TAN TÁC nào khiến lòng bạn tan tác hơn?
Blog CHIA SẺ VUI BUỒN: Viết, đọc thơ văn là thú vui tao nhã. Xin chép lại nơi đây thơ văn của bè bạn, của tôi và sưu tầm những bài hay của các thi văn sĩ thành danh nổi tiếng, bên cạnh đó là những nhạc khúc, clips, hình ảnh đẹp … để chia sẻ với mọi người cùng tìm chút niềm vui. Anh Tú anhtu010168@yahoo.com.vn
2024/06/17
2024/06/03
Tạp ghi
NHỮNG ĐIỀU NGHỊCH LÝ
Tổng Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ – ông Antony Blinken –
vừa đệm Guitar vừa hát, khi viếng thăm Ukraine
Điệp Mỹ Linh
Thấy trên Daily Beast tựa bài: “Antony Blinken Rocks Out During Surprise Performance at Kyiv basement bar”, tôi tò mò, muốn xem ông Antony Blinken – Tổng Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ – “rocks” như thế nào, vội “bấm” vào để xem. Nhưng, bất ngờ, Daily Beast bắt tôi phải điền nhiều chi tiết về cá nhân thì mới được vào xem; tôi ngại, tìm các hãng thông tấn khác.
Vào The Hill, tôi thấy tựa bài: “Blinken gets blowback over ‘Rockin’ in the Free World’ performance in Kyiv, May/15/24 11:58 AM.” Miranda Nazzaro tường thuật như thế này: “Blinken, during a surprise visit Tuesday performed a cover of ‘Rockin’ in the Free World’ by Neil Young with a band at the Barman Dictat, a well-known cocktail basement bar”.
“Upon getting up on stage with the Ukrainian band 19.99, the crowd erupted in cheers and Blinken said, “Your soldiers, your citizens — particularly in the northeast, in Kharkiv — are suffering tremendously.”
“But they need to know, you need to know, the United States is with you, so much of the world is with you, and they’re fighting not just for a free Ukraine, but for the free world. And the free world is with you, too.”
Câu nói của ông Antony Blinken chinh phục ngay cảm tình của tôi – một người tỵ nạn cộng sản Việt Nam (csVN) – đồng thời cũng đem đến cho tôi niềm buồn tủi/ganh tỵ!
Không ganh tỵ và buồn tủi sao được khi mà Ukraine bị Nga xâm lăng, toàn dân Ukrainians cùng chung sức chiến đấu, chống quân Nga; lại được nghe một câu nói chí tình và một bài hát tuyệt vời từ một nhân vật đầy uy quyền của chính phủ Hoa Kỳ.
Thời miền Nam Việt Nam, dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), bị csVN xua quân vượt Trường Sơn/tràn qua sông Bến Hải, người Lính VNCH bị “tứ bề thọ địch”! Thế mà, ngay “trong lòng” VNCH, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam – một tổ chức “bù nhìn” do csVN “dựng” lên – được thành lập! Để cổ xúy cho đoàn quân csVN trên đường xâm lăng, Trịnh Công Sơn đã sáng tác ca khúc Nối Vòng Tay Lớn. Niềm ước vọng của Trịnh Công Sơn được thể hiện rõ nét trong hai câu sau đây:
“Từ Bắc vô Nam nối liền nắm tay,
Ta đi từ đồng hoang vu vượt hết núi đồi...”
Như thế tưởng chưa đủ, một nữ tài tử nổi tiếng của Hollywood – Jane Fonda, con gái của hai tài tử Barbarella và Henry Fonda – đã “nhảy” sang Hà Nội, mặc áo bà ba, đội nón sắt, chụp hình chung với “bộ đội ông Hồ”!
Jane Fonda mặc áo bà ba/đội nón sắt
chụp hình với “bộ dộ ông Hồ”, 1972, tại Hà Nội.
Hành động nông nỗi/thiếu suy nghĩ/phản bội quân nhân Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam và cũng phản bội đồng minh VNCH của Jane Fonda từ gần nửa thế kỷ trước được chính Jane Fonda xác nhận với Seth Abramovitch, trên Hollywood, ngày 11/02/2017 lúc 11:00AM, như thế này: “The image of Jane Fonda – Barbarella, Henry Fonda's daughter – sitting on an enemy aircraft gun was a betrayal, the largest lapse of judgment I can imagine,"
Đấy, thử so sánh hành động của hai nhân vật cùng đến từ Hoa Kỳ – ông Antony Blinken và Jane Fonda – thì sẽ thấy, giữa Ukraine và VNCH ai may mắn hơn ai?
Đã nhắc đến những yếu tố phá hoại xảy ra trước khi VNCH thất thủ mà không gợi lại một “hiện tượng” chấn động thế giới thì tác giả bài này sẽ trở thành người không trung thực. “Hiện tượng” đó là sự tự thiêu của Thượng Tọa Thích Quảng Đức!
Cho đến bây giờ, 2024, hình ảnh quý tăng ni đứng quanh, chấp hai tay, gương mặt rất điềm nhiên, âm thầm quan sát Thượng Tọa Thích Quảng Đức được tẩm xăng, “bật” họp quẹt, châm lửa, ngọn lửa bốc cao – ngày 11/06/1963, tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng – vẫn còn ray rức hồn tôi!
