Hiển thị các bài đăng có nhãn BIÊN-KHẢO. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn BIÊN-KHẢO. Hiển thị tất cả bài đăng

2022/04/21

TRẠCH GẦM, MỘT GIỌNG THƠ ĐỘC ĐÁO   

(Mục chân dung nhà văn)

                                



 Có lẽ, dính vào viết lách, nên tôi thường nhận được những tác phẩm thơ văn gửi tặng qua bưu điện, hoặc E-mail. Đó cũng là một niềm vui, sự an ủi không nhỏ cho những người cầm bút. Tuần vừa rồi, có một bác từ Houston, Hoa Kỳ gửi cho tôi chùm thơ, và hỏi có biết Trạch Gầm không. Vâng, tất nhiên là tôi đã bắt gặp tên tuổi nhà thơ này, khi đọc và nghiền ngẫm Văn học miền Nam trước đây, và các tác giả sau 1975 ở hải ngoại. Song mới chỉ đọc một vài đoạn trích ở đâu đó của Trạch Gầm, và chưa cho tôi một ấn tượng, hay cảm xúc gì đó đặc biệt. Tuy nhiên, khi nhận chùm thơ này, tôi đọc ngay, và đọc một mạch. Cái tráng khí Trạch Gầm làm cho tôi hơi bị sửng sốt. Do vậy, tôi tìm đọc ông. Và quả thực, thơ văn Trạch Gầm đã cho tôi một cảm xúc thật sâu sắc. Đọc ông, tôi chợt liên tưởng đến nhà thơ Huỳnh Hữu Võ, và Nguyễn Bắc Sơn. Nếu ngôn ngữ thơ của những người lính Huỳnh Hữu Võ, Nguyễn Bắc Sơn mang tính đặc trưng, thì ta có thể thấy rõ cái nét độc đáo trong thi ca Trạch Gầm.

 
Nhà thơ Trạch Gầm tên thật là Nguyễn Đức Trạch, người Quảng Ngãi, nhưng sinh trưởng tại Saigon. Ông xuất thân trong một gia đình truyền thống văn chương, bố là nhà báo kỳ cựu Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy và mẹ là nhà văn Bà Tùng Long. Cho nên, Trạch Gầm cũng như những người em của mình (nhà văn Nguyễn Đức Lập, nhà văn Nguyễn Đông Thức) không chỉ ở văn chương chữ nghĩa, mà còn chịu ảnh hưởng rất sâu sắc tư tưởng từ gia đình. Tuy nhiên, ông đến với thơ văn, đi vào cuộc chiến khá muộn. Năm 1965, tròn 23 tuổi Trạch Gầm mới nhập ngũ khóa 21 Trường sĩ quan Thủ Đức, và có mười năm lăn lộn nơi chiến trường. Thời gian này, ông bắt đầu viết lách, và đăng tải rải rác trên các báo trong và ngoài quân đội. Nhưng phải đến sau tháng 4-1975, với gần mười năm cải tạo tù đày, cùng những năm tháng cư ngụ nơi đất khách Hoa Kỳ, cây bút Trạch Gầm mới như có ma lực vậy. Viết không nhiều, song những tác phẩm của ông đã đánh đúng vào tâm lý, chạm đến được tận cùng nỗi đau, sự cảm thông của con người, nhất là đối với những người lính đã trải qua cuộc chiến tranh, tù tội. Vì vậy, tự sự là một trong những thủ pháp nghệ thuật làm nên những trang viết ấy của Trạch Gầm. Cho đến nay, Trạch Gầm mới cho in ấn, xuất bản ba tập thơ: Vụn Vặt, Ráng Chịu, Dấu Giày Chinh Chiến, cùng hai tập truyện: Bên Lề Cuộc Chiến, Chôn Lầm Huyệt Nhớ, và tuyển tập Nhốt Vòng Nhớ Thương. Do vậy, ta có thể thấy, tuy là một nhà thơ, nhưng văn xuôi đã góp phần không nhỏ làm nên tên tuổi Trạch Gầm.
 
* Chiến trường, nơi ấm tình đồng đội.
 
Cũng như Phan Nhật Nam, hay Trần Hoài Thư, ngay từ những ngày đầu cầm súng Trạch Gầm đã nhận ra: “Cái khốn nạn của thế hệ chúng tôi, quê hương tôi, vận mệnh không nằm trong đôi tay của chúng tôi. Vì bọn ngoại bang đã đặt cả dân tộc của chúng ta lên bàn cân buôn bán!”. Tuy mang nặng cái tư tưởng như vậy, nhưng mười năm cầm súng, Trạch Gầm không hề có sự mâu thuẫn, giao động trên đầu súng như nhà thơ, người lính Nguyễn Bắc Sơn. Với ông có sự phân biệt rạch ròi trách nhiệm của người lính. Do vậy đi vào cõi tử sinh, ta vẫn thấy cái hào khí Trạch Gầm, dường như có một chút ngang tàng: “Vào cõi chết ỉ ôi cùng chia chết/ Cầm súng lên rồi… trời đất bằng vung”. (Ngồi Nhớ Củ Chi).
 
Khi đi sâu vào đọc ông, tôi hơi bị bất ngờ và xúc động. Sự rung động ấy không hẳn vì tài năng miêu tả, trần thuật, mà bởi nghệ thuật đưa khẩu ngữ vào thơ văn của Trạch Gầm. Ngoài sự dân dã đó, ta còn thấy thơ Trạch Gầm đều có nhân vật, với những đại từ nhân xưng được cho là bỗ bã, một điều tối kỵ trong thơ văn từ trước đến nay. Tuy nhiên, đọc ông dường như cái bỗ bã ấy đã trở nên nhẹ nhàng và gắn kết thân mật hơn, kể cả khi viết cho người tình: “Tao ở tù lâu, mày lấy chồng cũng phải/ Tao ra tù, mày bán máu đãi tao/ Miếng bông băng trên khủy tay run rẩy/ Tao khóc đã đời…”. Vâng, âu đó cũng là tài năng, sự độc đáo trong thi ca Trạch Gầm vậy. Và cái sự dân dã, độc đáo ấy, đã gọi tên, đi thẳng vào cái tàn khốc của chiến tranh, nỗi đau của con người: “Mỗi tấc đất được giữ bằng xương máu/ Thằng vừa chôn bị hất lên bởi pháo/ Thằng bị thương chưa bó… lại bị thương” (Dấu giày chinh chiến). Song nó cũng đã làm dịu ấm lại tình bạn bè, đồng đội nơi binh đao, khói lửa ấy: “Tao với mày đạp chân qua bao bến/ Bến Nẩy, Bến Mương, Bến Dược, Bến Đình/ Đất Củ Chi này, mỗi lần nhắc đến/ Đã đến rồi thằng nào lại nỡ quên/ Dân đánh đấm bọn mình thường lắm bạn/ Địa danh nào chẳng có đứa đâu lưng/ Có lắm lúc khề khà trong lửa đạn/ Lại lắm khi ngồi cạn chén rưng rưng.” (Ngồi Nhớ Củ Chi).
Nếu chưa đọc Lữ Quỳnh, hay Phạm Tín An Ninh, hoặc Thảo Trường… thì có lẽ, tôi không thể tưởng tượng ra được cái bi thương của người lính khi đọc: Trở lại Bình Long của Trạch Gầm. Có thể nói, đây là một bài thơ hay của Trạch Gầm, và cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về chiến tranh, thân phận người lính của nền Văn học Việt Nam. Sự tàn khốc mang tính chân thực ấy, đọc nó, tôi phải sởn gai ốc, khi ngồi viết những dòng chữ này:
 

“Cũng nơi đây… ta bò ra ao rau muống

Quơ đại ít về nấu bát canh tươi

Rau dính tóc tai bay mùi thum thủm

Ngập dưới ao… có mấy chục xác người

Cũng nơi đây… ta đắp mồ cho bạn

Vừa quay lưng xác bạn lại bật tung

Mỗi thước đất cài trăm ngàn mảnh đạn

Ta, sống nhăn, hóa kiếp… gọi anh hùng”

 
Giữa chiến trường khốc liệt, và gian nan là thế, song hình ảnh người lính, lòng nhân đạo vẫn hiện lên đậm nét trong thơ Trạch Gầm. Với ông, nỗi đau, sự mất mát xóa nhòa gianh giới bạn và thù: “Hai thằng cắn răng bò qua bao xác/ Xác bạn xác thù trộn lẫn đau thương”. Và dưới bom rơi, đạn nổ không làm cho người lính Trạch Gầm run sợ, vậy mà cái tình người, tình đồng loại đã khiến ông phải rưng rưng đến nghẹn ngào:
 

“Cũng nơi đây… ta cứu người con gái

Gởi trực thăng di tản về Bình Dương

Trực thăng nổ khi vừa rời mặt đất

Ta điếng hồn như vừa nuốt phải xương”

                               (Trở lại Bình Long)

 
Nếu “Trở lại Bình Long” ngoài sự tàn khốc, trùm lên tất cả là lòng nhân bản, tình đồng loại, thì đến với “Trở lại Long Khánh” Trạch Gầm đi sâu vào cái tình đồng đội, cùng chia sẻ nỗi đau mất mát, với sự ngậm ngùi, cảm thông: “Cầm ly rượu liếm môi còn máu bạn/ Hai thằng cười nước mắt ngập tràn ly”. Và nỗi vui, buồn lo âu ấy, luôn ám ảnh trong lòng thi nhân. Với tâm trạng như vậy, song những câu thơ có tính khẩu ngữ dung dị vẫn ấm tình người lính ở nơi địa đầu sinh tử: “Sợ bàn rượu thiếu một thằng mất sướng/ Thiếu một thằng là hụt hẫng niềm vui/ Đời lính chiến bao phen trào nước mắt/ Tìm cái bắt tay… đất sập, lủng trời”. Có thể nói, Trở lại Long Khánh không phải là bài thơ hay nhất của Trạch Gầm, nhưng có những câu thơ (mang) hình tượng rất đẹp:
 

