn

MỘT ĐOẠN ĐƯỜNG

DS13

Ảnh từ blog Dòng Sông Cũ 

ĐIỆP MỸ LINH

Qua khung kính cửa sổ phi cơ, Hạnh thấy những ánh đèn ly ty lùi lại trong bóng đêm. Khoảng không gian giữa những chấm sáng ly ty đó và chiếc Boeing đồ sộ này có lẽ xa lắm; nhưng Hạnh tưởng như nàng thấy rõ những con đường mòn len lõi trong rừng thông, từng làn sóng òa vỡ lao xao trên ghềnh đá và những bệ xi-măng vỡ vụn của một phi trường bỏ hoang. Phi trường đó mang tên Orote Point. Cái tên lạ, vô nghĩa như khoảng thời gian dài vô vị trong căn lều vải, trên những chiếc ghế bố nhà binh.

Những tháng ngày nhàm chán trong căn lều vải Hạnh chỉ biết lắng hồn vào kỷ niệm, ấp yêu dĩ vãng để quên đi hiện tại và không nghĩ đến ngày mai. Những lần đếm bước dưới gốc thông già, Hạnh nhớ những đồi thông xanh ngút ngàn trên Dalat khi nàng còn bé, học trường Domainde Marrie; và con đường mòn quanh co trên ngọn đồi thoai thoải sau chùa Hải-Đức, Nha Trang. Những chiều lặng lẽ bên bờ cát, nghe gió thì thầm, nhìn sóng tung tăng, Hạnh nhớ khung trời cũ, nơi có giải cát vàng, màu nước biếc và mối tình thơ dại. Kỷ niệm cứ chờn vờn quanh đây, chợt đến, chợt đi như thời tiết bất thường của đảo Guam hoang dại.

Dù đảo Guam và Orote Point không phải là nơi đáng yêu, nhưng đã là nơi Hạnh cảm biết thế nào là tủi nhục khi sắp hàng lãnh từng dĩa cơm nhão; thế nào là thương nhớ khi nhìn về phương trời xa, tưởng như thấy được ánh mắt đăm chiêu của Mẹ, mái tóc bạc phơ của Cha; thế nào là bần hàn khi con thèm lon nước ngọt mà Hạnh không có tiền mua! Bây giờ, chuyến bay này sẽ đưa Hạnh về California, nơi đó tương lai hứa hẹn nhiều khó khăn, lắm bất trắc!

Những ngày ở Camp Pendleton, California, cũng chẳng khác gì ở Orote Point. Mùa Hè thật nóng bức, oi nồng. Ngày dài như không dứt. Đêm về lạnh buốt, sương giăng mờ lối. Những ray rức, lo âu, tiếc nhớ lúc nào cũng dày vò, gậm nhấm tâm hồn khiến cơ thể của Hạnh tàn tạ, héo hon!

Đang cùng các con sắp hành nhận lãnh cơm trưa, Hạnh thấy Phi – chồng của Hạnh – từ văn phòng của Trại đi đến, bảo:

-Em! Về lấy giấy tờ lên văn phòng làm thủ tục xuất trại. Một thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến, tên Smith, bảo trợ. Để các con sắp hàng đi ăn trước; mình về ăn sau.

Hạnh lặng lẽ theo Phi trên con đường đất đỏ gồ ghề. Đến nơi, bà Betty bảo Phi điện thoại viễn liên – chính phủ Mỹ trả tiền – với gia đình Smith để bàn tính ngày giờ xuất trại. Hạnh cảm thấy vui vì các con sẽ nhập học kịp niên khóa. Hạnh muốn “trực diện với tương lai xem nó ra làm sao” chứ chôn chân trong trại để mặc cảm lưu đày hành hạ, Hạnh cảm thấy khổ sở vô cùng!

Vừa cảm thấy thơ thới, Hạnh chợt khó chịu vì nghe những tiếng “yes, sir” của Phi khi Phi điện đàm với Smith. Niềm đắng cay từ đâu ùa đến khiến Hạnh muốn khóc. Không muốn khóc sao được khi mà, mới ngày nào, cố vấn Taylor than phiền: 

-Nhiệm vụ của tôi là cố vấn cho đơn vị này. Nhưng không bao giờ anh hỏi ý kiến tôi; không bao giờ anh cho tôi đi hành quân với anh; thế thì nhiệm vụ của tôi là gì?

Phi cười dòn: 

-Anh không là cố vấn cho ai cả. Chúng tôi – người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) – hành quân để chống lại sự xâm nhập có chủ mưu của cộng sản Việt Nam (csVN). Nhiệm vụ của anh là gọi máy bay tản thương khi đơn vị của tôi đụng độ, có thương vong.

 Đôi mắt xanh biếc của Taylor nhìn sửng Phi trong khi tiếng cười cao ngạo của Phi vang vọng. Vậy mà bây giờ một tiếng “yes sir”, hai tiếng “yes sir”! Hạnh thở dài! 

Hôm sau, trước khi bước lên xe bus với cõi lòng buồn/vui lẫn lộn, Hạnh nhìn quanh trại Orote Point lần cuối. Thôi, vĩnh biệt nhé, vùng thung lũng buồn!

Từ khoảng không gian xa lắm của chiếc Boeing, Hạnh thấy ruộng vườn xanh tươi. Bỗng nhiên Hạnh cảm thấy lòng chĩu nặng u hoài; vì Hạnh chợt nhớ những chuyến trực thăng –mà Hạnh đã tháp tùng trong các cuộc hành quân hỗn hợp, để viết bài tường thuật – từ Gò Dầu Hạ về Bến-Lức. Quê mình sao nghèo quá! Vườn cao su xác xơ trụi lá, đồng lúa hoang tàn và những đồn lẻ tẻ dọc bờ sông còn hằn nhiều dấu pháo kích của Cộng quân. Kia là đồn Trà-Cú, hậu cứ của Giang Đoàn 53 Tuần Thám, dưới sự chỉ huy của Hải-Quân Thiếu Tá Nguyễn Thìn; người còn được biết đến dưới danh xưng nhạc sĩ Trường Sa.

Những lần ghé đồn Trà-Cú – trong khi Phi họp hành quân – Hạnh thích ngồi một mình trong nắng ấm, nơi bãi đáp trực thăng, để nghe cỏ rì rào trong tiếng gió lao xao. Nhìn từng chiếc Khinh Tốc Đỉnh (PBR) rời bến với thủy thủ giày “sô” áo trận, tự dưng Hạnh tưởng như nghe được giai điệu dịu dàng, thiết tha của tình khúc Rồi Mai Tôi Đưa Em của Trường Sa. Hạnh “ngân nga”nho nhỏ những câu nàng chợt nhớ: 


Còn đây không gian xưa quen gót lầy… 

Ngồi nghe yêu thương xa tầm tay 

Giữa tiếng ru trầm vào cơn mê này…” (1) 


Có sống trong bối cảnh này Trường Sa mới để lòng mình lắng xuống, đọng lại thành những cung bậc làm nhức nhối lòng người. Hạnh hồi tưởng lại ánh mắt xa xăm của Trường Sa khi Trường Sa từ giã Phi tại Guam để theo thương thuyền Việt-Nam Thương Tín trở về Việt-Nam! Trường Sa, một nghệ sĩ với tâm hồn ướt lệ, người hùng Tuần Thám với sức chiến đấu dũng cảm và tình yêu Quê Hương thiết tha!