Là một Phật tử thuần túy, ăn chay 03 ngày một tuần, cho đến bây giờ, 61 năm sau ngày Thượng Tọa Thích Quảng Đức tự thiêu, tôi cũng vẫn không thể hiểu được tại sao bao nhiêu sư sải – những người có tâm lành, luôn luôn hỉ xả/tha thứ/tránh sát sinh – đứng quanh mà vẫn không một vị nào can ngăn/van xin Thượng Tọa Thích Quảng Đức đừng tự thiêu; bởi vì, tranh đấu cho đạo pháp thì biết bao nhiêu phương thức hữu hiệu khác, tại sao phải đem đến cái chết cho một vị Hòa Thượng?!
Nhớ đến những nguyên nhân xa và gần đã đưa đến sự sup đổ của chính thể VNCH, tôi buồn quá, vào Google tìm lời ca của nhạc khúc “Rockin’ in the Free World” xem ý nghĩa như thế nào. Không ngờ lời ca của bài “Rockin’ in the Free World” – do Neil Young viết – lại có vài câu khơi dậy nỗi bi thương trong hồn tôi vào thời binh lửa mà tôi từng mục kích vào những lần tháp tùng Giang Đoàn 26 Xung Phong dọc theo những dòng sông nhuộm máu, thuộc vùng U-Minh/Chương Thiện!
Lời ca của nhạc khúc “Rockin’ in the Free World” làm tôi xúc động là các câu đây:
“... I see a woman in the night
With a baby in her hand
Under an old street light
Near a gabage can
Now she puts the kid away,
And she’s gone to get hit...”
Đọc những câu trích dẫn bên trên, tôi lặng người, tưởng như Neil Young đã “vẽ” lại rất chính xác hình ảnh tang thương/bi thảm nhưng rất hào hùng của những người vợ lính đã sống và giúp chồng phản công mỗi khi Việt cộng – gọi tắt bốn chữ cộng sản Việt Nam – tấn công các đồn hẻo lánh dọc các bờ sông hoang vắng tại U-Minh/Chương Thiện hoặc các đồn dọc theo những dòng sông nhuộm máu như sông Cái Lớn/Kinh Trèm Trẹm/Kinh Ngang/Kinh Vĩnh Thế, v.v...
Cuộc chiến “nồi da xáo thịt” đã qua lâu rồi, chúng tôi – người miền Nam Việt Nam – chỉ muốn quên để tâm hồn được thanh thản lúc tuổi già. Nhưng, làm thế nào chúng tôi có thể quên được khi mà người csVN lúc nào cũng tìm mọi cơ hội/mọi hoàn cảnh để khơi lại nỗi đau “còn mưng mủ” trong lòng chúng tôi?
Người csVN không những cố tình khơi lại nỗi đau trong lòng chúng tôi mà người csVN còn cố tình tỏ thái độ/ngôn từ thiếu giáo dục, thiếu đạo đức đối với những nhân vật được nhiều người trên thế giới biết đến – chỉ với mục đích được tự xưng là anh hùng để xoa dịu mặc cảm tự ti của người csVN!
Thật vậy, hãy nhìn lại bức phù điêu người csVN tạo dựng cho cố Thượng Nghị Sĩ John McCain bên Hồ Trúc Bạch thì sẽ rõ. Thượng Nghị Sĩ John McCain là người đã – sau khi mãn tù từ nhà tù Hỏa Lò của csVN, trở về Mỹ – góp công giúp Việt Nam và Hoa Kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh.
Và, gần đây nhất, Vnexpress.net đăng tin: “Bộ Trưởng Quốc Phòng Pháp dự lễ kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.”
“May 4, 2024. Nhận lời mời của Việt Nam, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Sébastien Lecornu sẽ tham dự lễ kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ vào ngày 7/5.”
Hành động trên đây của người csVN đối với Pháp là trò “chơi khăm” rất hạ cấp.
Tại sao người csVN không đủ can đảm mời nhân vật quan trọng nào của Trung cộng tham dự ngày Tưởng Niệm Hai Bà Trưng; ngày Tưởng Niệm Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn; hoặc gần đây nhất là chiến tranh biên giới Việt/Trung, năm 1979 và cuộc chiến tại Gạc Ma, tháng 03/1988?
Tại sao lúc nào người csVN cũng cố tình tỏ thái độ cao ngạo/khích động tự ái của quân dân VNCH/Mỹ/Pháp mà đối với Trung cộng – kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam – người csVN lại “nhũn như con chi chi”, phải dùng “chiến thuật cây tre”?
Người csVN phải áp dụng “chiến thuật cây tre” đối với Trung cộng chỉ vì người csVN tự biết họ đã nhầm khi họ nhận vũ khí của Trung cộng và Nga rồi đem xương máu của người Việt đánh Pháp/đánh Mỹ, giúp Trung cộng chiếm trọn Biển Đông. Vì thế, nếu người csVN không “nhũn” với Trung cộng thì, Trung cộng sẽ tạo nhiều khó khăn cho người csVN; bởi vì, người Trung Hoa đã “tràn lan” trên lãnh thổ Việt Nam, sẵn sàng làm nội tuyến hoặc hậu thuẫn cho Trung cộng!
Đọc phân đoạn trên, có lẽ nhiều người sẽ cho là nghịch lý. Nhưng, sự thật được xác định trên Wikipedia tiếng Việt, như thế này: “Tháng 4 năm 1976, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có 49.160.000 người, sau khi trừ đi hết số người vượt biên và số tù binh đang bị giam giữ cải tạo. Dân số miền nam trước khi bầu cử thống nhất chỉ hơn 19 triệu, còn miền bắc lên đến 30 triệu.” Link:
Tại sao trong thời kỳ chiến tranh, “bộ đội ông Hồ” chết nhiều đến độ người csVN phải tận dụng trẻ em và phụ nữ để đưa ra chiến trận mà dân số miền Bắc lại cao hơn dân số miền nam đến 11 – mười một – triệu người? (30 triệu – 19 triệu người)
Theo link đã dẫn bên trên: Năm 1976, tổng cộng dân số Việt Nam – cả hai miền Nam/Bắc Việt Nam – là 49.160.000 người.