“Tựa vách đá mòn bao lưng chinh chiến

Bỗng dưng thèm hai tiếng gọi mầy tao

Tiếng gọi mầy tao, những chiều tắt nắng

Dựng mặt trời bằng ngàn ánh hỏa châu”

 
Trạch Gầm đã bộc lộ và gửi cảm xúc của mình vào nhiều thể loại, từ lục bát, ngũ ngôn cho đến thơ tự do… Nhưng phải nói, những bài thơ hay của ông đều thuộc thể bát ngôn. Một thể thơ không quá gò bó bởi niêm luật. Và“Đêm Giao Thừa Của Lính” là một bài thơ như vậy. Với tôi, đây là bài thơ tiêu biểu nhất về tâm trạng của người lính nơi trận tiền giữa giờ phút thiêng liêng (của đêm giao thừa). Bài thơ như một một lời an ủi, tự ru lòng mình vậy. Giữa núi rừng sâu thẳm, trong cái phóng khoáng, có một chút ngang tàng, dường như ta vẫn thấy được cái an nhiên tự tại của người lính. Và cái giây phút thiêng liêng ấy, họ vẫn muốn sum họp, sẻ chia cùng đồng đội những người đã nằm xuống: “Chừa vài chén cho những thằng nằm xuống/ Gọi nó về cùng ngồi uống cho vui”. Tôi đã đọc khá nhiều thơ văn viết về chiến tranh, song thành thật mà nói, rất ít người viết về đồng đội sâu đậm như Trạch Gầm:
 

“Bày ra mầy… một vài chai rượu đế

Giữa núi rừng còn hương vị nào hơn

---

Ai cấm mầy không được quyền mơ ước

Cứ vẽ ra vài dáng dấp phố phường

Cài lên đó thêm vài hàng nước mắt

Y chang rằng mình cũng có người thương

Bất bình hả… lia lên trời vài loạt

Nhớ cài nhiều đạn lửa đốt màn đêm

Soi rọi thử lại khoảng đời phiêu bạt

Khóc hay cười cùng bè bạn anh em…”

 
Có thể nói, thơ Trạch Gầm ghim được vào lòng người đọc như vậy, nhất là những người lính, bởi tính chân thực. Mỗi địa danh, mỗi trận đánh đều mang dấu ấn của lịch sử. Bạn bè, đồng đội ông là những con người thực, tên tuổi thực. Mỗi câu thơ như một mũi khoan xoáy vào lòng người vậy: “Vợ thằng Dấm đấm ngực tao bình bịch/ Chồng em đâu, chết rồi hả anh Hai”. Cho nên, sống hay chết đều để lại những nỗi đau, với kỷ niệm buồn sau chiến trận. Và Trạch Gầm như một người thư ký, cần mẫn ghi lại bằng thơ. Âu đó cũng là sự giải tỏa nỗi lòng Trạch Gầm, và cho cả đồng đội ông.
 
* Những ngày tháng tư – với linh hồn rách nát.
 
Và tháng tư đến, cái nhận thức, tư tưởng ngay ban đầu của Trạch Gầm đã trở thành hiện thực. Thân phận đất nước nói chung, và người lính nói riêng đã được đặt lên bàn, để cân đong đo đếm. Người lính ấy, không thể tự quyết số phận của mình trên chiến trường. Chỉ với hình ảnh một ông tướng thăm dân và thị sát, rồi không bao giờ trở lại, Trạch Gầm đã cho ta thấy rõ cái bản chất của cuộc chiến này. Sự phũ phàng, xảo trá và lưu manh đó đã đưa đất nước, con người vào đường cùng, ngõ cụt. Và Nhật ký tháng Tư là một bài thơ như vậy của Trạch Gầm: “Hai tám tháng Tư, ta ra lộ Một/ Gặp ông tướng vùng thị sát thăm dân/ Ông nói lung tung, ông thề sống chết/ Ông nói xong rồi, ông bay biệt tăm”. Có thể nói, Nhật ký tháng Tư là một bài thơ điển hình, chân thực nhất của Trạch Gầm về những ngày tháng tang thương này. Lời thơ tự sự, với những hình ảnh so sánh: mất/ còn, làm cho người đọc phải nghẹn ngào, xót xa:
 

“Hai chín tháng Tư, Biên Hòa xơ xác

Ta về Sài Gòn ngang qua nghĩa trang

Ta đứng nghiêm chào bạn ta đã chết

Như tự chào mình - nát cả tim gan.

 

Ba mươi tháng Tư, ta ôm mặt khóc

Trên cầu Sài Gòn - cạnh phố Hùng Vương

Mười năm binh đao, mười ngày kết thúc

Ta còn nguyên, mà mất cả Quê Hương…”

 
Vậy là, người lính Trạch Gầm vẫn còn sống để trở về, nhưng linh hồn dường như đã mất. Sự chán chường, và vô nghĩa ấy, buộc ông trải vào những trang thơ. Lời trước nghĩa trang, tuy không phải là bài thơ hay của Trạch Gầm, song nó tiêu biểu cho cái diễn biến tâm lý chung (rất sâu sắc, chân thực) của người lính thất trận ở những ngày này. Vẫn biện pháp tu từ so sánh, đoạn trích dưới đây cho ta thấy rõ điều đó:
 

“Mầy đã hơn tao vì mầy đã chết

Hưởng chút lễ nghi hưởng chút ân cần

Có được người thân cho lời nuối tiếc

Còn tao bây giờ sống cũng như không”

 
Và sau cuộc chiến, tù cải tạo là con đường duy nhất của người lính. Lững thững vô tù mà Trạch Gầm vẫn không thể tin miền Nam đã sụp đổ: “Ngày mất nước không tin mình thua cuộc/ Tuổi mới hăm đã lững thững vô tù/ Vai nhẹ tếch quải vài dòng nước mắt/ O Huế nào đã khuấy đọng lu bu…”. Cái phũ phàng, và bất ngờ ấy, dường như không chỉ riêng ở người lính Trạch Gầm, mà ta còn bắt gặp trên trang văn Phan Nhật Nam, và cả Trần Hoài Thư nữa. Họ đều nghĩ: “hết chiến tranh anh sẽ về Nha Trang dạy học và cưới em” (Trần Hoài Thư). Nhưng buồn thay, các bác cùng dắt tay nhau vào rọ cả. Ở nơi chuồng người Hoàng Liên Sơn với những điều trớ trêu, và nghịch lý đó, chẳng biết các bác có gột rửa được tâm hồn hay không? Nhưng đọc những câu thơ khí chất Trạch Gầm thấy người hơi rung rinh, sảng khoái: “Ngươi nói trăm điều: một điều không biết/ Ngươi là thá gì mà… cải tạo Ta?” . Có thể nói, tù đày, chết chóc chưa hẳn là điều đáng sợ, mà nỗi đau tinh thần mới là sự ám ảnh, tang thương nhất đối với người lính thất trận. Và nỗi đau ấy, vượt ra khỏi những trang thơ, buộc Trạch Gầm phải đến với văn xuôi, truyện ngắn. Tôi đã tìm đọc một số truyện của ông trên internet, nhưng có thể nói, Cháy giữa mùa xuân là truyện ngắn độc đáo, hay nhất của Trạch Gầm. Độc đáo bởi, lần đầu tôi được đọc một tù cải tạo viết về gái gú bán mua rất sinh động và chân thực ở ngay chốn lao tù. Và ở đó cũng cho tôi thấy cái tình người vẫn còn sót lại ở nơi địa ngục trần gian này: “Tôi thì không như mấy thằng trong trại, chúng chỉ biết coi tù, rắc rối bỏ mẹ xử lý chẳng có chút chi là tình người…Với tôi ông muốn nói gì cũng được tất, chuyện xưa chuyện nay, hát nhạc vàng, hát vọng cổ…ngồi trước mặt tôi các ông không nên chửi đảng, thế thôi”. Với từ ngữ, lời thoại dân dã, mộc mạc, cùng thủ pháp châm biếm, Trạch Gầm cho người đọc tiếng cười thật chua chát. Trích đoạn lời thoại giữa nữ xã đội trưởng giám sát với những người tù phá đá nung vôi dưới đây, sẽ cho ta thấy rõ điều đó:
 
“Trong 6 thằng bọn anh thật mà nói chẳng có thằng nào còn giữ được cái đồng hồ. Nếu trong trại còn có đứa nào yếm được thì anh sẽ cố kiếm mua cho em. Có điều em bảo gì gì cũng được anh lại không hiểu gì cả…
Nở cười:
– Gì gì em muốn nói ở đây là chất tươi đó mà, nói toẹt ra là gái đấy.
Điệp chận lời:
– Xã hội chủ nghĩa mà còn lưu hành cái món nầy sao? Anh cứ nghĩ là được giáo dục đến nơi đến chốn hết rồi chứ.
-– Ôi! cái nghề có từ đời thượng cổ, càng đói rách thì càng sanh mầm như nấm gặp mưa. Nói cho anh rõ ngoài Yên Bái đánh một quả năm tì, trong làng mộc mạc, giá hữu nghị chỉ có ba tì…các anh, anh nào cũng sức trai hừng hực. Những ngày mà bọn tôi còn trong rừng núi Trường Sơn, nhiều đồng chí nam bị sốt ác tính vật còn như tàu lá, thế mà thấy các đồng chí nữ tắm suối vẫn ngẩng đầu lên xin tí tình”

 
Đọc Cháy giữa mùa Xuân, ta thấy rất nhiều tình tiết đan xen tạo nên bức tranh đa màu. Ở đó, ta không chỉ thấy được nỗi thống khổ của những tù nhân, mà còn thấy được cái bi kịch của cả một xã hội. Sự tàn nhẫn, mông muội của cường quyền đẩy con người đến đường cùng không lối thoát. Và với hình thức hư cấu (thằng bé hóa thành tinh) Trạch Gầm muốn nhắc đến một điều, quả báo là có thực chăng:
 
“Từ cái lò này, trước khi các anh ra ba năm, có một đứa bé mới sanh bị quăng cháy trong lò. Con bé chồng đi bộ đội biệt tăm biệt tích, hiu hiu cùng bố chồng đơn chiếc tự dưng có bầu. Con bé bị hành lên xách xuống bởi ủy ban nhân dân, bởi hội phụ nữ toàn dân góa bụa, cứ muốn phăng cho biết ai là tác giả. Con bé cắn răng cho đến ngày sanh. Thằng bé vô tội cháy giữa mùa xuân. Con bé vào tù, người cha chồng phát điên, cửa lò vôi bị khép lại. Dân làng chẳng có người nào dám mò đến đây vì họ cho rằng thằng bé thành tinh mỗi năm vật vài tay già trong làng để trả thù cho mẹ nó. Chuyện đấy, tôi không hiểu tại sao các anh không bị thằng bé hành, có thể các anh là tù, là cái tận cùng của mạng số.”
 