Bây giờ tất cả đã xa thật xa trong không gian ngăn cách, đã qua rồi trong thời gian biền biệt trôi. Nhưng, với Hạnh, những tháng ngày êm mơ trên Quê Hương là những kỷ niệm ngọc ngà, không bao giờ nhạt phai.


Chiếc Boeing đã rời xa những áng mây rực rỡ của một chiều Hè trong vùng Cali. tươi mát, đưa gia đình Hạnh về vùng sa mạc nóng bức Arizona. Phi cơ lượng nhiều vòng trên thành phố, đủ thời gian cho Hạnh ghi nhận cảm xúc đầu tiên: “Yuma, một thành phố lạc lõng như tâm hôn tôi lúc bây giờ! 6g25 chiều 20-07-1975”.


Những ngày đầu tiên không làm sao tả xiết những bỡ ngỡ, ngại ngùng. Nhưng sự bở ngỡ ngại ngùng này không thể nào so sánh với cảm tưởng lạc loài vào sáng Chủ Nhật đầu tiên gia đình Hạnh theo gia đình Smith đi nhà thờ! Các con của Hạnh ngơ ngác như lạc vào rừng hoang! Phi ra vẻ trịnh trọng để che giấu cử chỉ bối rối. Tiếng Organ ngân dài những bài thánh ca khiến tâm hồn Hạnh lâng lâng như siêu thoát. Khi Linh Mục bắt đầu giảng kinh, Hạnh nhìn lên tượng Chúa với lòng thành khẩn: “Lạy Chúa! Xin Ngài tha tội cho con. Con đã vì sự sống, vì thọ ơn mà đến đây; nhưng trong lòng con lúc nào hình ảnh Đức Quán Thế Âm cũng ngời sáng!” Không hiểu tại sao ý nghĩ này lại làm cho Hạnh tủi thân. Hạnh âm thầm quẹt nước mắt!


Đã nhiều lần, khi mọi người – ngoại trừ Hạnh – vui đùa bên hồ bơi, bà Smith nghe tiếng piano từ phòng gia đình vang lên tình khúc Come Back To Sorrento; do đó bà Smith biết Hạnh chơi đàn. Vì vậy, khi đến nhà thờ, Bà Smith mời Hạnh vào ca đoàn.


Hôm sau, nhật báo và đài truyền hình địa phương đến phỏng vấn Phi và Hạnh. Hạnh và Phi phải dồn nén tình cảm để trả lời rất khéo léo nhiều câu hỏi rất “hóc búa” của những phóng viên chuyên nghiệp. Để trả lời câu cuối của cuộc phỏng vấn, Phi cho biết chàng ước mong được làm thợ máy sửa xe hơi; vì Phi nghe ông Smith bảo thu thập hằng năm của thợ máy sửa xe hơi rất cao.


Ngay chiều đó, Phi nhận được điện thoại của hãng xe Datsun – tiền thân của Nissan – họ cho biết Phi có thể khởi sự làm việc ngay vào sáng hôm sau; họ sẽ thuê đài truyền hình quay phim để quảng cáo.


Phi nhờ ông Smith đưa đến thư viện, mượn cuốn tự điển Pháp Anh. Suốt đêm đó Phi thức trắng để học những danh từ về máy xe hơi.


Chiều hôm sau, cả nhà quay quần bên TV. Khi thấy trên màn ảnh hiện ra câu: “Hãng xe Datsun của chúng tôi vừa thuê được một thợ máy lành nghề từ Việt-Nam”, cả nhà cười rộ lên! Ông “thợ máy Việt-Nam” ra tay: Cầm wrench không đúng vị thế, vặn ốc không nổi! Sau một lúc “hì hục”, ốc hơi lỏng và dầu xe “tưới” lên mặt, lên áo quần của “ông thợ máy Việt-Nam lành nghề!” Cả nhà ôm bụng cười vang. Hạnh không thể cười mà Hạnh cũng không thể không cười! Hạnh lẻn ra sân cỏ. Nỗi u buồn, niềm cay đắng, sự xót xa cứ mơ hồ, bàng bạc, giăng mắc trong lòng, Hạnh chỉ biết ngồi im nơi sân cỏ!


Bóng tối đến tự lúc nào Hạnh cũng không hay. Phi dựng xe đạp vào tường, hỏi:


-Hạnh! Em làm gì đó?


Hạnh cúi mặt, không trả lời. Phi đến, ngồi cạnh, cầm tay Hạnh:

-Sao buồn quá vậy? Nhớ nhà, phải không?

Hạnh lần tay nàng vào tay Phi như tìm nguồn an ủi. Bỗng Hạnh nhìn vào mắt Phi, giọng thảng thốt:

-Tay anh “phồng” hết! Nhìn xem, những mụn nước no tròn. Sao anh nói láo với họ làm chi cho khổ thân?

-Em nên biết, ở xứ này, một người thợ giỏi làm nhiều tiền hơn một “thầy” không có bằng đại học. Mình đã mất tất cả. Mình phải gầy dựng lại cuộc đời cho tương lai các con. Thằng Bob – manager của dealer và cũng là một cựu sĩ quan Hoa Kỳ từng tham chiến tại Việt-Nam – biết anh nói láo rồi! Nhưng nó thích anh. Bob hứa cho anh học nghề có trả lương. Hồi chiều Bob đã đưa anh ghi danh vào AWC (Arizona Western College) học về Electrical Engineering. Anh cũng đã ghi tên em rồi. Em sẽ chọn phân khoa sau. Bob lại cho anh mượn tiền mua dụng cụ thợ máy; mỗi tháng mình trả góp $50.00. Mai em và anh đến AWC thi nhập học.

Nghe giọng Phi đầy tự tin và vui thích, Hạnh cảm thấy yên lòng.

Hạnh và Phi đã chuẩn bị cho buổi thi nhập học; nhưng khi số bài thi được phát ra và mỗi người ngồi riêng một phòng thì Hạnh cảm thấy số vốn Anh ngữ của nàng tan loãng thật nhanh! Nhìn tập bài thi dày cộm, cố ôn lại những gì đã học từ hai năm tú tài ban Anh văn và những năm miệt mài ở Hội Việt Mỹ, Hạnh cảm nhận được điều mỉa mai: Số Anh ngữ của nàng chỉ “lỏm bỏm” như những hải đảo lạc loài trong đại dương mênh mông!

Sau khi Phi lãnh tuần lương đầu tiên, Hạnh hoàn lại tiền ăn cho gia đình Smith rồi thuê nhà dọn ra ở riêng.