Năm 2024, theo link này: https://danso.org/viet-nam/#google_vignette
thì dân số hiện tại của Việt Nam là 99.433.774 người, vào ngày 25/05/2024.
Như thế, từ 1976 đến tháng 05/2024 – 48 năm – dân số Việt Nam tăng 50 (năm mươi triệu) 273.774 người (99.433.774 – 49.160.000).
Đây là điều nghịch lý.
Thời đại Ông Bà của tôi, trở về trước, vì ảnh hưởng câu “lộng ngôn” của ông Trang/ông Lão/ông Khổng nào bên Trung Hoa “Trai năm thê bảy thiếp; gái chính chuyên một chồng”, cho nên, đa số đàn ông giàu/có địa vị đều cưới ít nhất 02 vợ; trung bình, mỗi bà vợ sinh từ 08 đến 14 người con.
Đến thời Má tôi, luật đa thê không còn. Má tôi cũng như quý bà cùng thời với Má tôi, đa số sinh từ 06 đến 12 người con.
Thế mà đến năm 1976 tổng số dân Việt Nam – cả 02 miền Nam Bắc – chỉ là 49.160.000 người.
Đến thời đại tôi, đa số phụ nữ chỉ muốn sinh 04 người con là đủ; cao lắm là 06 người con. Tôi chưa thấy ai cùng thời đại với tôi – hoặc các thế hệ sau tôi – muốn có hơn 04 người con.
Thế thì, cho đến năm nay, 2024, từ đâu mà dân số Việt Nam tăng đến 99.433.774 người?
Sự khác biệt là hơn 50 – năm mươi – triệu người. (99.433.744 – 46.160.000 = 50.273.744).
Hơn năm mươi triệu người từ đâu mà ra nếu không phải là từ những người Tàu sang Việt Nam khai thác khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên?
Kế hoạch của “anh Xi” – thủ lãnh của Trung cộng – là phân tán người Trung Hoa ra khắp năm châu.
Hoa Kỳ cách Trung Hoa một đại dương, mà, trên New York Post by Jennie Taer, tôi thấy tựa đề: “30K Chinese nationals entered US illegally since October, raising national security fears”.
Một thành phần không nhỏ trong tập thể người Trung Hoa đến Hoa Kỳ không phải để tị nạn cộng sản như người Việt Nam – mà số người Trung Hoa này xâm nhập Hoa Kỳ với ý đồ rất tồi tệ: Làm gián điệp cho Trung cộng.
Xin trích một câu cũng trong bài “30K Chinese nationals entered US illigally...”. Câu ấy như thế này: “Numerous federal investigations into Chinese spying are still underway and a report released last September revealed Chinese nationals have snuck onto military bases and other sensitive US sites more than 100 times in recent years.”
Link: https://www.msn.com/en-us/news/world/30k-chinese-nationals-entered-us-illegally-since-october-raising-national-security-fears-sources/ar-BB1mZMmN
Hoa Kỳ/Châu Phi/Mễ Tây Cơ xa “tít tắp” mà “anh Xi” còn đưa người Tàu sang “xâm lăng không tiếng súng”. Bắc Việt Nam cùng chia xẻ biên giới với Trung cộng, “anh Xi” dại gì mà không xua người Tàu “âm thầm xâm lăng” Việt Nam.
Suốt mấy mươi năm qua, không biết bao nhiêu người Trung Hoa sang Việt Nam khai thác khoáng sản/tài nguyên thiên nhiên. Hệ quả vấn đề sinh lý của số lượng người Trung Hoa này có liên hệ mật thiết đến hơn 50 triệu người “quá tải” trong tổng nhân số của người Việt Nam hiện tại.
Hệ quả về sự việc “quá tải” dân số tại Việt Nam mọi người đều thấy; chỉ có người csVN – kẻ tự xưng đã thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm “nược” – thì “chưa?!” nhận ra được sự “xâm lăng âm thầm” của Trung cộng!
Đây có phải là điều nghịch lý hay không?
Điệp Mỹ Linh
2024/05/30
PHỐ -- TRƯỜNG
Nện gót trên đường phố cũ,
Tê lòng lạc dấu chân xưa.
Bỗng dưng mình thành khách lạ
Ngỡ ngàng nắng nhạt mưa thưa.
Họa có còn chăng chiếc bóng,
Sớm chiều phố với hồn ta.
Rưng rức một thời trai trẻ
Cùng theo đến tuổi xế tà!
Ai chỉ giùm tôi trường cũ!
Sáu năm bao lượt đi về .
Đường xưa trập trùng sương phủ
Dặm dài trải mấy sơn khê...
Trường xưa dù không còn nữa
Như thời hoa mộng xa rồi...
Cho dẫu ngàn lần xa cách
Hồn EM vẫn mãi trong tôi...
Nguyễn Toàn
(15/11/2017)
2024/04/29
Tạp ghi
HÀN GẮN VẾT THƯƠNG 30/04/1975
Đến thập niên 90, nhận ra sự vươn lên rực rỡ của người Việt ty nạn, ngườicsVN kêu gọi “Việt kiều” về Việt Nam góp sức xây dựng đất nước. Tôi không rõ có bao nhiêu người Việt đã tin lời csVN, trở về Việt Nam giúp xây dựng quê hương. Nhưng tôi nhớ nhân vật Trịnh Vĩnh Bình – “vua chả giò” tại Hà Lan đã cùng gia đình vượt biên đến Hà Lan, năm 1976 – lại bán hãng chả giò, đem tài sản về Việt Nam đầu tư. Chỉ sau một thời gian không dài, tin Trịnh Vĩnh Bình bị csVN bắt, nhốt tù, tài sản bị csVN tịch thu được loan truyền. Chính quyền Hà Lan phải can thiệp, Trịnh Vĩnh Bình mới được tại ngoại.