* Con phố tha phương- lặng lẽ- u sầu.


“Con phố tha phương- lặng lẽ- u sầu” có lẽ là câu thơ buồn nhất của Trạch Gầm, khi đặt chân tới Mỹ. Và tôi cũng mượn nó để (làm tiêu đề) viết cho phần kết về ông. Nỗi u buồn đó, phải chăng nhà thơ không, hay chưa tìm được tiếng nói chung, một tâm hồn đồng cảm: “Đất Mỹ tự do, mà vẫn thấy buồn/ Mười mấy năm tù khổ thì có khổ/ Nhưng bạn bè cùng một nỗi nhớ thương”. Thật vậy, trước thực trạng lòng người chia năm xẻ bảy ngay trên mảnh đất tự do này, với phép hoán dụ, Trạch Gầm đã gửi cái chán chường ấy vào thi phẩm: Nói với bạn bè. Có thể nói, đây là một trong những bài thơ hay, và chân thực nhất của Trạch Gầm viết trong thời gian này. Nó đã được nhạc sĩ Nguyễn Văn Thành phổ thành ca khúc cùng tên:
 

“Tao bây giờ không tiền mua rượu uống

Mà vẫn say…say ngút với nỗi buồn

Nhìn thiên hạ tranh nhau quyền yêu nước

Mấy chục năm ròng – Nước vẫn tang thương”.

 
Với Trạch Gầm, thân phận người lính nơi chiến trường, hay nơi núi rừng Hoàng Liên Sơn, hoặc ở nước Mỹ tha phương thì vẫn áo đời tơi tả. Những câu hỏi tu từ trong thơ, dường như Trạch Gầm không tìm lời giải đáp. Song như “có nụ buồn” quặn xoắn trong lòng người vậy:
 

“Hốt vài nụ cười tha phương đất lạ

Có nụ buồn nào có tuổi không em

Anh vẫn là anh áo đời tơi tả

Xô mộng lưng trời… té ngả té nghiêng”

                                   (Nói cùng buồn)

 
Với thực trạng (thiên hạ tranh nhau quyền yêu nước) ấy, Trạch Gầm chỉ còn biết gửi hồn vào những trang thơ, rồi mở ra một lối đi riêng cho mình. Do vậy, ta có thể thấy, tình yêu quê hương và nỗi nhớ đồng đội vẫn thường trực trong ông: “Thêm một ngày lưu lạc/ Thao thức cùng Quê Hương/ Bạn bè còn bao đứa/ trắng đời giữa tuyết sương” (Nỗi nhớ không nguôi).
 
Tuy viết không nhiều, nhưng mảng thơ thời sự xã hội góp phần không nhỏ làm nên cái chất độc đáo Trạch Gầm.  Với thân đất khách, hồn nơi quê nhà, cho nên một sự kiện nhỏ xảy ra ở quê hương cũng làm cho ông day dứt. Lời cho Lê Thị Công Nhân là một bài thơ, hay một lời cảm phục, một sự phẫn nộ của Trạch Gầm, khi nghe tin cô bị bắt. Có thể nói, thơ thế sự của Trạch Gầm luôn đứng về phía lẽ phải, mang hơi ấm của sự đồng cảm đến với những con người cô đơn, bị trị. Tự do dân chủ là tư tưởng xuyên suốt trang viết của ông: “Người con gái ấy/ Đủ điều kiện, sống một mình an lạc/ Đã bỏ nụ cười vì nhìn thấy chung quanh/ Những khổ đau, những đày đọa, những bạo hành/ Bởi những kẻ/ Tự vỗ ngực xưng mình có công cùng đất nước”. Và ngòi bút ông chọc thẳng vào ung nhọt của xã hội, nhất là những kẻ bán rẻ Tổ quốc và lương tâm. Lời thơ dồn nén uất ức, nhưng thẳng thắn, với khẩu ngữ mang giọng điệu hài hước làm cho người đọc phải bật ra tiếng cười chua xót, và căm phẫn: “Ð.M. cho tao chửi mầy một tiếng/đất của cha, ông sao mầy hiến cho Tầu.”. Dù sức đã cùng, lực đã kiệt, và sống xa cả chục ngàn cây số, người lính Trạch Gầm vẫn nặng lòng với đất, quê hương. Do vậy, không chỉ dừng ở đó, Trạch Gầm truy vấn đến cùng trách nhiệm của người lính mang danh bộ đội nhân dân, mỗi khi đất nước có sóng gió, hiểm nguy:
 

“Là bộ đội nhân dân…

Sao mầy đi bảo vệ

Một lũ đầu trâu hút máu Đồng Bào

Một lũ đầu trâu hiến đất cho Tàu

Tác quái lộng hành… giam người Yêu Nước

Tổ Quốc lâm nguy sờ sờ trước mắt

Non nước đang cần Bộ đội Nhân Dân

Cần những thằng đã từng nặng lời thề thốt

Quyết tử để Tổ Quốc sống còn…”

                                     (Bộ đội nhân dân)

 
Có thể nói, thơ Trạch Gầm chân thực, và mộc mạc, dễ hiểu, không kén người đọc. Cho nên, từ tầng lớp trí thức cho đến bình dân đều đồng cảm yêu mến văn thơ của ông. Trên một trăm bài thơ của Trạch Gầm đã được mười sáu nhạc sỹ phổ nhạc, đã minh chứng cho điều đó. Mỗi bài thơ của ông là một trang nhật ký, một trang sử, hay một hoài niệm về một thời chinh chiến, và tù đày. Cũng như Phan Nhật Nam, hay Phạm Tín An Ninh… tôi nghĩ, cả cuộc đời Trạch Gầm không thể bước ra khỏi cuộc chiến này.
 
Tôi chưa từng gặp gỡ, và quen biết Trạch Gầm, đọc và viết về ông trong thời gian trên chục ngày, sau giờ làm việc. Do vậy, chắc chắn không thể đào bới hết, và còn nhiều sai sót về văn thơ Trạch Gầm. Nhân tháng Tư, tôi viết bài này như một lời tri ân đến bậc tiền bối vậy.
 
                                                                    Leipzig ngày 4-4-2022
                                                                             Đỗ Trường
 
Nguồn:
https://www.danchimviet.info/trach-gam-mot-giong-tho-doc-dao/04/2022/25854/

 

2022/02/06

Mùa Xuân Đầu Tiên


Trần Mạnh Hảo: Tác phẩm “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao từng bị “giết” như thế nào?

Nhạc sĩ Văn Cao (file photo) - SGN


Không đợi khi Xuân đến, Tết về như dịp này, chúng tôi mới nghe lại bản nhạc bất hủ “Mùa xuân đầu tiên” Văn Cao khởi viết cuối Tháng Mười Hai 1975, hoàn thành trong dịp Tết Bính Thìn năm 1976. Đây là bài hát có số phận đặc biệt nhất trong cuộc đời sáng tác của Văn Cao. Đây cũng là bài hát mang nhiều tâm trạng đối lập, hòa trộn nước với lửa: vui ít, buồn nhiều, mừng ít, tủi nhiều, hoan ca ít, bi ca nhiều, tha thiết ít, nghẹn ngào nhiều, bâng khuâng ít, đau đáu nhiều, tự sự ít, ai oán nhiều, mê say ít, thở than nhiều, cứng cỏi ít, run run nhiều, da diết ít, nỉ non nhiều, cười ít, khóc nhiều, sum họp ít, cô đơn nhiều, yêu thương ít, đau thương nhiều, gặp gỡ ít, bơ vơ nhiều…

Hầu như tất cả trạng thái tình cảm trái ngược nhau của con người đều có trong bản nhạc kỳ lạ này: ai vui hát lên thì nghe vui, ai buồn hát lên thấy buồn não ruột, ai đau khổ hát lên thấy một trời đau khổ, ai sầu thảm hát lên thấy cả một thế giới sầu thảm đang đồng cảm cùng mình… Nghe đi nghe lại bản nhạc này, ta thấy xuất hiện trong tâm trí mình rất nhiều tâm trạng không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt. Nếu bạn đã hoặc đang đi qua bể khổ trần gian, nghe bản nhạc “Mùa xuân đầu tiên” bạn sẽ cảm thương, nhờ nước mắt diễn đạt nỗi lòng mình.

Riêng lời bài hát đã là một bài thơ hay:

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về

Mùa bình thường mùa vui nay đã về

Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên

Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông

Một trưa nắng cho bao tâm hồn

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về

Người mẹ nhìn đàn con nay đã về

Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên

Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh

Niềm vui phút giây như đang long lanh

Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên

Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm

Từ đây người biết quê người

Từ đây người biết thương người

Từ đây người biết yêu người

Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về

Mùa bình thường, mùa vui nay đã về

Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu

Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông

Một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông

Rất nhiều chim én, nhiều nắng gió, có nước mắt vui gặp gỡ của đàn con nay đã về, có cuộc đời êm ấm… nhưng sao hình ảnh “khói bay trên sông, gà đang gáy trưa trên sông” lặp lại hai lần làm không gian của “Mùa xuân đầu tiên” xa xôi, bơ phờ thế, xao xác thế, hoang vắng thế, hiu quạnh thế, đơn độc có phần cô đơn thế? Chợt nhớ nỗi buồn thiếu quê hương của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu xưa, cũng một tiếng gà trưa Văn Cao nay, một khói sóng trên sông xa Văn Cao nay, u hoài khôn xiết: “Một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông”:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị,

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

(Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?

Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!)

Chợt nhớ Lưu Trọng Lư “thời con nai vàng ngơ ngác” với câu thơ tiền chiến xưa sao rất đồng cảm với nỗi vui não nùng Văn Cao nay: “Tiếng gà trưa xao xác não nùng”.



 

Bài hát như một điệu valse bằng nước mắt; sự thướt tha, quý phái của một giai điệu bi thương; sự sang trọng của ngậm ngùi, day dứt; sự lãng mạn của một phiêu linh, xô dạt; sự mê đắm của một vu vơ; sự đoan trang của cái đẹp lỡ thì; sự liêu trai của ngơ ngác, đìu hiu; sự dịu dàng của nỗi thương đau, xót nhớ…

Chừng như đã mấy chục năm chiến tranh liên miên chưa từng có Xuân về? Chừng như gần hết cả đời người bận chuyện đấu tranh giai cấp giành giật miếng ăn chưa từng thấy chim én báo Xuân? Chừng như đã rất lâu rồi sự căm thù trùm lên xã hội không còn ai biết thương người? Chừng như đã lâu lắm rồi ta tha hương trên chính quê hương mình? Chừng như suốt mấy cuộc chém giết kinh hoàng mạo danh cách mạng, không còn ai biết yêu con người? Chừng như mấy mươi năm rồi con người đã quên mình còn nước mắt? Chừng như lâu rồi tâm hồn người không được sưởi nắng mùa Xuân?

Và chừng như lâu lắm rồi Văn Cao quên không còn nhớ mình từng là nhạc sĩ lãng mạn đã có cả chục ca khúc vào hàng kiệt tác? Chừng như cây đàn piano cũ kỹ do Hội nhạc sĩ Việt Nam cho Văn Cao thuê mỗi tháng bảy đồng (thuê căn gác chật hẹp cũ kỹ 108 Yết Kiêu 15 đồng) đã bị thời gian phủ bụi đầy rêu mốc? Chừng như đôi tai Văn Cao đã bị súng đạn thời cuộc, sự hò hét xướng ca hò vè phục vụ chính trị một thời làm ù đặc, khi tất cả kiệt tác âm nhạc của ông đều bị chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc) cấm hát, trừ bài Quốc ca (kể cả thơ Văn Cao cũng bị cấm)?

Và chừng như toàn bộ vết thương cuộc đời Văn Cao, vết thương cuộc đời dân tộc, bỗng mượn ngón tay ông mà nhỏ xuống cây đàn piano những giọt nước mắt giai điệu, khiến những vết thương chợt mở miệng ca hát: “Mùa xuân đầu tiên”.

Chừng như nỗi niềm ngày 30 Tháng Tư 1975: “Có một triệu người Việt Nam vui thì cũng có một triệu người Việt Nam buồn” (lời ông cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã hiện ra nơi bài hát “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao? Trong bài hát ấy, kỳ lạ thay, tôi nghe có một nửa nước vui thắng trận trào nước mắt và một nửa nước buồn thua trận cũng trào nước mắt, chợt ôm chầm lấy nhau mà quằn quại, mà dằn vặt giằng xé nhau, cười khóc mếu máo bầm dập nhau, nên vui ấy sao buồn hiu hắt thế, lênh đênh phiêu bạt thế, nức nở nghẹn ngào thế?

Có lẽ, chính vì những điều trên mà kiệt tác “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao sau khi được báo Sài Gòn Giải Phóng in trước Tết Bính Thìn, ngày 1 Tháng Một 1976, được hát trên Đài Tiếng nói Việt Nam mấy lần, liền bị cấm suốt 24 năm (1976-2000)! Sinh thời, Văn Cao không được nghe, được nhìn thấy đứa con tinh thần lớn lao này của mình được trình diễn. Sau khi ông mất (1995) năm năm, “Mùa xuân đầu tiên” mới ra khỏi nhà tù kiểm duyệt của chế độ.

Xin quý bạn đọc hãy nghe nhà thơ, họa sĩ Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao kể sơ qua về sự ra đời của bài hát này:

“Sau khi bài “Tiến về Hà Nội” ra đời cuối năm 1949, bố bị đưa ra kiểm điểm và bị phê phán khắp nơi. Từ đó bố đã thề, sẽ không sáng tác ca khúc chính trị nữa… Nhưng rồi những năm tháng sau này đôi lúc hứng khởi bố vẫn sáng tác. Vẫn biết có sáng tác ra cũng chẳng được dàn dựng… Tôi còn lưu giữ được một số tác phẩm của ông sáng tác sau này nên tôi hiểu những điều ông nói. Giá như ông không bị rơi vào cái nạn “Nhân văn” và bị “vô hiệu hóa” mất 30 năm thì tôi chắc rằng ông sẽ còn sáng tác được thêm nhiều tác phẩm cho nền âm nhạc Việt Nam. Những ngày tháng sau đó, căn gác nhỏ nhà Văn Cao không lúc nào ngớt khách. Những khuôn mặt bừng sáng. Những nụ cười rạng rỡ. Những giọt nước mắt sung sướng bên những ly rượu tràn đầy và có cả những khuôn mặt, một thời không dám bước chân đến căn gác nhỏ này vì sợ “bị vỗ vai”. Văn Cao đã sáng tác xong ca khúc MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN vào đúng dịp tết Bính Thìn”.

(Trích bài “Văn Cao với ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Thao in trên Tạp chí Sông Hương số 179-180).

Văn Thao tiết lộ tiếp rằng, bài hát bị cấm ở Việt Nam nhưng bên Liên Xô người ta lại dịch sang tiếng Nga, phát trên Đài phát thanh Moscow:

“Nhưng cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng con đường nào), trong cái năm 1976 ấy, MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN đã được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100 rúp. Văn Cao phải viết giấy ủy quyền qua sứ quán để con gái ông đang học bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: ‘Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu”.

Nhạc sĩ Văn Cao dưới nét vẽ của họa sĩ Trần Thế Vĩnh


Qua tiết lộ trên của anh Văn Thao, con trưởng nhạc sĩ, thì nhà ông Văn Cao trên căn gác nhỏ 108 Yết Kiêu suốt một thời luôn luôn có công an ngầm canh gác, ai đến đều “bị vỗ vai” hỏi tên tuổi, xem đến nhà tên phản động “Nhân Văn” làm gì? Người viết bài này sau năm 1975 có lần đến thăm nhạc sĩ Văn Cao để cho ông mượn cuốn tiểu thuyết vĩ đại “Giờ thứ 25” của văn hào Romania Constantin Virgil Gheorghiu (1916-1992) mang ra từ Sài Gòn như đã hứa, cũng từng bị công an mật “vỗ vai” hỏi đi đâu? Bèn bảo: Đi phỏng vấn tác giả Quốc ca viết bài in báo cũng bị cấm à? Người “vỗ vai” hất đầu cộc lốc: “Vào đi”.

Người ta đã cầm giữ Văn Cao như một tù nhân lương tâm bị giam lỏng, một thứ nhà tù tại chỗ, nhà tù nhân dân kiểu xã hội chủ nghĩa. Rằng Văn Cao bị vô hiệu hóa suốt 30 năm vì tội Nhân Văn-Giai Phẩm. Rằng suốt 30 năm ấy, nhạc sĩ Văn Cao sống rất nghèo khổ, “bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu”.

Chúng ta lại được nghe người con trai thứ của nhạc sĩ Văn Cao, nhà thơ Nghiêm Bằng kể sơ qua về sự ra đời của “Mùa xuân đầu tiên”:

“Đó là một đêm vào giữa Tháng Mười Hai 1975. Chúng tôi đang sống với cha mẹ trong ngôi nhà số 108 Yết Kiêu. Mùa Đông, Hà Nội rét tê tái. Cha tôi đã từ lâu rồi không đàn. Vậy mà trong đêm ấy, tôi nghe có tiếng chân nhè nhẹ lần từng bước từ phòng trong ra gần chiếc đàn piano – đối diện với chiếc đivăng tôi đang ngủ. Một giai điệu khe khẽ vang lên, nó được đàn bởi một bàn tay phải. Cũng phải nói thêm là cha tôi đã đàn trên chiếc đàn vốn được Hội Nhạc sĩ Việt Nam cho thuê lại với giá bảy đồng rưỡi một tháng (lương tôi hồi đó là 63 đồng, còn tiền thuê nhà là 15 đồng); từ ngày kỷ niệm 30 năm Tiến quân ca (1974), chiếc đàn mới được tặng hẳn cho cha tôi thì cha lại rất ít có dịp dùng đến.

“Bài hát đã được báo Sài Gòn Giải Phóng số năm mới 1 Tháng Một 1976 in trang trọng ở bìa bốn và thu thanh ngay sau đó, được phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, nếu tôi không nhầm thì do ca sĩ Trần Khánh và đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam trình bày. Bài hát được phát khoảng mươi lần trong chừng một tháng (hồi ấy ca khúc được truyền bá chủ yếu qua sóng phát thanh), rồi không hiểu sao lặng lẽ chìm đi, như thể bị quên lãng. Như mọi lần, trong suốt mấy chục năm, cha không tỏ ra bực bội gì, chỉ hơi buồn thôi. Cha tôi nói chắc chắn bài hát sẽ có ngày được hát lại và mọi người sẽ yêu nó. Và như mọi lần, cha tôi lại đúng. Chỉ có điều lúc đó cha tôi không còn nữa. Khi bài hát lần đầu tiên được phát trên sóng truyền hình Việt Nam năm 2000, cha tôi đã mất được năm năm”

(nhà thơ Nghiêm Bằng-Thu Hà ghi).