Căn nhà không lớn, chỉ ba phòng ngủ, phòng khách và nhà bếp; nhưng vì không có bất cứ đồ vật gì trong nhà cho nên ngôi nhà trở nên thênh thang, lạnh lẽo. Những người láng giềng tóc màu đem đến tặng gia đình Hạnh các thứ cần thiết như nồi, chảo, chén dĩa, khăn trải giường. Cứ sau mỗi cử chỉ nhân ái họ lại nhắc gia đình Hạnh Chủ Nhật đi nhà thờ!

Đứng chung với ca đoàn của nhà thờ, trên bục gỗ, Hạnh vừa nhìn “notes” nhạc trên bản thánh ca vừa hát vừa liết xuống những người đang ngồi bên dưới và thấy Phi đang ngủ gật trong nhà thờ! Hạnh như muốn khóc. Phi đã làm hơn sức của một người bình thường. Ban ngày Phi làm thợ máy; ban đêm đi học tại AWC. Thứ Bảy Phi cưa cây hoặc làm sân vườn cho hàng xóm.

Công việc của Hạnh có vẻ nhàn hạ. Sáng, 7:00 đạp xe đến hãng, làm cho đến 4:00 giờ chiều; về nhà dạy Anh văn cho các con, lo bữa cơm chiều rồi đạp xe đến AWC học đến 11:00 đêm.

Niên học chấm dứt Hạnh cũng không cảm thấy như mùa Hè hiện diện; vì Yuma chỉ có cát, đá và cây xương rồng chứ không có hoa phượng! 

Dưới ánh nắng như thiêu đốt và trong từng cơn gió lùa sức nóng hừng hực từ những vùng cát mênh mông, Phi và Hạnh mỗi người vẫn nhẫn nại đạp xe trên những con đường thiếu bóng cây. Nhà thờ lại cho biết, chủ nhân hai chiếc xe đạp tỏ ý muốn lấy lại. Nhận thấy không thể nào đủ sức và thời gian để đi bộ, Phi không còn cách nào hơn là trình bày mọi điều với Bob. Bob cười xòa, vỗ vai Phi:

-Anh làm việc tốt. Tôi sẽ bán và cosign để anh có thể mua một chiếc xe. Mai đưa gia đình anh đến, chọn xe nào anh và gia thích rồi cho tôi biết.

Từ đó Hạnh và Phi mới hiểu: Người không mang nợ thì khó xin mua chịu; kẻ mang nợ nhiều lại dễ vay tiền!

Mỗi chiều, lái xe chầm chậm trên xa lộ, nhìn những áng mây trong khung trời lộng gió, Hạnh cảm thấy nhớ nhà da diết! Hạnh nhớ và thương cả những điều không tốt đẹp của Quê nhà, rồi bất giác “ngân nga” nho nhỏ: 


“Trên đường về nhớ đầy. 

Chiều chậm đưa chân ngày. 

Tiếng buồn vang trong mây ...” (2) 


Bao mùa Hạ đã qua đi, vẫn không tiếng ve sầu, không màu phượng đỏ. Nhưng mùa Hè này, Hạnh và Phi cảm thấy lòng rộn ràng mừng vui vì cả hai đang xúng xính trong áo rộng và mũ đen. Khi tên được xướng lên, Hạnh từ từ bước lên bục gỗ trong buổi lễ ra trường. Phi và các con vỗ tay không ngớt. Đến phiên Phi bước lên bục gỗ, Hạnh vừa vỗ tay vừa quẹt nước mắt!

Chỉ sau một thời gian ngắn, Phi được công ty điện lực thuê và Hạnh là chuyên viên kế toán cho ngân hàng. 

Gia đình Hạnh dời vào một ngôi nhà khang trang thuộc một khu vực yên tĩnh. Hạnh tưởng rằng với việc làm tốt và cuộc sống của một chàng “cổ trắng” Phi sẽ vui vẻ; không ngờ Hạnh lại thường bắt gặp Phi thơ thẩn nơi sân sau, ánh mắt đăm chiêu, vần trán nhíu lại như đang suy nghĩ điều chi rất quan trọng.

Một hôm, đi làm về, Phi vào nhà bằng ngã sau. Hạnh chỉ lên đầu tủ lạnh:

-Có thư anh Dinh gửi cho anh.

-Nó ra tù rồi à?

-Em đã mở thư đâu. Anh mở xem.

Phi mím môi thật chặt khi đọc bản sao “Giấy Ra Trại” Dinh gửi kèm.

Ngoài những sáo ngữ rỗng tuếch, Phi nhíu mày nhìn mấy dòng: “…Thi hành án văn,  quyết định tha số…ngày…năm 1984. Can tội: Trung Tá chỉ huy trưởng. Bi bắt ngày…tháng 6 năm 1975”. Phi xếp phong thư cho vào túi, đứng bất động. Chín năm đằng đẳng một đời trai bị đọa đày trong cay đắng, tủi nhục! Phi ở đây, mỗi khi nhận được thư nhà gửi qua Canada hoặc Âu Châu – rồi từ các nước đó bạn của Phi và Hạnh mới chuyển thư đến Mỹ – Phi vẫn cảm thấy hận thù dâng chất ngất vì tin Mẹ và các em của Phi đói khổ ở vùng kinh tế mới, còn nhà của Mẹ thì “được” “nhà nước” quản lý!

Khi nghe Phi thở dài, Hạnh bảo:

-Anh vào tắm nước nóng, nằm nghỉ cho bớt xúc động. Khi nào cơm xong, cu Út sẽ vào mời anh.

Tắm xong, Phi mở ngọn đèn nhỏ cạnh giường, đọc lại thư của Dinh. Ánh sáng lờ mờ gợi lại trong hồn Phi vùng ánh sáng yếu ớt, vàng vọt trên các chiến đỉnh và chiến hạm. Ánh đèn nhạt nhòa không đủ sáng để xem bản đồ hành quân. Bản đồ hành quân với những đường li ti ngoằn ngoèo như những động mạch và tĩnh mạch trên cơ thể của Quê Mẹ tan thương! Ôi, Quê Hương! Chúng tôi đã chiến đấu đơn độc, trong những điều kiện nghèo nàn, thiếu hụt cho nên không biết bao nhiêu bạn hữu và đồng đội của tôi phải gục ngã! Máu của bạn tôi, của đồng đội và máu của tôi như những lượng phù sa bồi đắp miền Nam nước Việt. Bao nhiêu bạn hữu và đồng đội của tôi vẫn còn bị đày đọa trong chốn lao tù, tôi phải làm gì? Tôi không thể an tâm sống yên lành, hạnh phúc. Khi thấy quân phục trắng, tôi nhớ Ngụy Văn Thà và trận thư hùng với Trung Cộng tại Hoàng Sa! Khi thấy màu áo hoa rừng, tôi khóc Phan Văn Sanh, tiếc Trần Văn Thiết! Thấy màu áo kaki, tôi thương Hoàng Xung! Thấy quân phục Không Quân tôi lại nhớ Nguyễn Cư, v.v…Xin cho tôi được minh mẫn, đủ nghị lực để chọn hướng đi cho đoạn đường còn lại của tôi…

“Ba!” tiếng gọi nho nhỏ của Út cắt đứt dòng ý tưởng của Phi. Nhìn ra cửa, thấy Út đang lấp ló, có vẻ e dè vì tưởng Phi đang ngủ, Phi hỏi:

-Gì, con?