Tôi chưa kịp vui khi đọc tin Trịnh Vĩnh Bình được tại ngoại thì con tôi cho biết con tôi sắp về Việt Nam dạy tại đại học Kinh Tế trong ba tháng Hè! Tôi hoảng hốt tột độ! Minh – Bố của các con tôi và cũng là cựu Hải Quân trung tá – và tôi đều hết lời khuyên ngăn; nhưng con tôi cũng vẫn không thay đổi quyết định! Tôi than:
-Con biết rồi, ông Ngoại đã bị Việt Minh – tiền thân của csVN – chiêu dụ, đi theo kháng chiến chống Tây. Sau khi csVN chiếm được miền Nam Việt Nam, ông Ngoại và các Cậu của con bị csVN nhốt tù; bà Ngoại, các Dì và cậu Út bị đuổi đi kinh tế mới; nhà/đất của ông bà Ngoại bị csVN tịch thu. Cậu Út và các Dì không được đi học; vì ông Ngoại là Phó Thị Trưởng Nội An thị xã Cam Ranh! Con đã về Việt Nam, đi ngang ngôi nhà của ông bà Ngoại và con cũng đã ghé nhà của mình ở Thị Nghè, con thấy ai ở trong đó rồi. Như vậy chưa đủ hay sao mà bây giờ con lại muốn quay về giúp những người đã cướp đoạt tất cả rồi đưa gia đình ông bà Ngoại đến đường cùng?
-Theo luật đào thải của thiên nhiên, thế hệ của người csVN đã tàn phá quê hương Việt Nam sẽ không còn. Con chỉ nghĩ đến những thế hệ người Việt kế tiếp. Mình nên tiếp xúc và hướng những thế hệ kế tiếp xa dần cái ác. Minh và tôi chỉ biết đi chùa/cầu nguyện cho con tôi. Hai mùa Hè, con tôi rời Hoa Kỳ và trở về bình an và đúng hẹn.
Mùa Hè thứ ba, lớp học chỉ mới bắt đầu được vài tuần, con tôi đột ngột trở về Mỹ và cho biết, sẽ không về Việt Nam dạy nữa. Tôi mừng quá! Trong bữa cơm sum họp gia đình, con tôi kể lại:
-Sáng hôm đó, con đang giảng bài và sinh viên đang chăm chú nghe giảng bình thường như mọi ngày. Bất ngờ, một nhóm người mặc sắc phục công an xông vào, không nói năng gì cả, đi vòng quanh lớp, lục tung mọi thứ. Con bảo: “Đây là lớp tôi đang dạy, tôi chịu trách nhiệm. Các Bác/các Chú cần gì, phải cho tôi biết, trước khi các Bác các Chú hành động.” Một ông trả lời: “Cô dạy thì cô cứ dạy; kiểm soát là bổn phận của chúng tôi.” Con đáp: “Các Bác/các Chú vui lòng chờ một tý để tôi liên lạc với ông Hiệu Trưởng.” Nói xong con rời lớp, đến văn phòng Hiệu Trưởng, trình bày sự việc. Ông Hiệu Trưởng đáp: “Cô chờ cho nhân viên công quyền thi hành bổn phận xong rồi cô dạy cũng được, có sao đâu.” Con đáp: “Bao nhiêu năm dạy học tại một nước văn minh, tiên tiến nhất thế giới, chưa bao giờ tôi gặp trường hợp nào tương tự như trường hợp này. Tôi sẽ không dạy tại trường này nữa. Bye!”
Kể đến đây, con tôi nhìn tôi, đùa:
-“Bà Già” hết lo chưa?
Tôi cười vui. Minh hỏi:
-Con có biết tại sao công an bất ngờ vào lớp con đang dạy để lục tung mọi thứ như vậy hay không?
-Dạ, không.
Minh tiếp:
-Con có hiểu tại sao khi hay tin con nhận lời về Việt Nam dạy học Măng đã hoảng hốt/lo sợ hay không?
-Dạ, bây giờ thì con hiểu!
-Con hiểu như thế nào?
-Dạ, vì Ba từng là một sĩ quan cao cấp và Măng viết báo, có thể csVN sẽ không để con yên!
Trên đây là hai câu chuyện thật về những người Việt tỵ nạn đã tin theo lời kêu gọi của người csVN để trở về Việt Nam xây dựng lại quê hương; còn bao nhiêu người tỵ nạn khác bị csVN lừa, tôi không biết, tôi không viết.
Gần đây, bạn hữu chuyển đến tôi Quyết Định số 1334-QĐ-TTg, ký tại Hà Nội ngày 10 thang 11 năm 2023, nhưng tôi không đọc; vì tôi không muốn bị csVN lừa.