2022/01/29

Từ Văn Trường

LIỄN DÁN... CHUỒNG HEO

            Ngày xưa, không có những quảng cáo bắt mắt và hấp dẫn như hiện nay của các nhà làm thương mại. Quảng cáo ngày xưa là cái BẢNG HIỆU, cái thương hiệu của hiệu tiệm của mình. Đôi câu đối dán hai bên cửa tiệm cũng có tác dụng quảng cáo rất mạnh mẽ để  "câu" khách.  Xin kể hầu độc giả các chuyện vui dưới đây có tác dụng rất lớn đối với các business....
           Như chúng ta đã biết, Lục Thư để hình thành tiếng Hán cổ xưa là Tượng Hình, Chỉ Sự, Hội Ý, Hài Thanh, Chuyển Chú, và Giả Tá.  Bỏ qua 5 cái đầu ta chỉ nói đến GIẢ TÁ 假借 mà thôi.
           GIẢ là trái với THẬT, là Làm bộ. TÁ là Mượn, là Nương nhờ. GIẢ TÁ là Làm bộ mượn, có nghĩa MƯỢN TẠM để mà XÀI... luôn! Ví dụ :

      ĐẠO 道 là Con Đường, như Đạo lộ là đường lộ. Mượn Ý nầy để chỉ...
       ĐẠO là ĐẠO GIÁO: Con đường tín ngưỡng mà mọi người đi theo.
       ĐẠO là NÓI RẰNG, như Văn Đạo là Nghe nói rằng. Mở đầu Đạo Đức Kinh của Lão Tử là câu "ĐẠO khả ĐẠO phi thường ĐẠO " Có nghĩa: Cái ĐẠO mà có thể THUYẾT GIẢNG được thì không phải là cái ĐẠO thường.

      Chữ 少 Khi đọc là THIỂU thì có nghĩa là ÍT. Thiểu Số là Số ít.  Đa Thiểu là It Nhiều, là Bao nhiêu?
            Khi đọc là THIẾU thì có nghĩa là TRẺ  như Thiếu niên, Thiếu phụ.
            ...V.V... V.V...
      Bây giờ ta nói đến một chữ Giả Tá đặc biệt khác có bộ XÍCH 彳(nghĩa là Bước chân trái ) ở bên trái, và chữ XÁCH 亍 (Bước chân phải) ở bên phải, đó chính là chữ HÀNH 行 (Bước chân trái 1 cái, bước chân phải 1 cái) nên HÀNH có nghĩa là ĐI.
           HÀNH 行 : Ngoài nghĩa ĐI ĐỨNG ra, Hành còn có nghĩa là LÀM: HÀNH ĐỘNG, mà việc làm thì biểu hiện tánh tình và bản chất của con người, nên HÀNH còn được đọc là...       
           HẠNH: là Phẩm Hạnh, chỉ phẩm chất đạo đức của một con người: "Nhân sanh bách HẠNH hiếu vi tiên" chính là chữ HẠNH nầy.  Kết hợp Hành động và Phẩm hạnh chữ HÀNH còn được đọc là...
           HÀNG : là Ngành Nghề. Cải HÀNG 改行 là Đổi Nghề. Ta có thành ngữ : HÀNG HÀNG XUẤT TRẠNG NGUYÊN: Có nghĩa là Bất cứ ngành nghề nào cũng đều có Trạng Nguyên của ngành nghề đó cả. Ý muốn nói: Bất cứ nghề nào cũng có thể phát triển và làm giàu lớn được cả!  Nghĩa phát sinh của âm đọc nầy là...
          NGÂN HÀNG 銀行: là Cái Tiệm, Cái Hảng chuyên kinh doanh Tiền bạc.  HÀNG QUÁN cũng là chữ HÀNG nầy.  Vì là chỗ Kinh Doanh nên còn được đọc là ...
       HẢNG: như TỬU HẢNG 酒行: là cái Hảng Rượu.  Hảng Xưởng là chữ HẢNG nầy.  Cuối cùng...
       HÀNH : còn là một thể loại Văn Học chỉ các bài thơ Trường Thiên như: TÌ BÀ HÀNH của Bạch Cư Dị, TÒNG QUÂN HÀNH của LÝ Cần, LỆ NHÂN HÀNH của Đỗ Phủ....
       HÀNH là chữ tiêu biểu cho câu nói của ông bà ta xưa kia thường nhắn nhủ là: Nhất tự lục nghì (Một chữ mà có tới 6 nghĩa!)

       Trở lại với tác dụng QUẢNG CÁO của Bảng Hiệu.  Một công ty ở Hồng Kông đã để tên Bảng Hiệu như thế nầy: 行 行 行 thu hút không ít khách hàng ghé lại xem Công Ty của ông ta kinh doanh cái gì và tên của bảng hiệu phải đọc như thế nào, làm cho business của ông ta trở nên vô cùng bận rộn và phát triển... Thì ra ông ta đang chơi trò Giả Tá, 3 chữ 行 行 行 đọc là  HẠNH HÀNH HẢNG, tức là cái Hảng có tên là Hạnh Hành, thế thôi!

       Lại một bảng hiệu khác do Từ Văn Trường viết cũng thu hút rất nhiều khách cho cửa tiệm 

 TỪ VĂN TRƯỜNG (1521-1593) tên là VỊ, tự là Văn Trường, sanh năm Chánh Đức thứ 16 đời nhà Minh.  Người đất Sơn Âm (Thiệu Hưng ngày nay), lớn lên trong một gia đình quí tộc đang hồi xuống dốc. 6 tuổi đã đi học, nổi tiếng là THẦN ĐỒNG, 20 tuổi đậu Tú Tài, là một nhà văn, nhà thơ, nhà thư pháp và là một họa sư nổi tiếng ở cuối đời Minh đầu đời Thanh.
         Ông là người phóng khoáng, không chịu gò bó vào khuông phép, nên thi hoài 8 khoa mà vẫn không đậu Cử Nhân giống như Trần Tế Xương của ta: "Tám khoa chưa khỏi phạm trường qui!"  Tài hoa thì có thừa, nên hay dùng văn thơ châm biếm người đời, bởn cợt kẻ quyền thế, rất được giới bình dân hâm mộ giống như là Trạng QUỲNH của ta vậy!  
         Từ Văn Trường văn hay chữ tốt nổi tiếng trong vùng, nên một hôm, có người đến nhờ ông viết dùm bảng hiệu "Tỉm Xấm" bán đồ điểm tâm. 3 chữ " ĐIỂM TÂM ĐIẾM 點心店 vừa treo lên thì người ra vào ăn điểm tâm nườm nượp suốt cả tháng trời, ông chủ tiệm cười híp cả mắt, mặc sức hốt bạc... Nhưng có một điều hết sức ngạc nhiên là thực khách nào ăn xong khi đến tính tiền đều nói với chủ tiệm là : " Ông ơi, 3 chữ ĐIỂM TÂM ĐIẾM 點心店 của ông, chữ TÂM sao viết thiếu mất một chấm ở giữa?!"  Như ta đã biết, hình dạng chữ TÂM được Cụ NGUYỄN DU diễn tả lúc cô Kiều nhớ Thúc Kì Tâm (Thúc Sinh) là :

                   Đêm thu gió lọt song đào,
    Nửa vành TRĂNG KHUYẾT BA SAO giữa trời.

        Chữ 心 có hình dạng như Nửa Vành Trăng Khuyết và 3 vì sao, 2 cái 2 bên, 1 cái ở giữa, nhè Từ Văn Trường không có chấm cái chấm ở giữa. Ông chủ tiệm là dân thị tứ đâu có biết gì là chữ nghĩa, nghe mọi người đều nói vậy nên tìm Từ Văn Trường để nhờ anh ta chấm thêm cho một chấm.  Nhưng sau khi chấm xong chấm đó, thì suốt cả tháng trời buôn bán ế ẩm. Ông chủ quán lại gặp Từ Văn Trường than thở rằng, từ khi chấm cái chấm đó xong thì buôn bán không còn như trước nữa. Từ Văn Trường cười bảo ông ta rằng: "Chữ TÂM là cái lòng, cái bụng, bụng có trống thì người ta mới ghé lại mà ĐIỂM Tâm, nay đã chấm thêm một chấm là bụng đã no rồi, không cần phải ĐIỂM TÂM nữa, ế là phải!"  Ông chủ mới té ngữa ra, bây giờ muốn xóa chấm đó đi thì đã không còn được nữa rồi!
          Sự thật thì Từ Văn Trường chỉ lợi dụng cái tâm lí hiếu kì và hiếu sự của quần chúng để "câu  khách" cho tiệm.  Ai trông thấy chữ Tâm thiếu mất một chấm đều "ngứa ngáy" muốn nói cho chủ quán biết, sẵn đã vào tiệm nên ăn điểm tâm luôn mà thôi! 
           Trở lại với Giả Tá. Chữ TRƯỜNG có nghĩa là DÀI, như Trường Thành, Trường Giang, Trường Sơn... Nhưng khi mượn đọc là TRƯỞNG thì có nghĩa là LỚN như Gia Trưởng, Huynh Trưởng, Trưởng thành....
            Tên của Từ Văn Trường cũng vậy, người Quảng Đông thì đọc là Từ Văn Trường, nhưng người Tiều Châu thì lại đọc thành Từ Văn Trưởng! Lại chuyện của Từ Văn Trưởng đây...
           Một hôm gần Tết, Từ Văn Trường thả bộ ra chợ xem bà con nhóm chợ Tết, gặp một Thầy Đồ là một lão Tú Tài già đang bày hàng viết Liễn. Tính rắn mắt nổi lên muốn ghẹo chơi cho vui, Từ Văn Trường xề tới cất tiếng hỏi :
      - Thưa Thầy, Thầy viết liễn có nghĩa là Liễn gì Thầy cũng viết được hết phải không?  Nghe hỏi lạ, ông đồ già nhướng mắt lên thấy Từ Văn Trường, biết là chàng trai nầy định phá mình đây, bèn trả lời rất tự tin :
      - Dĩ nhiên, cậu muốn viết liễn gì ?
      - Liễn dán chuồng heo!  Sau giây phút sựng lại vì ngạc nhiên, ông đồ bèn ra giá :
      - Một lạng bạc! Từ Văn Trường vui vẻ:
      - Không thành vấn đề, nhưng liễn phải hay và có Ý nghĩa mới được cụ nhé!
        Thường các Lão Tú Tài nầy tiếng Việt ta gọi là TÚ MỀN rất giỏi chữ nghĩa và già giặn kinh nghiệm. Ông đồ bình tĩnh lặng lẽ đưa những nét bút thiệt đẹp như rồng bay phượng múa lên 2 tờ giấy hồng đơn đã rọc sẵn.  Bây giờ tới phiên Từ Văn Trường ngạc nhiên, vì trên 2 tờ giấy hồng đơn mỗi bên  7 chữ, tổng cộng là 14 chữ TRƯỜNG thật đẹp. Biết ông thầy đồ già muốn "chơi" mình, anh ta cũng rất bình tĩnh và lễ phép:
     - Thưa thầy, nhờ thầy đọc và cắt nghĩa dùm ạ!  Ông thầy đồ dõng dạc cất giọng:
     - Trường trường trưởng trưởng trường trường trưởng. Trưởng trưởng trường trường trưởng trưởng trường!  Nuôi heo, anh mong được gì nào? Heo mau dài mau lớn phải không? Thì đây đôi liễn nầy có nghĩa :