-Ba muốn nghe chuyện này không, Ba?

-Chuyện gì, con?

Út sà vào lòng Phi:

-Chuyện của con.

-Nghe chứ, con. Nói đi, Út!

Út nhìn Phi với nét mặt quan trọng:

-Con mới tìm ra một thằng…Việt cộng!

Ngạc nhiên, nhìn Út một chốc rồi Phi cười lớn:

-Làm sao con biết Việt cộng là ai mà con nói? 

Không muốn tuổi thơ của con sớm vướng hận thù, Phi tiếp:

- Thôi, nói chuyện khác đi, con!

-Ba này! Tại Việt cộng mà mình phải chạy trốn, qua đây, để tụi Mỹ kỳ thị. Con biết chớ bộ!

-Mỹ không kỳ thị đâu, con. Nếu Mỹ kỳ thị thì làm thế nào Ba Má và các con được đi học cùng trường với người Mỹ? Ba Má được làm việc chung với người Mỹ và mua nhà cùng khu vực với người Mỹ?

-Không kỳ thị sao tụi nó gọi con là Chino?

-Có thể họ tưởng con là người Tàu, Chinese.

-Má nói tụi Tàu xâm lấn nước mình hoài, đô hộ nước mình cả ngàn năm; rồi cũng tụi Tàu giúp Việt cộng đánh chiếm, đuổi mình khỏi Việt-Nam. Con ghét tụi Tàu! Ai gọi con Tàu thì người đó kỳ thị.

Phi sửng sờ, không ngờ Út lớn hơn chàng nghĩ. Phi chuyển đề tài:

-Thôi, con kể Ba nghe  chuyện thằng Việt cộng đi, Út.

-Hồi Hè mới bắt đầu, cô giáo dẫn một thằng con nít Á Đông vô lớp con. Nó không biết tiếng Anh. Nó ngồi cạnh con. Nó nói nó là người Việt-Nam. Nó nói nhà nó nghèo lắm, vì mới từ đảo qua, Ba Má nó cũng không biết tiếng Anh. Con thấy tội nghiệp nó. Khi nào làm thức ăn trưa, con làm thêm để đem theo cho nó. Con giúp nó làm bài. Nó nói nó thích con. Con hỏi nó: “Mày ở Việt-Nam mà Bắc hay Nam?” Nó nói nó ở cái tỉnh ở giữa cho nên nó không biết Bắc hay Nam. Vì muốn biết nó có phải “phe mình” hay không, con hỏi nó: “Cờ của mày màu gì?”  Nó nói con ngu, Việt-Nam có một lá cờ chớ mấy. Con bảo nó: “Mày vẽ lá cờ của mày ra là tao biết liền.”  Sau khi nó vẽ, con xin cô giáo cho con ngồi chỗ khác. Con không cho nó ăn trưa nữa. Con “nghỉ” nó ra rồi!

Phi xoa tóc con:

-Con thương lá cờ của mình, vậy con có thương nước mình không?

-Dạ, thương chớ!

-Nếu con thương nước mình thì con cố chăm học để sau này về giúp nước, nghe, con.

-Làm sao về được, Ba? Việt cộng còn ở đó mà!

Suy nghĩ giây lâu, Phi thở dài, không hiểu có nên cho con biết ý định của chàng hay không! Một chốc sau, Phi hỏi dò:

-Nếu có người đuổi Việt cộng đi, con nghĩ sau này con có về giúp nước mình hay không?

-Dạ, về chớ! Mà ai đuổi được Việt cộng đi, Ba?

Phi xoay người Út, nhìn vào mắt Út:

-Nếu Ba trở về Việt-Nam đánh đuổi Việt cộng đi để mai sau con trở về giúp nước mình, con chịu không, Út?

Út nhìn Phi không chớp mắt, rồi bất ngờ Út vùi mặt vào ngực Phi, nín lặng! Phi cảm thấy se thắt trong lòng! Phi hôn lên tóc con và cảm nhận được niềm xúc động dâng ngập lòng!

Tiếng Hạnh vọng lên từ nhà bếp:

-Út! Mời Ba ra ăn cơm, con.

Phi ngồi giậy, đỡ Út đứng lên:

-Đi ăn cơm, con!

Út vẫn lặng thinh, mắt nhìn xuống, mặt Út trông buồn lắm! Phi ôm con thật chặt, bảo:

-Út! Con hứa với Ba rằng con sẽ không nói lại với bất cứ người nào – kể cả Má – về những gì Ba đã nói với con, nha, Út. Con cũng không nên buồn; vì con buồn là Ba buồn. Con thương Ba, nghe lời Ba dạy, nha, Út!

Út gật đầu, bậm môi, quẹt nước mắt. Phi chưa kịp đứng lên, Út đã ôm lấy cổ Phi thật chặt như sợ Phi sẽ vuột đi!...

******

Suốt buổi ăn trưa tại một nhà hàng, trông Phi buồn lắm! Phi ít nói hơn mọi khi; nếu phải nói, giọng Phi đặc, nghèn nghẹn như cố nén từng khối u ẩn vào lòng! Phi cố tránh ánh nhìn của Hạnh. Hạnh cảm biết có điều gì rất khác thường; nhưng dự tính chiều về sẽ có nhiều thời gian để vợ chồng nói chuyện thêm.

Đưa Hạnh ra bãi đậu xe, như mọi khi, Phi mở cửa xe cho nàng. Trước khi Hạnh cho xe nổ máy, Phi nhìn Hạnh thật lâu, giọng âu yếm:

-Em trở lại đi làm đi. Anh không sao đâu.

-Sao anh trông có vẻ khác thường?

Bước nhanh về phía xe của chàng, Phi vừa quay lui vừa nói:

-Anh không sao. Bye, Hạnh!

Xe chạy từ từ, nhìn vào kính chiếu hậu, Hạnh thấy Phi vẫn ngồi im trong xe, dõi mắt theo nàng.

Chiều, đang sửa soạn bữa cơm tối cho gia đình, nghe tiếng chuông cửa, Hạnh bảo Út ra xem, nếu người quen thì mở cửa; người lạ thì không. 

Út chạy vào:

-Má, Má! Có ông Mỹ nào … “muốn” Má đó.

Hạnh vội tắt bếp, bước ra phòng khách, quên “chỉnh” Út về tiếng Việt “ba rọi”. Qua khung kính nhỏ, Hạnh ngạc nhiên khi thấy ông Sếp của Phi, vẫn còn mặc “đồ lớn”. Hạnh mở cửa, tươi cười:

-Hi, Jack! Ông mạnh giỏi chứ?

Vừa bước vào phòng khách Jack vừa đáp:

-Cảm ơn. Tôi vẫn khỏe. Hạnh và các cháu vẫn khỏe chứ?