Viết đến đây, tôi chợt nghĩ, có thể người csVN – sau thời gian dài tiếp xúc với nền văn minh Tây phương – đã bớt xảo trá. Thế là tôi đọc Quyết Định 1334. Đọc xong Quyết Định số 1334 của csVN, tôi cười mỉm, lắc đầu! Tổng thể của Quyết Định số 1334 gồm gần 5,000 – năm ngàn – chữ, tôi không thấy được dòng nào nhắc đến nỗi bi thương/sầu thảm/uất hận của người Việt tỵ nạn trong giai đoạn đầu khi phải lìa xa quê hương, đi làm với đồng lương tối thiểu $2.10 đô la một giờ! Chưa có ai trong chúng tôi có được chiếc xe hơi “cà tàng”! Đi làm, có người phải đi bộ/đi xe “bus”/đi xe đạp “mượn”, như Minh và tôi. Tôi cũng không thấy Quyết Đinh 1334 đề cập đến số tài sản khổng lồ của người miền Nam Việt Nam mà người csVN đã tịch thu và chiếm ngụ. Số tài sản này tuy vô cùng lớn lao và quý giá, nhưng, tôi không tiếc bằng sức khỏe/kiến thức/tuổi thanh xuân/và cuộc đời của không biết bao nhiêu trí thức và tinh hoa của miền Nam Việt Nam phải bị hao mòn/tàn tạ/hủy hoại dưới bàn tay sắt máu của người csVN trong các trại tù trá hình, gọi là trại cải tạo! Tôi cũng không thấy Quyết Định 1334 nhắc lại lời csVN kêu gọi “Ngụy quân/Ngụy quyền” trình diện “học tập” đem theo tiền ăn cho 10 ngày!
Năm 1975, người csVN xâm phạm Hiệp Ước đình chiến, vượt vĩ tuyến 17 giết hại chúng tôi; chúng tôi đã “bỏ của chạy lấy người”. Nhờ Hải Quân VNCH cứu và chúng tôi trở thành người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Người csVN dùng nhiều danh từ rất hạ cấp để mạc sát chúng tôi.
Gần nửa thế kỷ sau, năm 2024, con cháu của người Việt tỵ nạn thành đạt; chúng tôi đang nhàn hạ hưởng già, thì, một lần nữa, người csVN lại dồn toàn lực với ý đồ cưỡng đoạt tất cả tài sản vật chất và tài sản trí tuệ mà chúng tôi đã đổ mồ hôi và nước mắt để tạo dựng nên! Sự tham tàn của người csVN được ghi rõ trên Quyết Định 1334, bằng những “cụm từ” (danh từ của csVN) mạnh bạo như sau: “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN)...” / “Bám sát chủ trương tranh thủ tối đa nguồn lực của NVNONN...” / “Thu hút nguồn lực NVNONN...” / “Xác định nguồn lực kiều bào là một nguồn lực có ý nghĩa quan trọng trong tổng thể các nguồn lực từ bên ngoài, cần được tranh thủ để phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.”/ “Tăng cường thống nhất nhận thức NVNONN là nguồn lực ngày càng quan trọng ...” / “Thu hút chuyên gia, trí thức, nhân tài NVNONN và lao động người Việt trở về nước...” v.v. Nguồn lực và tiềm năng của “người Việt Nam ở nước ngoài” – cũng như sự thành đạt tuyệt vời của thế hệ Việt Nam di dân thứ II / thứ III tại hải ngoại –không dễ gì để người csVN “tịch thu” đâu!
Nếu người csVN thật tâm muốn hàn gắn vết thương còn mưng mủ giữa người Việt trong nước và người Việt tỵ nạn thì người csVN – bắt đầu từ năm nay, 2024 – hãy thể hiện bằng thái độ/ngôn từ và hành động khi người csVN tổ chức mừng ngày 30 tháng Tư!
Điệp Mỹ Linh
2024/04/22
HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HÒA
và
NHỮNG ĐIỀU KHÁC BIỆT
Điệp Mỹ Linh xin trân trọng kính chào quý khán giả. (1)
Điệp Mỹ Linh xin cảm ơn ban tổ chức Đại Hội kỷ niệm 53 năm ra khơi của khóa 22 sĩ quan Hải Quân Nha Trang đã dành cho Điệp Mỹ Linh vinh dự được trình bày cùng quý khán giả vài điều rất đặc biệt về Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Kính thưa quý vị, có lẽ quý vị cũng đồng ý với tôi rằng: Hải Quân VNCH là một quân chủng rất thầm lặng. Nhưng, những hoạt động quân sự của Hải Quân VNCH, trên sông rạch cũng như trên biển cả, thì lại oanh liệt không khác chi những chiến công hiễn hách của các quân binh chủng thiện chiến như Biệt Kích/Nhảy Dù/Biệt Động Quân/Thủy Quân Lục Chiến/Không Quân/Bộ Binh thuộc Quân Lực VNCH.
Nếu Hải Quân VNCH chỉ là những chàng đẹp trai, hào hoa, lịch lãm trong những bộ quân phục tiểu lễ hoặc đại lễ trắng thì làm thế nào chúng ta có được Giang Đoàn 30 Xung Phong đã khuấy động vùng Tam Giác Sắt của Việt cộng? Làm thế nào chúng ta có được Giang Đoàn 26 Xung Phong mà những chiến tích tại kinh Trèm Trẹm/kinh Ngang và U Minh/Chương Thiện vẫn chưa phai mờ? Làm thế nào chúng ta dám ngang nhiên chống lại Trung cộng tại Hoàng Sa để Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà lưu danh thiên cổ? Làm thế nào chúng ta có được Giang Đoàn 43 Ngăn Chận với mặt trận Tuyên Nhơn rực lửa của những ngày tháng Ba và tháng Tư năm 1975; để rồi, Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn – vị chỉ huy trưởng can cường và liều lĩnh nhất của Giang Đoàn 43 Ngăn Chận – phải tuẫn tiết trên sông Vàm Cỏ Tây vào khuya 30 tháng Tư rạng ngày 01 tháng Năm, năm 1975? Làm thế nào chúng ta có được phục quốc quân Đặng Hữu Thân, người xuất thân khóa 12 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang và Ông đã bị cộng sản Việt Nam (csVN) xử bắn tại trại tù A30? Làm thế nào chúng ta có được một Hạm Đội đã trợ giúp đồng bào và quân bạn thoát vòng lửa đạn từ vùng I/vùng II Duyên Hải vào tháng Ba/tháng Tư 1975; rồi cũng chính Hạm Đội Hải Quân VNCH đưa chúng ta thoát khỏi cuộc “tắm máu” đầy kinh hoàng do csVN thực hiện sau khi csVN cưỡng chiếm được miền Nam Việt Nam, ngày 30/04/1975?