                         DÀI DÀI LỚN LỚN DÀI DÀI LỚN,
                         LỚN LỚN DÀI DÀI LỚN LỚN DÀI !

      Chuyên chọc phá thiên hạ, lần nầy bị Tổ trác, liễn dán chuồng heo là câu đối 14 chữ đều là tên của mình cả, lại phải nhăn mặt móc hầu bao trả cho ông thầy đồ một lạng bạc, thế mới đau!

      Cho hay, chuyện đời có lúc "Kiến ăn cá", nhưng cũng lắm khi kiến té xuống nước thì "Cá cũng ăn kiến" như thường!

Đỗ Chiêu Đức

2021/08/05

 


NHỮNG ĐIỀU CHƯA ĐƯỢC KỂ VỀ NGUYỄN TẤT NHIÊN***

Ngày 3 Tháng Tám, năm 1992, tại sân sau của một ngôi chùa ngỏ nằm gần đường Brookhurst, Orange County, California, thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên “BIẾN”(1) khỏi “trần gian hệ luỵ”(2) ngay trong chiếc xe hơi cũ, cũng là “ngôi nhà di động” của ông trong những năm cuối đời. 29 năm sau, thơ của Nguyễn Tất Nhiên và những tình khúc được phổ từ thơ của ông vẫn là những tuyệt tình ca bất hủ.

***

Một gã ‘ngông’ làm thơ, viết nhạc, hát cải lương

Năm 1971, tạp chí Sáng Tạo của cố nhà văn Mai Thảo xuất hiện những vần thơ của một người tự cho mình là “kẻ hoang đàng”, “tên vô đạo”, “bất tín đồ trong tình yêu” – Nguyễn Tất Nhiên. Ngay sau đó, lời thơ Nguyễn Tất Nhiên với ý tưởng và những hình ảnh độc đáo, hư hư thật thật, những thú nhận “ngông cuồng” mà rất nồng nhiệt, đã đi vào nhạc của Phạm Duy, Nguyễn Đức Quang, Anh Bằng, trở thành một hiện tượng trong làng thơ và nhạc Việt Nam thời kỳ bấy giờ.

                  Ảnh phải: tranh chân dung nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên của hoạ sĩ Trần Thế Vĩnh

Có thể nói, cho đến bây giờ, hiếm có ai dành cho người yêu của mình những tên gọi đẹp, thánh thiện như Nguyễn Tất Nhiên đã từng. Đặc biệt, cái đẹp và thánh thiện ấy càng được tôn vinh hơn gấp vạn lần khi ông đem chính mình ra làm vật thể so sánh. Ông tự gọi mình là một “người bệnh hoạn,” một “kẻ nhiều sám hối,” một “tên vô đạo.” Riêng bạn bè, thân hữu, chẳng ai ngại ngùng gì khi gọi Nguyễn Tất Nhiên là “kẻ ngông cuồng” hay “một người điên” hoặc một gã “bất cần đời.”

Gọi thế nào cũng đúng, vì: “Ảnh có máu điên, mà cũng có máu ngông. Ảnh ‘điên’ lắm” – nhạc sĩ Trúc Hồ đã nói thế, “Người làm nghệ thuật nào cũng có ‘máu điên’ trong người, không nhiều thì ít”. Và với Nguyễn Tất Nhiên, thì không chỉ điên, ngông, ông còn là một kẻ bất cần đời, coi thường thị phi trong thiên hạ. Những giá trị chung bình thường của xã hội mà một con người bình thường luôn hướng tới thì với Nguyễn Tất Nhiên không phải là điều cần thiết.


Thủ bút của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên viết tặng nhiếp ảnh gia Thái Đắc Nhã. (Ảnh: Thái Đắc Nhã)

Cố nhạc sĩ Phạm Duy từng viết trong tuỳ bút của ông: “Đi qua đời tôi có khá nhiều thi nhân thuộc nhiều thế hệ, đa số đều như tôi, đều khá hồn nhiên, nghĩa là có tí máu điên. Nhưng trong làng thơ Việt Nam, có ba nhà thơ hồn nhiên nhất, đó là Nguyễn Ngu Ý, Bùi Giáng, và Nguyễn Tất Nhiên… Cả  ba vị đều đã từng là thượng khách của Dưỡng trí Viện Biên Hòa, nơi tôi đã có lần đến thăm một trong ba vị đó”.

Nếu từng ở Dưỡng trí Viện Biên Hòa, thì… không thể là người tỉnh táo. Nhưng, chính cố nhạc sĩ Phạm Duy cũng nhẹ nhàng gọi đó là cái “HỒN NHIÊN” của Nguyễn Tất Nhiên.

Nguyễn Tất Nhiên có rất nhiều bằng hữu. Đi đến đâu, ông cũng có bạn. Đi đến đâu ông cũng có người quí mến. Nguyễn Tất Nhiên có thể ngồi hàng giờ hàn huyên với bè bạn, đúng nghĩa cuộc đời rong chơi, không cần biết ngày mai sẽ ra sao.

 

             Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên (phải) và nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm. (Ảnh: Thái Đắc Nhã)

Vậy, giá trị mà Nguyễn Tất Nhiên định ra và tìm đến trong cõi nhân sinh này là gì? Là thơ? Là tình yêu? Là cái đẹp vĩnh cửu? Câu trả lời: “Không có mục đích gì cả!”.

“Nguyễn Tất Nhiên sống thả nổi như bèo trôi sông, tới đâu hay tới đó, không có mục đích, không có chương trình gì cả” –nhạc sĩ Nguyễn Hữu Nghĩa, đang định cư ở Canada, thầy dạy âm nhạc cho Nguyễn Tất Nhiên (từ sau Tháng Tư, năm 1975 đến Tháng Tư, năm 1979) nói về người học trò yểu mệnh của mình. Ông cũng là người hiếm hoi, nếu không muốn nói là duy nhất, không dùng từ “điên” khi nhắc về Nguyễn Tất Nhiên.

“Tôi không bao giờ thấy Nguyễn Tất Nhiên điên. Tôi chỉ thấy ông ấy là người sống kiểu bạt mạng và bi quan. Với Nguyễn Tất Nhiên, tôi không thấy một nét lạc quan nào, ngay cả lúc ông ấy cười”, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Nghĩa nói.

Những năm sau biến cố 30 Tháng Tư, Nguyễn Tất Nhiên tìm đến nhạc sĩ Nguyễn Hữu Nghĩa ở Sài Gòn để học nhạc. Ông học guitar, hoà âm và sáng tác ca khúc. Thời gian đó, cuộc sống ở miền Nam chật vật. Người Sài Gòn chạy ăn từng bữa, nhiều người làm lụng, dành dụm để “tìm đường ra đi”.

“Nguyễn Tất Nhiên là một người ham học. Ông ấy từ Biên Hoà chạy xe ra Sài Gòn, ở lại nhà tôi để học. Sáng tôi đi làm thì ông ấy ở nhà ôn bài, làm bài. Mỗi lần đến học là ở lại 3, 4 ngày. Cách hai tuần đến học một lần”, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Nghĩa kể lại. Ca khúc “Chiều trên đường Hồng Thập Tự” ra đời trong thời gian này, là một “bài tập” về hoà âm và sáng tác của Nguyễn Tất Nhiên.

Vì sao Nguyễn Tất Nhiên không phổ nhạc những bài thơ tình của mình từng làm điên đảo giới sinh viên học sinh Sài Gòn thời ấy? Ông có “phán” một câu rằng:“Có bài nào hay người ta phổ nhạc mất tiêu, không chừa lại tác giả (thơ) bài nào!”.

Thế nên, sau khi định cư ở Mỹ, trong những lần ngẫu hứng, Nguyễn Tất Nhiên đã sáng tác “lại” các bài bát nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ thơ của ông như “Em hiền như Ma soeur” hoặc “Hai năm tình lận đận” qua thể loại… cải lương!

Cái “ngông” của Nguyễn Tất Nhiên là thế. Ông thích đến học nhạc, thì “lù lù” đến. Ai hỏi “Khi nào về?”, ông trả lời: “Khi nào nhạc gia đuổi thì về”. “Nhạc gia” nghĩa là “người chơi nhạc”, là cách ông gọi nhạc sĩ Nguyễn Hữu Nghĩa, người lớn hơn ông một tuổi, đang dạy nhạc cho ông.