Hạnh bắt tay Jack và đáp:

-Cảm ơn ông. Chúng tôi đều khỏe; còn Helen và Mark thì sao, thưa ông?

-Ô, cũng bình yên.

Hạnh chìa tay về phía xa-lông:

-Mời ông ngồi. Tôi nghĩ Phi đang trên đường về, không lâu đâu.

Jack ngập ngừng:

-Cảm ơn Hạnh. Tôi…tôi muốn nói chuyện với Hạnh.

-Thế à? Vâng, mời ông ngồi.

Vừa ngồi vào xa-lông Jack vừa nhìn quanh. Bất chợt thấy khung ảnh của Phi treo trên tường, Jack vội bước đến. Hạnh bước theo. Giọng Jack tò mò:

-Phi mặc quân phục trông khác quá! Ảnh này chụp bao lâu rồi? 

-Ảnh đó chụp năm 1972, sau khi Phi bị thương tại Chương Thiện.

-Phi bị thương nặng không?

-Nặng chứ! Nhưng đó không phải là lần đầu tiên và cũng chẳng phải lần sau cùng Phi bị thương…

 Hạnh dừng lại, vì thấy thái độ của Jack hơi khác thường, rồi tiếp:

-Jack! Ông cần gặp tôi có điều gì quan trọng lắm, phải không? Trông ông có vẻ bồn chồn/ sốt ruột. 

-Vâng, tôi có chuyện rất quan trọng muốn nói với Hạnh.

-Mời ông ngồi. Tôi nghĩ, ông nên chờ Phi về rồi hãy nói; bởi vì, dù chuyện gì ông nói với tôi, tôi cũng phải nói lại với Phi cả. Có lẽ kẹt xe cho nên Phi về trễ hơn mọi ngày. Nhưng tin tôi đi, Phi sẽ về bất cứ giây phút nào.

Với thái độ hơi vụng về vì xúc động, Jack vịn vai, từ từ đưa Hạnh đến xa-lông:

-Làm ơn ngồi xuống, Hạnh!

Hạnh ngồi vào ghế, nhìn Jack đăm đăm và linh cảm được điều gì đó rất mơ hồ. Jack nhìn Hạnh:

-Hạnh, nghe đây! Hạnh phải bình tĩnh và can đảm để nhận một tin rất quan trọng. Phi không về nữa!

Trong khi Hạnh giật mình, nghĩ rằng Phi bị tai nạn và đã chết thì Jack run tay lấy từ túi áo một phong thư. Trao bì thư cho Hạnh xong, Jack ngồi vào xa-lông đối diện, tiếp:

-Hãy can đảm, Hạnh! Phi đã chọn đúng đường của một thanh niên thời đại. Hạnh và các cháu nên chấp nhận để Phi yên lòng dấn thân cho lý tưởng.

Hạnh nghe u u bên tai như đang lên cơn sốt hoặc chính nàng không hiểu tiếng Anh! Hạnh đón lấy phong thư với trạng thái chối bỏ, như không tin lời Jack. Khi xé bì thư, thấy nét chữ của Phi, tay Hạnh run không thể cưỡng được! 

Hạnh em,

Chưa bao giờ anh xúc động như hôm nay, khi viết những dòng chữ này! Anh muốn viết nhiều và rất nhiều nhưng anh viết không được!

Đời anh đã gắn liền với binh nghiệm hơn 17 năm. Nay anh không thể an nhàn hưởng thụ mà quên đi những người bạn đã nằm xuống và đồng đội đang khóc hận chốn lao tù! Đoạn đường trai trẻ anh chưa hoàn thành được sứ mệnh đối với Tổ Quốc; đoạn đường còn lại anh nguyện sẽ lấy xác thân này – cùng với bạn hữu – dành lại Quê Hương mà csVN đã cưỡng đoạt. 

Năm 1975, anh đưa em đi trong vội vàng, sợ hãi; nhưng anh sẽ đón em về trong môi cười rạng rỡ và ánh mắt tin yêu.

Cầu nguyện cho Quê Hương, cho các bạn và cho anh, em nhé!

Anh,

Phi

Từ từ gấp lá thư lại, Hạnh nhíu mày, thở mạnh rồi dựa vào thành ghế. Im lặng! Một lúc sau, Hạnh ngẫng lên, nhìn chăm chăm vào khung ảnh của Phi. Và, thật bất ngờ, Hạnh tưởng như thấy được Phi bước lên chiếc PBR có nhiều ăng-ten cao; rồi từng chiếc, từng chiếc PBR rời bến, tiến về vùng lửa đạn. 

Trong khi hình ảnh đoàn PBR trở nên nhỏ dần, nhỏ dần thì tiếng hát xưa ngân lên văng vẳng trong bóng chiều và trong lòng nàng: 

“…Còn đây không gian xưa quen gót lầy… 

Ngồi nghe yêu thương xa tầm tay. 

Giữa tiếng ru trầm vào cơn  mê này…” (3)

ĐIỆP MỸ LINH

http://www.diepmylinh.com


*.- Truyện này được sáng tác vào đầu thập niên 80 – cảm tác từ chuyện thật của một  sĩ quan Q.L./V.N.C.H.

1 và 3.- Rồi Mai Tôi Đưa Em của Trường Sa.

2.- Chiều, thơ của Hồ Dzếnh nhạc của Dương Thiệu Tước

2021/06/21

Tường-Vi_Rosa Multiflora


HOA BÊN CỬA


Hoa nở bên khung cửa

Như miệng cười ai xa

Ngước nhìn mây phiêu lảng

Bao lâu mới về nhà

 

Trong vườn nắng lấp lánh

Hoa tím chen hoa vàng

Bạch tú cầu lạc lỏng

Đứng một góc mơ màng

 

Rồi mùa hạ cũng tàn

Mây cứ bay lang thang

Mùa sau còn ai nữa

Bèo mây kiếp hợp tan

 

Bạch Tú Cầu

2021/06/19

HUMAN Extended version VOL.1


HUMAN: bộ phim choáng ngợp về quy mô và tính nhân văn

Tác giả: Milene Fernandez, Epoch Times | Dịch giả: Jessica
7 Tháng Mười Một , 2015