Trong các cuộc di tản đầy tình người – như đã kể trên – lúc nào quân nhân Hải Quân VNCH cũng thể hiện tinh thần kỹ luật rất cao.
Ngoài những điều như tôi đã nêu trên, Hải Quân VNCH còn có những điều rất khác biệt mà ít người ngoài quân chủng Hải Quân có thể biết được.
Những điều khác biệt của Hải Quân VNCH là: Trên chiến hạm, sĩ quan dùng cơm tại phòng dành riêng và được sắp ngồi theo thứ tự đã quy định. Nếu khách viếng thăm chiến hạm thì – khi dùng cơm – vị khách được ngồi ghế bên phải của Hạm Trưởng.
Khi một người Hải Quân đi với một phụ nữ – dù phụ nữ này già/trẻ/xấu/đẹp/Mẹ/vợ/bạn/người tình/em gái – người Hải Quân cũng để phụ nữ này đi bên phải của người Hải Quân, để, nhỡ có rủi ro gì, người Hải Quân sẽ thuận tay che chở và bảo vệ phụ nữ đó.
Sau đây là những danh từ khác biệt mà người Hải Quân VNCH thường dùng: Rời đơn vị/rời chiến đỉnh hoặc chiến hạm, Hải Quân VNCH gọi là “đi bờ”. Chỉ Huy Trưởng/Chỉ Huy Phó của một đơn vị được gọi là Chỉ Huy Trưởng/Chỉ Huy Phó chứ không gọi theo cấp bậc. Hạm Trưởng/Hạm Phó của một chiến hạm cũng được gọi là Hạm Trưởng/Hạm Phó chứ không gọi theo cấp bậc hay là Thuyền Trưởng/Thuyền Phó. Sĩ quan cấp thấp gọi sĩ quan cao cấp là commandment. Khi trực diện với vị sĩ quan uy quyền nhất của Hải Quân VNCH, đa số đều gọi vị sĩ quan này là Tư Lệnh chứ không gọi theo cấp bậc. Khi đàm thoại với một vị Tướng Hải Quân VNCH – dù vị Tướng này là Phó Đề Đốc – người đối thoại cũng gọi vị Tướng này là Đô Đốc.
Xin cảm ơn quý vị đã lắng nghe.
Kính chào quý vị.
Bài này được biên soạn và đọc trong Đêm Đại Hội Kỷ Niệm 53 năm ra khơi của Khóa 22 sĩ quan Hải Quân Nha Trang – 21 tháng Tư 2024.
2024/04/04
Tùy bút
NIỀM CAY ĐẮNG THẦM LẶNG
Hình này do một vị khán giả tốt bụng đã tham dự Đại Hội Quốc Học Đồng Khánh, năm 1987, tại |
Đang “lang thang” tìm tin tức
trên internet, tôi chợt để ý bảng tin về sức khỏe tâm thần của những “vị cao
niên”. Danh từ hoa mỹ “cao niên” thường được nhiều người dùng để chỉ người già.
Riêng tôi, vì tính “thẳng như ruột ngựa”, tôi nhận thấy danh từ “người già” là
chính xác nhất và cũng không xúc phạm ai cả. Lúc này tôi mới nhận ra tôi cũng
là một trong những người già.
Vì cũng là người già, cho
nên, tôi cũng lo ngại về vấn đề sức khỏe tâm thần. Tôi tìm đọc về vài phương
thức phòng ngừa căn bệnh quái ác Dementia. Bất ngờ một câu trong bài của bác sĩ
Damien Marie khiến tôi bớt âu lo. Câu ấy như thế này: “Learning to play
an instrument or actively listening to music are cross-modal activities,
eliciting not only the closely related sensorimotor domains (close or near
transfer, e.g., auditory processing) but also more distant ones, for instance,
processing speed, affective domains, memory, language, executive function, or
abstract reasoning, etc.”
Đọc đến đây, không hiểu tại
sao tôi lại nghĩ ngay đến Ba tôi – cụ Điệp Linh Nguyễn Văn Ngữ, Trưởng ban ca
nhạc Bình Minh đài phát thanh Nha Trang và cũng là Trưởng ban văn nghệ Khu Công
Chánh miền Nam Trung nguyên trung phần, vào giữa thập niên 50 đến đầu thập niên
60 – với lòng biết ơn vô tận!
Tôi biết ơn Ba tôi nhiều
không chỉ vì công ơn sinh thành dưỡng dục mà còn vì Ba tôi đã “đưa” tôi vào thế
giới âm nhạc từ khi tôi chỉ vừa biết đánh vần, trong thời kỳ Ba tôi theo kháng
chiến chống Tây.