Nguyễn Tất Nhiên chỉ làm những gì mình thích. Ông bước qua những định hình, chuẩn mực, khuôn thước… một cách thản nhiên. Ông vô tư trả lời câu hỏi “Muốn học nhiếp ảnh à?” của nhiếp ảnh gia nổi tiếng Trần Cao Lĩnh bằng việc đưa ra cuốn sách dạy chụp ảnh “How to take a good picture?” (do hãng Kodak phát hành) và nói: “Có sư phụ nhiếp ảnh đây rồi!”.

Cuốn sách đó là món quà của nhiếp ảnh gia Thái Đắc Nhã tặng cho Nguyễn Tất Nhiên khi biết chàng thi sĩ rất muốn học chụp ảnh.

Một gã bi quan ‘sống với chữ thay vì sống với đời’

Lúc nào trong đầu ông cũng có chữ, đùa với chữ, xâu xé và khổ đau với chữ. Cái tài của Nguyễn Tất Nhiên chính là, cho dù trong tình huống nào ông cũng chỉ ghép chữ lại với nhau đúng với cảm xúc của mình, chứ không đẽo gọt, trau chuốt ngôn từ. Ngôn từ trong thơ ông hồn nhiên và giản dị. Giản dị đến cay nghiệt. 

“Em hiền như Ma soeur/ Vết thương ta bốn mùa/ Trái tim ta làm mủ/ Ma soeur này Ma soeur/…” (Em hiền như Ma soeur)

Hay

“Thà như giọt mưa/Vỡ trên tượng đá/Thà như giọt mưa/Khô trên tượng đá/…” (Thà như giọt mưa)

 

Ai mà chẳng từng nhìn thấy giọt mưa, ai mà chẳng biết tượng đá. Nhưng để thấy trọn vẹn một giọt mưa vỡ toang trên tượng đá, chỉ có thể là Nguyễn Tất Nhiên. Tượng đá, một vật thể vô hồn, vững chắc, ngàn năm. Giọt mưa chọn tượng đá để làm điểm rơi, để rồi vỡ toang…

Phía sau cách ghép chữ đơn giản ấy phải là một ý nghĩa sâu sa, thâm thuý vô cùng. Nhạc sĩ Trúc Hồ tự nhận rằng, ca từ trong các sáng tác của ông ảnh hưởng khá nhiều bởi ngôn ngữ thơ của Nguyễn Tất Nhiên. Ông nói: “Cách dùng từ của Nguyễn Tất Nhiên rất giản dị nhưng rất thơ, không bóng bảy, trau chuốt, không cần đi đâu lung tung xa vời. Ông ấy ghép chữ rất tài tình, đơn giản là ‘Em hiền như Ma soeur’ thôi nhưng làm cho mình cảm thấy vô cùng thánh thiện và trong sạch”.

Trong thơ của Nguyễn Tất Nhiên, vạn vật trên mặt đất đều được kết nối với nhau rất “hồn nhiên” và rất nhẹ nhàng.

“Trời mưa không lớn lắm/ Nhưng vẫn ướt đôi đầu/ Tình yêu không đáng lắm/ Nhưng đủ làm… tiêu nhau.” (Thơ khởi tự điên cuồng).

Như nhạc sĩ Trúc Hồ đã nói, ngôn từ trong thơ của Nguyễn Tất Nhiên đơn giản vô cùng, đơn giản như người ta “đang nói chuyện với nhau.” Với Nguyễn Tất Nhiên, “chữ” là hơi thở để sống. “Chữ” là cách để ông tỏ tình. “Chữ” cũng là phương tiện để ông giải thoát hờn giận của một cuộc tình hay những u uẩn, ngột ngạt trong cõi trần gian. Ông có thể so sánh người tình của mình “hiền như Ma soeur” nhưng rồi cũng sẵn sàng ví người tình là một “ác quỷ đầy quyền năng”.

Cho đến khi, chữ hiển hiện quá nhiều trong tư tưởng, nhưng lại không thể liên kết với nhau thành thi ca, thì “tên hoang đạo” và “người bệnh hoạn” trong Nguyễn Tất Nhiên vùng dậy.

“Cái điên của Nhiên xuất phát từ sự vùng vẫy trong tư tưởng. Cuộc sống bình thường thì không màng tới, không lo tới, nhưng tư tưởng thì bùng phát rất mạnh trong đầu Nhiên. Sự bùng phát đó quá lớn mà Nhiên không viết ra được như đã từng viết khi còn ở Việt Nam. Ẩn ức đó dẫn đến tâm trạng của người thất chí”, nhiếp ảnh gia Thái Đắc Nhã nói về những ngày tháng trước khi Nguyễn Tất Nhiên “khép mắt sớm hơn giờ thiên định”. (3)

Nguyễn Tất Nhiên đã chọn một nơi chốn khác để tiếp tục với sự “hồn nhiên” của mình. Có thể nơi đó ông không cần phải hô biến đi cái buồn đã từng ngự trị trong ông, không phải nghe những tiếng ồn ào xô bồ vọng về từ một tâm thức nào đó. Nơi ấy, ông sẽ được thảnh thơi “hồn nhiên” làm tên “vô đạo” hay hoá thành giọt mưa rơi phủ trên cây thánh giá huy hoàng vĩnh viễn.

Kalynh Ngô

https://saigonnhonews.com/tacgia/kalynh-ngo/

4 tháng 8, 2021

 ***

Bài tưởng nhớ 29 năm ngày mất của cố thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên được thực hiện qua lời kể lại của những người bạn của ông: Nhạc sĩ Trúc Hồ, Nhiếp ảnh gia Thái Đắc Nhã, Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Nghĩa (Canada) và bà Lê Minh Phú (Nhật báo Người Việt)

Trong bài viết có sử dụng những tấm ảnh chưa từng được công bố do nhiếp ảnh gia Thái Đắc Nhã cung cấp.

(1): Trích từ những câu thơ: Tôi hô biến cái tôi buồn/ Tôi hô biến nỗi thuồng luồng đời tôi/ Tôi hô biến vợ/ Tôi hô biến con/ Tôi hô biến nỗi đói/ Tôi hô biến nỗi buồn/ Tôi hô cái nào, biến cái nào thì nó hiện lên cái đó.

(2): Trích trong lời giới thiệu do nhà thơ tự viết và diễn đọc trong băng nhạc Tình Khúc Nguyễn Tất Nhiên thực hiện sau năm 1975.

(3): Trích bài thơ “Giữa trần gian tuyệt vọng”.

 

2021/07/28

 THƠ BA DÒNG, NHƯ MỘT HỐ ĐEN MỸ HỌC

205919584_2839680046343733_4951629230172485542_n

Thơ ba dòng, của Nguyễn Hưng Quốc, đầu tiên, là một cái hố đen căng cứng áp lực trên khía cạnh mỹ học. Nén chặt với những ám ảnh thẩm mỹ về thơ, nó, trước tiên, là sự nén chặt của những ám ảnh Ngôi Lời và, do đó, nuốt gọn những gì từng dính dáng đến Ngôi Lời, từ những ám ảnh thi ca, ám ảnh lịch sử, ám ảnh siêu hình đến ám ảnh dục tình.

“Hố đen”, trong vũ trụ, là cái còn lại của những tinh tú từng rất rực rỡ mà, ít nhất, về khối lượng, phải gấp hai mươi lần Mặt Trời. Cháy hết mình, không còn gì để cháy bằng phản ứng nhiệt hạch, nó bị vướng vào cái bẫy hấp lực của chính mình, tự sụp đổ để từ đó hút và hấp thục mọi thứ vật chất kể cả ánh sáng, nếu lọt vào Event Hoziron, phạm vi của bán kính không thể cưỡng lại. Hút mãi, hút đến khi ứ đầy năng lượng thì hố đen lại bùng nổ, với năng lượng của ngàn tỷ quả bom nguyên tử.

Thơ ba dòng là một thứ “hố đen” trong vũ trụ thơ. Đó là thứ “thơ còn lại” sau khi thiêu rụi những rườm rà, những quy cách, những lối mòn của những đường lối thơ đã trở nên chán ngắt mà, trong đó, nổi bật nhất, là sự mượt mà du dương của chủ nghĩa lãng mạn. Thơ ba dòng, do đó, là thơ để nghĩ hơn là để ngân nga như những nhạc điệu êm tai và, trong tương tác với người đọc, như là một thứ thơ đã nén chặt, nó sẽ bùng nổ theo những liên tưởng và suy tưởng không ngờ.

Để là hố đen, thì đầu tiên phải cháy bùng, phải đốt, gấp hai mươi lần Mặt Trời. Thơ ba dòng là sự tuyên chiến, sự thiêu rụi chưa từng thấy với những hình ảnh tưởng là bất tử của dòng thơ lãng mạn, là án chém với trăng êm, gió nhẹ, là cuộc hành quyết với thiên nhiên hoa cỏ mượt mà:

Có những nhà thơ bị vỡ nợ

Vì mãi đầu tư vào

Ánh trăng

(519)


Hay:

Mùa thu bị các nhà thơ lãng mạn cầm tù

Nó vùng vẫy

Làm rụng mất cả vừng trăng

(879)

Nghĩa là sự tuyên chiến với ái tình sực nức ánh trăng:

Bao nhiêu mối tình chân thực

Bị chết ngộp

Bởi những vần thơ du dương

(827)

Vì sao?

Thơ chỉ là cô điếm già

Đứng ngắm trăng

Trong lúc chờ khách

(187)

Thứ thơ pha chế bằng công thức của lối mòn:

Hắn gí mắt vào máy vi tính

Viết bài thơ tình trăng rằm

Mặc kệ ngoài trời mưa rơi

(875)

Đốt cháy tinh thần lãng mạn thì thơ còn lại cái gì?