New York–Những câu hỏi đơn giản nhất lại có thể là những câu hỏi khó trả lời nhất. Ý nghĩa của cuộc đời là gì? Hạnh phúc đối với bạn là gì? Tình yêu nghĩa là gì? Những câu hỏi đó vốn dĩ rất trọng tâm nhưng trong cuộc sống thường ngày chúng ta lại ít nghĩ về nó.
Nhà báo và cũng là nhà hoạt động môi trường người pháp Yann Arthus-Bertrand luôn đau đáu với bức tranh tổng thể. Ông muốn tìm hiểu xem tại sao trên thế giới lại có nhiều đau khổ đến thế, tại sao chúng ta vẫn cứ chiến tranh loạn lạc, tại sao lại nhiều cảnh nghèo đói như vậy, tại sao chúng ta lại đang tàn phá môi trường với tốc độ nhanh đến thế, tại sao chúng ta không sống hoà hợp với nhau hơn, tại sao, tại sao và tại sao?
Ông và nhóm cộng tác đã phỏng vấn 2.020 người từ 60 quốc gia khác nhau trong suốt 3 năm để sản xuất một bộ phim tài liệu mang tên “HUMAN” (“Con người”). Mỗi người được phỏng vấn trả lời những câu hỏi như nhau, những câu hỏi đơn giản nhưng lại rất cơ bản. Một trong số 40 câu hỏi tiêu chuẩn đó là: “Trải nghiệm khó khăn nhất mà bạn đã phải đối mặt là gì, và bạn đã học được gì từ nó?”.
Với tâm hồn trong sáng tựa trẻ thơ, Arthus-Bertrand đã tìm cách giúp chúng ta hiểu rõ hơn điều gì làm nên con người chúng ta.
Hầu hết những dự án trước đây của ông – bao gồm sách ảnh, triển lãm, phim tài liệu truyền hình dài tập và phim truyện – đều tập trung vào vấn đề môi trường. Có thể nói ông là một biểu tượng của nước Pháp (ông đã được tặng huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh, là huân chương cao nhất cấp quốc gia của Pháp và là thành viên của Viện Hàn Lâm Mỹ Thuật danh giá của Pháp), ông được thế giới biết đến chủ yếu bởi cuốn sách ảnh chụp từ trên không của mình: “Trái đất nhìn từ trên cao”.
Cuốn sách này đã bán được 4 triệu bản và 175 triển lãm ngoài trời đã trưng bày những bức ảnh đó. Đây là cơ sở nền móng cho những bộ phim của ông “7 tỉ người khác”, “Nhà” và hiện tại là bộ phim tài liệu “HUMAN” – là bộ phim mà ông chuyển chủ thể từ cảnh vật sang con người. Với sự ủng hộ hào phóng từ tổ chức Fondation Bettencourt Schueller ông đã thực hiện được bộ phim phi thương mại dành cho tất cả mọi người.

Mỗi người đều là một cá thể độc đáo và mỹ lệ, ở sự mong manh và chân thành của họ.

Trong khách sạn ở Midtown New York buổi sáng sau khi bộ phim “HUMAN” được chiếu ra mắt tại Hội trường Liên Hợp Quốc vào ngày 12 tháng 9, Arthus-Bertrand nói: “Tôi muốn nghe từ trái tim của mọi người…và muốn nói với trái tim của họ”.
Đó là lần đầu tiên một bộ phim được đưa lên màn hình của Hội trường Liên Hợp Quốc – là hội trường đã đón tiếp vô số các vị lãnh đạo quốc tế hội họp để giải quyết những vấn đề của thế giới, để tuân theo các nghị quyết tiêu chuẩn, năm này qua năm khác như một một câu chuyện lặp đi lặp lại, cũ rích.
Đặc biệt, với vai trò là đại sứ thiện chí của Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc, Arthus-Bertrand đã quyết định chọn Hội trường lớn của Liên Hợp Quốc là địa điểm mang tính biểu tượng tốt nhất cho buổi lễ công chiếu bộ phim, trong số những người tham dự có Tổng Thư Ký Liên Hợp Quốc, ông Ban Ki-moon.
Trong ảnh: phần mở đầu của phiên bản điện ảnh của bộ phim “HUMAN” trong lễ chiếu ra mắt tại Hội trường lớn Liên Hợp Quốc ở New York ngày 12 tháng 9 năm 2015 (Milene Fernandez/Epoch Times).
Trong ảnh: phần mở đầu của phiên bản điện ảnh của bộ phim “HUMAN” trong lễ chiếu ra mắt tại Hội trường lớn Liên Hợp Quốc ở New York ngày 12 tháng 9 năm 2015 (Milene Fernandez/Epoch Times).
Đại diện thường trực của nước Pháp tại Liên Hợp Quốc, ông Francois Delattre nhận xét về bộ phim trong một email: “Bộ phim này là một thông điệp rất mạnh mẽ về niềm hi vọng. Nó cho ta thấy tầm quan trọng của tiếng nói mỗi cá nhân và sự quý báu mà tính đa dạng đã nói lên được cho số phận chung của nhân loại”.

Mặc dù không ai biết họ là ai… họ đã gửi đi những thông điệp với sức mạnh thật chấn động

–Yann Arthus-Bertrand
Với nhiệm vụ khó khăn là phải khắc họa một bức chân dung về nhân loại, Arthus-Bertrand đã quyết định miêu tả những người mà chúng ta chưa từng thấy hoặc chưa từng nghe về họ. Arthus-Bertrand viết trong một cuốn sách của ông có tên “Bức chân dung về thế giới chúng ta, CON NGƯỜI”: “Mặc dù không ai biết họ là ai, hoặc nói khác đi, bởi vì con người họ – họ đã gửi đi những thông điệp với sức mạnh thật chấn động”, cuốn sách này đi cùng với bộ phim mang đến cho khán giả nhiều bối cảnh hơn – và những bối cảnh đó được đặt vào những chủ đề chủ đạo như hạnh phúc, chiến tranh, nghèo đói và lòng vị tha.