Thời theo kháng chiến chống
Tây, Ba tôi là Trưởng ban văn nghệ Sở Trừng Giới Liên Khu V. Lúc đó tôi là “cái
đuôi” – danh từ bà Ngoại của tôi đặt cho tôi – của Ba tôi. Trong giờ làm việc,
Ba tôi đến văn phòng để hướng dẫn thành viên tập kịch/tập hát/tập hợp tấu,
v.v... Ba tôi đi một mình. Ngoài ra, bất cứ đi đâu ngoài giờ làm việc, Ba tôi
cũng dẫn tôi theo. Khi nào đi theo Ba tôi, tôi cũng nắm chặt ngón tay trỏ nơi
bàn tay phải của Ba tôi rồi vừa đi vừa nhảy “cà tưng” thì mới theo kịp bước
chân sải dài của Ba tôi.
Tôi vẫn nhớ lần đầu tiên Ba
tôi dạy tôi về ký âm pháp. Ba tôi kẻ 05 hàng thẳng, khoảng cách đều nhau, với
bảy chấm, bên dưới viết rõ “do/ré/mi/fa/sol/la/si”, bắt tôi học thuộc lòng bằng
cách đọc xuôi và đọc ngược. Trong khi tôi vui thích đọc, bà Ngoại của tôi lên
tiếng:
-Ui chao! Hắn là con gái, để
Mạ hắn dạy cho hắn may vá/thêu thùa/nấu nướng chứ con dạy hắn cái chi mà “ ‘rề’(ré)/la/mi/xi”,
nghe... di òm!
Ba tôi chỉ cười, “nheo mắt” với
tôi. Má tôi từ dưới bếp bước lên, tiếp:
-Tôi nói ông hoài mà ông
không nghe! Nhà tôi không có thứ “xướng ca vô loài”, ông đừng “đưa” “con tôi” vào
con đường đó!
Lúc này tôi mới hiểu lý do
tại sao khi một bài thơ hay một nhạc phẩm của Ba tôi “ra đời” thì Má tôi và Ba
tôi cũng bất hòa! Cuối cùng không một nhạc khúc/một bài thơ nào của Ba tôi được
ban văn nghệ Sở Trừng Giới Liên Khu V trình diễn!
Sau này, suốt thời gian ban
Bình Minh phụ trách văn nghệ cho đài phát thanh Nha Trang, tôi cũng không hiểu
tại sao Ba tôi không bao giờ cho phổ biến bất cứ tác phẩm nào của Ba tôi? Thời
điểm đó tôi sắp “bước” vào tuổi “dậy thì”, cho nên, tôi rất thích những câu thơ
lãng mạng như hai câu sau đây của Ba tôi:
“Mắt trinh nữ lệ mờ bên sông
cũ,
Đợi cung đàn nghệ sĩ vắng bao
thu!”
- Thôi, con!
-Sao kỳ vậy, Ba?
-Má không thích!
Tôi nói những gì tôi nghĩ:
-Má không thích thì Má đừng
nghe.
Ba tôi “xỉa” ngón tay
trỏ vào trán tôi:
-“Cha mày”! Tội nghiệp Má,
con à! Má là con nhà khuê các. Thời gian Ba trông coi sở trà Transpire của ông
Ngoại, Ba bị “tụi nó” – Việt Minh – tuyên truyền/chiêu dụ theo kháng chiến
chống Tây. Ba đem Má và con theo. Bà Ngoại thương con và thương Má, bà Ngoại đi
theo luôn. Không ngờ Ba đã đưa gia đình vào nơi khổ nạn/đầy nguy hiểm. Con bị
mất một đứa em trong thời kháng chiến. Má rất đau khổ! Ba có lỗi với Má. Con
hiểu chưa?
Sau khi hiểu rõ, tôi không
còn thầm trách Má tôi nữa. Nhưng tôi rất tiếc thương những tình khúc như Bến
Thu/Khánh Hòa Niềm Thương/Người Tản Cư, Bên Sông Cũ, v.v. và những dòng thơ ướt
lệ của Ba tôi phải chìm vào quên lãng. Bây giờ tôi chỉ nhớ được vài câu thơ –
mà tôi lại không nhớ được tưa đề! Tôi nhận ra tôi cũng có lỗi với Ba tôi vì tôi
chỉ bận bịu vun bồi sở thích của tôi mà tôi không gìn giữ được những lưu niệm
hiếm quý của Ba tôi. Sau đây là hai câu thơ từ một bài thơ trữ tình khác của Ba
tôi mà tôi cũng không nhớ tựa:
“Nghe gió lùa trong đêm vắng,
Em mơ thấy chàng bên sông mờ
trăng...”
Vừa viết đến đây, tôi nghe
tiếng “kịch” rất nhỏ rồi computer tắt! Sau một lúc “nhấn nút này/nhấn nút kia” –
như lời con tôi từng hướng dẫn – mà computer cũng vẫn không hoạt động, tôi điện
thoại cho người con làm việc gần khu vực tôi cư ngụ. May quá, con tôi sắp rời
nhiệm sở, có thể khoảng 5/10 phút nữa sẽ ghé nhà tôi.
Sau khi ngồi trước computer,
con tôi “nhấn nút này/nhấn nút kia”, màn ảnh computer hiện lên cùng với niềm
vui của tôi. Vừa rời bàn computer con tôi vừa đùa, “nửa Tây nửa Ta”:
-Xong rồi đó, “bà Già”! “Bà
Già” đang viết về cái gì vậy?
-Về sự liên hệ giữa bệnh
Dementia và người già.
-Hay đó, Măng! Trong khi
chỉnh computer cho Măng, con đã thấy câu Măng trích của bác sĩ Damien Marie.
Măng tìm đề tài như vậy mà viết; đừng thèm “đụng” đến cộng sản Việt Nam (csVN)
nữa, phí thì giờ!