Thơ, đầu tiên, và ở mức tận cùng nhất, là chữ, như là ám ảnh Ngôi Lời:


Không có gì cao hơn ngôn ngữ

Tôi chỉ tin một Thượng Đế:

Ngôi lời

(791)

Con người không thể thoát khỏi ngôn ngữ

Ngay cả sự im lặng

Cũng là dấu phẩy

(602)

Ngôn ngữ gồm nói và im lặng

Ngay cả sự im lặng cũng có

Ngữ pháp

(355)


Bài thơ không có gì ngoài chữ

Chữ giao cấu với chữ

Đẻ ra nhà thơ

(54)


Tài sản lớn nhất của nhà thơ là ngôn ngữ

Toàn bộ tâm hồn hắn ở đó

Ở những chữ biết múa và hát

(357)

Tất cả các chữ đều là nạ dòng

Nhà thơ mang lại

Trinh tiết

(69)

Thơ làm mới ngôn ngữ

Ngôn ngữ làm mới cái nhìn

Cái nhìn làm mới con người

(70)

Bài thơ biết bí mật của tình yêu

Nhưng nó không biết bí mật của chữ

Chữ trả thù: bài thơ chết non

(50)

Đã bị các nhà lãng mạn chủ nghĩa rẻ rúng, chữ còn bị hành hạ, tra tấn bởi các nhà chính trị giáo điều, độc đoán:

Dưới những chế độ độc tài

Chữ bị tra tấn đến tàn phế

Phải đi bằng nạng

(306)

Và bị lạm dụng như một vũ khí:

Chúng ta có quá nhiều chữ

Chữ bị lạm dụng

Kể cả để giết người

(59)

Nghĩa là chữ đã bị làm nhục:

Các nhà chính trị như Mã Giám Sinh

Biến mọi chữ đẹp

Thành đĩ

(262)

Những kẻ làm băng hoại ngôn ngữ ấy là hạng thủ dâm chính trị:

Ở đó, người ta xây dựng nhiều tượng đài thật nguy nga

Rồi đứng xếp hàng

Thủ dâm

(217)

Chính vì thế, ám ảnh thẩm mỹ này còn lồng vào thân mình những ám ảnh lịch sử:

Nguyễn Trãi cầm cái đầu bị chém

Đọc thơ sang sảng

Suốt cả sáu thế kỷ

(358)

Với Nguyễn Trãi, nếu tác phẩm vượt qua số phận của tác giả thì, chính những nhà thơ hôm nay, phải nhìn lại tư cách của mình:


Đừng khóc Cao Bá Quát

Hãy thương cho mình

Những thế hệ bị cụt đầu

(359)

Nghĩa là họ phải biết nói “Không”:

Bước ngoặc lớn nhất trong lịch sử

Là khi con người biết nói

“Không!”

(666)

Lịch sử nào cũng bắt đầu từ sự phủ định. Lịch sử của một nhà tư tưởng bắt đầu khi hắn nói không với nền giáo dục đã giúp mình trưởng thành. Lịch sử của đất nước chuyển mình khi một nhà lãnh đạo nói không với truyền thống hằng trói buộc. Và cả thế đứng của một quốc gia cũng lớn lên khi nói Không với thế lực chèn ép mình.

Phải nói không để những kẻ nuôi tham vọng làm lịch sử phân trần, nói lại:

Lịch sử nào

Cũng đầy

Tái bút

(176)

Lồng trong ám ảnh lịch sử là ám ảnh lưu vong, nhưng ám ảnh lưu vong, đầu tiên, lại là ám ảnh ngôn ngữ:

Ngôn ngữ của người lưu vong

Lúc nào cũng ở thì

Quá khứ

( 387)

“Quá khứ” là gì? Nó là điểm “đến” của dòng chảy ngược, nơi mà sự “đến” cũng hàm ý sự “về”:

Tôi đi khắp thế giới

Đều thấy

Những dòng sông chảy ngược về nguồn

(106)

Và vì thế, dẫu có vùng vẫy bằng 72 phép thần thông, những con sông kia không thể thẳng thớn dòng xuôi:

Đất nước như bàn tay Đức Phật

Những Tề Thiên Đại Thánh ra đi, đi mãi

Vẫn không thoát

(238 )

Đức Phật còn hiện diện như là một phần trong những ám ảnh siêu hình:

Loài người rợn ngợp trước cái Vô Hình

Cần chỗ vịn

Dù chỉ một cây nhang

(36)

Nhưng đó là một chỗ vịn tuyệt vọng:

Con người gào to. Như tiếng chó tru

Tất cả đều im lìm

Chúa và Phật đều đã chết

(92)

Chết hết nên, những gì diễn ra, hoàn toàn không giống với những điều răn và những hứa hẹn trong các thánh thư:

Nhắm mắt trước nỗi thống khổ của nhân loại

Bịt tai trước tiếng kinh cầu

Thượng Đế cũng nói láo

(96)

Tại sao vậy? Vì thế giới luôn là bằng chứng cho sự hiện diện của ma quỷ, dù đó chỉ là một khái niệm, trong tưởng tượng:

Tôi tin vào ma quỷ: Đó là một trong những

Phát minh thú vị nhất

Của nhân loại

(542)

Bởi thế nên, thôi thì, đành, từ giã cuộc chơi:

Thượng Đế thích chơi trốn kiếm

Tôi quyết định

Bỏ cuộc

(336)

Như thế, phải chăng con người là nhầm lẫn của Thượng Đế:

Mỗi đời người là một phác thảo của Thượng Đế

Tiếc

Phần lớn đều vụng về

( 194)

Nên mới có sự Chết:

Khi phát hiện việc sáng tạo loài người là một lầm lẫn

Thượng Đế bèn nghĩ ra

Cái chết

(668)

Và như thế, Thượng Đế trở thành một tội đồ:

Không có tôn giáo nào có thể

Giải oan được

Cho Thượng Đế

(900)

Nhưng chính cái chết làm đời sống hữu hạn của con người đẹp hơn:

Hoa thật quý hơn hoa giả ở sự phù du

Hãy cám ơn cái chết

Chính nó làm cuộc đời có ý nghĩa

(333)

Như thế, giữa hai thế giới nên chọn cái nào, giữa thế giới hữu hạn và thế giới vô hạn?

Trên thiên đàng không có đồng hồ

Chúa phải nhìn xuống trần thế

Để biết thời gian

(152)

Chúa tạo ra trần thế nhưng không thể tạo ra thời gian. Và Chúa tạo ra Eva và Adam nhưng, chừng như, không thể tạo ra lạc phúc của dục tình:

Adam trườn lên thân thể Eva

Và phát hiện

Hạnh phúc trần thế thật ngắn ngủi

(313)

Hạnh phúc thì ngắn ngủi nhưng lòng của Eva thì vô cùng:

Không phải chỉ trời đất mới vô tận

Thử nhìn vào lòng một phụ nữ

Nó cũng không cùng

(165)

Không cùng nhưng hạnh phúc ấy thật cụ thể, và trần trụi:

Con đường chánh đạo dẫn đến hạnh phúc

Nằm ở giữa

Hai đùi

(43)

Trần trụi, nhưng, chừng như, hoan lạc tình dục còn là sự cứu rỗi:

Hắn đọc Phúc Âm nàng

Chữ nào cũng có lửa

Đốt cháy cả màng trinh

(35)

Nên nó, lạc phúc của xác thịt lại tiếm ngôi thần linh:

Khi em chổng mông lên

Mọi thần linh

Đều biến mất

(144)

Thần linh biến mất nhưng vẫn còn ma quỷ, và phải rón rén:

Đến Việt Nam ai cũng rón rén

Như làm tình trên một chiếc

Giường tre

(389)

Rón rén bởi sự rình rập:

Về Việt Nam, thích nhất là những tiếng cười

Nhưng sợ nhất là những cái nhìn

Từ những cặp mắt không có con ngươi

(101)

“Đến” mà cũng có nghĩa là “về” nhưng, nó, đâu chỉ là sự cách biệt “đến/về” và “rời”? Cách biệt giữa trong và ngoài của cái lãnh thổ có hình chữ S?

Cháy bỏng khát vọng hòa bình trong những ngày khốc liệt nhất của thời chiến, Phạm Duy hát bài bình ca “Xuân Hiền” với giấc mơ hội ngộ, đoàn viên:

“Nắng chói gia đình huyền bí trăm con / Năm mươi người xuống / Năm mươi người lên / Đến lúc gặp chỗ đoàn viên” nhưng mùa xuân ấy mãi mãi không về và, cái chỗ đoàn viên kia, cơ hồ, cứ là “cót két” như cái giường tre để hai đôi lứa phải dằn lòng kiểm duyệt sự cuồng nhiệt của mình.

Cái giường tre là sản phẩm của văn minh tiểu nông và đàn con, có lẽ, vẫn “cót két” với nhau từ di sản của tinh thần nông nghiệp cò con đó. Cái tinh thần trói buộc họ ở thứ thơ ca cỏ cây trăng nguyệt, thứ chính trị tộc họ – gia đình, thứ ác nghiệt từ thói quen ăn tiết canh –máu sống, và thứ thói quen xây đắp vinh quang trên máu xương đồng loại:

Ở đó thời gian được đo bằng những cuộc chiến tranh

Mỗi dấu mốc

Một nghẹn ngào

(783)

Thơ ba dòng, như thế, nén chặt đủ cả, từ những ám ảnh ngôn ngữ, thi ca đến lịch sử, siêu hình và tình dục. Đọc từng bài thơ, chỉ ba dòng ngắn thôi, nhưng nhắm mắt suy tưởng, sẽ thấy nó bùng nổ, như một tân tinh.

Nguyễn Hoàng Vân
25.7.2021

Chú thích: Tập 909 Bài Thơ Ba Dòng của Nguyễn Hưng Quốc do Lotus Media xuất bản, 2021, phát hành trên Amazon.com