Điều gì chia rẽ, điều gì đoàn kết chúng ta

Bộ phim “HUMAN” mở đầu bằng một cảnh quay ngoạn mục từ trên không với một đoàn người buôn bò Trung Đông đi trên những đụn cát của thung lũng Indus thuộc vùng Gilgit-Baltistan, Pakistan. Những đoạn nhạc rất hay được đan xen một cách hoàn hảo trong suốt bộ phim, được sáng tác bởi nhà soạn nhạc nổi tiếng Armand Amar cũng ngoạn mục không kém – nó đã giúp hiệu ứng cảm xúc từ hình ảnh tăng lên mãnh liệt.
Mỗi nhân vật trong phim xuất hiện rất sát máy quay tuy nhiên lại nằm ngoài bối cảnh. Tất cả trong số họ đều được quay khi đứng trước một tấm phông màu xám tối giống nhau. Mỗi người trong số họ đều nói chuyện theo cách riêng nhưng mạch lạc, khi họ chia sẻ một đoạn câu chuyện ngắn về cuộc đời họ trong một vài giây.
Sự xuất hiện của họ trong phim rất có chiều sâu. Nhiều cảnh quay tuyệt đẹp và đôi khi lại gây khó chịu từ trên không được ghép nối với nhau bởi các cuộc phỏng vấn ngắn – đó là cảnh thác nước Agua Azul ở Mexico, cảnh những người phụ nữ đang phơi vải ở Pakistan, cảnh một người đàn ông ở bãi rác công cộng ở nước Cộng hoà Dominican, hay cảnh một hồ bơi đông nghẹt ngoài sức tưởng tượng ở Trung Quốc và còn nhiều các cảnh khác. Những cảnh quay này cho người xem có thêm chút thời gian để lắng đọng và suy ngẫm.
Người được phỏng vấn đầu tiên là anh Leonard, người đàn ông bị tù chung thân vì đã sát hại một người phụ nữ và con của cô. Anh đã biết được ý nghĩa của tình yêu và học được cách giúp đỡ người khác sau khi mẹ của người phụ nữ đã bị anh ta sát hại (và là bà của đứa trẻ) – đã tha thứ cho anh.
Arthus-Bertrand giải thích về lý do tại sao ông đã chọn mở đầu phim với Leonard và người đàn ông này đã rơi nước mắt ở cuối đoạn clip: “Ở một con người bạn có đủ cả – từ tối tệ nhất cho đến tử tế nhất- và anh ấy là một ví dụ như thế. Đó là sự hối lỗi, và tôi nghĩ rằng đó là điều then chốt của một con người”.
Một người phụ nữ người Mỹ, cô Sharon chia sẻ: “Các bạn đã mang lại rất nhiều điều cho tôi ngày hôm nay…Các bạn làm cho tôi cảm nhận rằng tôi có điều gì đó để cho đi…Tôi nghĩ rằng mọi người cần phải cảm thấy rằng chúng ta đã làm được điều gì đó khi còn sống, họ cần cảm thấy rằng họ đã đóng góp và ngày hôm nay các bạn đã làm tôi thấy tôi đã được đóng góp, tôi rất biết ơn vì điều đó”.
Có thể chúng ta ít khi suy ngẫm về những câu hỏi đơn giản nhưng cơ bản trong cuộc sống, và có lẽ vì lý do đó chúng ta cảm thấy rất biết ơn khi được có thời gian và không gian để được diễn đạt những câu trả lời của riêng chúng ta.
Arthus-Bertrand cho rằng những gì mà cậu bé Samuel đến từ Cộng Hòa Dân Chủ Congo nói là “rất thông minh”. Trong phim, Samuel nói: “Tôi đã tự hỏi lý do tại sao tôi lại có mặt trên trái đất…bởi vì mỗi người trên trái đất đều có một sứ mệnh nào đó. Tôi cũng có một sứ mệnh nhưng tôi vẫn chưa biết nó là gì”.
Arthus-Bertrand cảm thấy sứ mệnh của ông là làm nên một bộ phim ý nghĩa và ông thấy thật may mắn khi đã có thể làm ra một bộ phim có sức mạnh đến thế – “une chance incroyable” (thật là một cơ hội tuyệt vời), ông nói câu đó bằng tiếng Pháp.
Trên thực tế bộ phim “HUMAN” quả thật là quá choáng ngợp về quy mô và nó xuất sắc đến nỗi chính Arthus-Bertrand cũng không tin được.
Arthus-Bertrand nói “Tư tưởng bên trong bộ phim thật là kỳ lạ, tôi nghĩ rằng Chúa đã hiện hữu trong phim và hiện hữu đâu đó ở những nhân vật này, tôi không tin có Chúa ở trên đời, nhưng tôi tin rằng chắc chắn Chúa đã hiện hữu trong bộ phim này”.

Cuộc đối thoại vĩ đại

Dường như số người xuất hiện trong phim là vô số. Mỗi người đều có nét độc đáo và nét đẹp riêng khi thể hiện sự mong manh và chân thành của mình, họ chia sẻ những chuyện mà có lẽ trước đây chưa bao giờ được tiết lộ, thậm chí là với những người bạn thân thiết nhất của mình. Nhưng thay vào đó họ đã cởi mở quan điểm khi tham gia vào cuộc đối thoại này, giữa những người xa lạ chưa hề biết nhau bao giờ.

Tôi thấu hiểu được cảm xúc và nỗi đau của cô ấy, và điều ấy không thể thốt nên lời. Nó giống như một bài hát cứ vang vọng.

— Mia Sfeir, nhà báo kiêm phó giám đốc sản xuất phim “HUMAN”
Cuộc đối thoại trong phim hoàn toàn không tương xứng. Một số người được phỏng vấn rất nghèo, bị tước quyền bầu cử, là tầng lớp mạt cùng trong xã hội và mù chữ; một số là những người tị nạn đang chạy trốn; một số khác thì định nghĩa hạnh phúc đơn giản chỉ là có cái gì đó để ăn.
Mặc dù họ có buồn phiền, giận dữ, trầm ngâm hay hạnh phúc đi nữa thì người ta đều có thể cảm nhận được hết các cung bậc cảm xúc con người. Ở cuối mỗi đoạn phỏng vấn mỗi người đều nhìn thẳng vào ống kính máy quay. Khán giả nhìn thấy họ phơi bày hết tâm hồn mình nhưng những nhân vật được khắc hoạ trong phim có thể không bao giờ có cơ hội được gặp những nhân vật khác trong phim.
Một ngày sau khi bộ phim được công chiếu tại Uỷ ban Liên Hợp Quốc tại New York và vài tiếng trước chuyến bay trở về Paris, nhà báo kiêm phó giám đốc sản xuất bộ phim “HUMAN”, cô Mia Sfeir nhấn mạnh: “Mỗi người đều có một câu chuyện riêng…mỗi người đều có một câu chuyện riêng nào đó”. Với cô Sfeir thì bộ phim này nói về sự bền bỉ của con người.
Trong số vài ngàn người được phỏng vấn, cô đã nói chuyện với Bruno, một người đàn ông đến từ Anh. Anh chia sẻ câu chuyện về sự mạnh mẽ và sự am hiểu cuộc sống mà anh đã có được sau khi bị mất đi hai chân, nếu Chúa có cho lại đôi chân cho anh thì anh cũng sẽ không nhận bởi vì điều đó sẽ tước đi sự thông tuệ mà anh đã có được.
Một người phụ nữ tên là Ekami, là người thuộc tầng lớp tận cùng của xã hội Ấn Độ và đang ở trong tình cảnh rất bần cùng, chị để lại ấn tượng lâu phai nhất cho Sfeir.
Trong phim có cảnh cô đang hét lên, giải phóng hết cảm giác chán chường bất lực và nỗi đau ẩn sâu trong cô qua bao nhiêu năm, cô nói với những vị lãnh đạo thế giới: “Hãy giúp chúng tôi có một cuộc sống tử tế với, nếu không chúng tôi sẽ chết đói mất!” Tuy nhiên cũng mất một chút thời gian và can đảm cô mới có thể làm được như thế. Thông qua người phiên dịch, Sfeir đã động viên cô nói hết ra những điều cô muốn nói.
Sfeir nói: “Tôi nhận ra rằng tôi đã thấu hiểu được cảm xúc và nỗi đau của cô ấy, điều ấy không thể thốt nên lời. Nó giống như một bài hát cứ vang vọng”. Mặc dù bộ phim chỉ ghi lại tiếng hét giải toả nỗi bức xúc của cô nhưng Sfeir khẳng định Ekami “có một nụ cười tuyệt đẹp…đó đúng là một khoảnh khắc thật hào sảng của cô”. Sfeir nói thêm: Thường thì bởi vì những người thuộc tầng lớp bần cùng trong xã hội “không nói và không kêu ca gì nhiều ở trong làng mình hết”.
Sfeir chia sẻ: “Bộ phim làm cho những tiếng nói kia được thốt lên, nó nói về những tiếng nói này nhưng đồng thời cũng là về những gì ẩn sau tiếng nói đó”. Nhắc đến sức mạnh mà âm nhạc của nhạc sĩ Amar mang lại, cô nói: “Đối với tôi những gì những nhân vật trong phim nói cũng là một dạng âm nhạc khác theo một kiểu khác”.

Một bộ phim dành cho tất cả mọi người trong số 7 tỉ người

Tổng giám đốc quỹ Fondation Bettencourt Schueller là ông Olivier Brault đã viết trong một email bày tỏ họ rất tự hào vì đã tài trợ cho một “bộ phim bác ái”, tạo cơ hội cho Arthus-Bertrand “được làm một bộ phim mà ông mơ ước và cho phép số khán giả nhiều nhất có thể được xem”.
Phiên bản điện ảnh của bộ phim “HUMAN” dài 3 tiếng và có nhiều dạng thể khác nhau như phiên bản phim truyền hình (131 phút), “On the trail of human” (Trên hành trình của con người, gồm 3 tập phim, mỗi tập 52 phút), “The stories of HUMAN” (Những câu chuyện về con người, 80 phút), “The HUMAN Adventure” (Cuộc phiêu lưu của loài người, 52 phút), “HUMAN the music” (Âm nhạc trong HUMAN, dài 52 phút), “HUMAN for the Web” (phim HUMAN dành cho trang web) và “HUMAN Behind the Scenes” (Hậu trường phim HUMAN). Hơn cả một bộ phim, “HUMAN” là một dự án phi thương mại mang tính toàn cầu. Google đã đưa ra 6 kênh Youtube chỉ dành riêng cho dự án này vào ngày phiên bản điện ảnh của nó được ra mắt. Quỹ GoodPlanet của Arthus-Bertrand trao miễn phí bản sao và tài liệu phim cho các trường học và tổ chức phi chính phủ.
Arthus-Bertrand thừa nhận đã đưa rất nhiều chi tiết vào phim nhưng điều đó là cần thiết. Theo ông, đây là một bộ phim khơi gợi một người “mở cửa trái tim bạn và lắng nghe lời trái tim nói”. Với giọng nói mệt mỏi sau một đêm dày đặc các hoạt động trong buổi ra mắt phim tại trụ sở Liên Hợp Quốc, ông chia sẻ: “Làm bộ phim này không dễ dàng chút nào, tôi biết bộ phim rất dài, nhưng tôi yêu nó”.

Chúng ta phải đặt tính nhân văn của chúng ta lên trên mọi nỗi sợ hãi… đặt lên trên tất cả.

Yann Arthus-Bertrand
Là một trong số 7 tỉ người của dân số trái đất, ban đầu Arthus-Bertrand từ chối trả lời 1 trong những câu hỏi của chính ông đưa ra bởi vì đó không phải là lúc thích hợp. Tuy nhiên ông đã trả lời cho ít nhất một trong số các câu hỏi đó.
Ông nói: “Đêm qua tôi rất hạnh phúc. Tính nhân văn mà chúng tôi cố gắng thể hiện trong bộ phim đã được cảm nhận và thấu hiểu và tôi rất vui”, tuy nhiên sau đó, như cảm thấy sức nặng của cả thế giới đang đặt lên vai mình, ông nói thêm: “Thế vẫn là chưa đủ, vẫn chưa đủ đâu”.
Bộ phim như sự cô đọng và mãnh liệt về số phận những con người, phim “HUMAN” cho chúng ta được thấy điều gì làm cho chúng ta trở thành con người như chúng ta bây giờ, mà nếu không có nó thì hẳn điều đó là không thể. “HUMAN” là một dự án phim vô cùng nhân văn để 7 tỉ trên trái đất có thể suy ngẫm.
Sfeir nói: “Tôi hi vọng với thời lượng 3 tiếng 11 phút, bộ phim sẽ phá vỡ vài bức tường phong kín tâm hồn họ khi họ theo dõi nó”.
Arthus-Bertrand nói: “Bộ phim này vượt qua tôi, vượt qua chúng ta. Chúng ta phải đặt tính nhân văn của chúng ta lên trên mọi nỗi sợ hãi…đặt lên trên tất cả”.  Đôi mắt xanh nhạt của ông ánh lên rạng rỡ khi ông khẽ thở dài: “HUMAN không còn là phim của tôi nữa; nó là một bộ phim của chúng ta”.

HUMAN Extended version VOL.1
Published on Sep 11, 2015

Turn on the Closed Captions (CC) to know the countries where the images were filmed and the first name of the interviewees.

What is it that makes us human? Is it that we love, that we fight? That we laugh? Cry? Our curiosity? The quest for discovery?

Driven by these questions, filmmaker and artist Yann Arthus-Bertrand spent three years collecting real-life stories from 2,000 women and men in 60 countries. Working with a dedicated team of translators, journalists and cameramen, Yann captures deeply personal and emotional accounts of topics that unite us all; struggles with poverty, war, homophobia, and the future of our planet mixed with moments of love and happiness.

Watch the 3 volumes of the film and experience #WhatMakesUsHUMAN.

The VOL.1 deals with the themes of love, women, work and poverty.

If you want to discover more contents, go on http://g.co/humanthemovie

 
HUMAN Extended version VOL.2

Published on Sep 11, 2015

Turn on the Closed Captions (CC) to know the countries where the images were filmed and the first name of the interviewees.

What is it that makes us human? Is it that we love, that we fight? That we laugh? Cry? Our curiosity? The quest for discovery?
Driven by these questions, filmmaker and artist Yann Arthus-Bertrand spent three years collecting real-life stories from 2,000 women and men in 60 countries. Working with a dedicated team of translators, journalists and cameramen, Yann captures deeply personal and emotional accounts of topics that unite us all; struggles with poverty, war, homophobia, and the future of our planet mixed with moments of love and happiness.

Watch the 3 volumes of the film and experience #WhatMakesUsHUMAN.

The VOL.2 deals with the themes of war, forgiving, homosexuality, family and life after death.

If you want to discover more contents, go on http://g.co/humanthemovie

 
HUMAN Extended version VOL.3
Published on Sep 11, 2015

Turn on the Closed Captions (CC) to know the countries where the images were filmed and the first name of the interviewees.

What is it that makes us human? Is it that we love, that we fight? That we laugh? Cry? Our curiosity? The quest for discovery?

Driven by these questions, filmmaker and artist Yann Arthus-Bertrand spent three years collecting real-life stories from 2,000 women and men in 60 countries. Working with a dedicated team of translators, journalists and cameramen, Yann captures deeply personal and emotional accounts of topics that unite us all; struggles with poverty, war, homophobia, and the future of our planet mixed with moments of love and happiness.

Watch the 3 volumes of the film and experience #WhatMakesUsHUMAN.

The VOL.3 deals with the themes of happiness, education, disability, immigration, corruption and the meaning of life.

If you want to discover more contents, go on http://g.co/humanthemovie