-Ý tưởng của con như vậy là
do lỗi của Măng và “ông Già”!
-Tại sao?
-Tại vì người cộng sản Việt
Nam – ngoài việc đưa trẻ em 13/14 tuổi ra chiến trận – lúc nào người csVN cũng
dạy con cháu của họ nuôi căm thù. Trái lại, người miền Nam Việt Nam giáo dục
con cháu theo đạo đức và lễ nghĩa.
-Người csVN bị chết nhiều
quá, thiếu quân thì họ phải dùng con nít. Còn người cộng sản dạy con cháu của
họ nuôi căm thù, làm thế nào Măng biết được?
-Thời gian trong “vùng kháng
chiến”, ông Ngoại mở lớp dạy học. Cán bộ cộng sản chỉ thị ông Ngoại phải dạy
mấy đứa bé theo dõi xem Cha Mẹ mấy đứa bé ăn gì/nói gì/làm gì/gặp ai v.v... rồi
mách lại cho ông Ngoại; ông Ngoại phải làm phúc trình, trình cho cán bộ địa
phương. Thế là ông Ngoại sợ Măng và cậu Linh bị “đầu độc”, vội đưa gia đình
trốn về lại Dalat.
-Vậy là ông Ngoại may mắn quá
rồi!
-May mắn? Con nói cái gì vậy?
Nói tiếng Anh đi!
-Mommy! Con biết câu này con
dùng đúng chữ Việt.
-Tại sao con dùng chữ “may
mắn”?
-Măng nghĩ đi! Ít nhất là
người csVN biết tận dụng khả năng âm nhạc/kịch nghệ và Pháp văn của ông Ngoại
để đặt ông Ngoại vào đúng vị thế chứ csVN không đưa súng, bắt ông Ngoại phải
bắn giết người đồng chủng – như ông Hồ Chí Minh đã buộc bộ đội của ông ấy thực
hiện!
-Nhận xét của con chỉ đúng
một phần; phần còn lại... con chưa biết gì về cộng sản.
-Phần còn lại là gì?
-Con nghĩ xem! Người Việt Nam
– cũng như đa số nhân loại trên thế giới – đều do Cha Mẹ sinh ra và nuôi dạy
chứ người csVN có sinh đẻ và nuôi dạy người Việt Nam nào đâu; thế mà mỗi khi
muốn khiêu chiến, người csVN bắt chước Trung cộng, cứ cổ xúy/kêu gào/ra lệnh/đe
dọa “đánh cho đến người Việt Nam cuối cùng” ?
-Con hiểu rồi. Tàn bạo quá!
Sorry, Măng!
-Con được sinh trưởng trong
một gia đình lễ giáo, lại nội trú trường Bà Sơ thì sự suy nghĩ đầy nhân đạo của
con không có gì đáng trách cả. Thôi, con về đi kẻo đến giờ kẹt xe.
-Măng tập đàn lại đi. Măng
nhớ câu của bác sĩ Damien Marie hay không?
-Nhớ mà! Nhưng mỗi khi nghe
tiếng Accordéon hay là một nhạc khúc mà ngày xưa Măng thường đàn, Măng chịu
không được! Như hôm trước tham dự họp mặt Nha Trang, bất ngờ một ông đơn ca
tình khúc La Paloma. Măng ngồi chết lặng, nhưng trái tim lại thổn thức từng
hồi; vì kỷ niệm tươi đẹp với ban ca nhạc Bình Minh bừng sống rất mãnh liệt!
-Măng gắng vượt qua. Có người
không chơi nhạc mà khi biết âm nhạc ảnh hưởng tốt đến bộ não như thế nào thì
người đó học nhạc; Măng biết mà bỏ thì uổng.
-Lâu quá không đàn, bây giờ
già, cây đàn nặng quá, Măng lấy ra không nổi!
Vừa đáp lời tôi con tôi vừa
đến bên thùng đàn Accordéon – mà chính con tôi đã dùng “paycheck” đầu tiên của
con tôi, mua tặng tôi – lấy thùng đàn từ “closet” ra.
Nhìn thùng đàn, thấy tấm giấy
trắng dán ngay ngắn, với nét chữ của tôi, tôi ngậm ngùi nhớ lại lần đầu tiên
đến Washington DC – dường như năm 1987, tôi không nhớ rõ – để tham dự đại hội
Quốc Học Đồng Khánh.
Bố của các con tôi – cố Hải
Quân trung tá Hồ Quang Minh – là cựu học sinh trường Quốc Học và cũng là bạn
thân của bác sĩ Trần Đoàn. Vợ của bác sĩ Trần Đoàn là dược sĩ Phan Thị Nhơn lại
cùng sinh hoạt với tôi trong Ban Văn Nghệ trường trung học Võ Tánh Nha Trang.
Vì tình thân, anh Đoàn điện thoại cho Minh.
Sau khi gác điện thoại, Minh
cho tôi biết, anh Đoàn mời và dặn Minh, đến Washington DC thì nghỉ lại nhà anh
chị Đoàn Nhơn. Điều quan trọng là nhờ Điệp Mỹ Linh đem theo Accordéon và giữ
một mục đọc tấu. Tôi hỏi Minh:
-Rồi ông trả lời anh Đoàn như
thế nào?
-Thì anh “okay” chứ trả lời
gì nữa?
-Sao ông “ngon” vậy? Đàn/hát
hoặc bất cứ bộ môn nghệ thuật nào cũng phải thường xuyên tập dược. Đằng này,
mỗi khi tôi đàn, ông “cự nự”. Tôi tự ái, bỏ đàn. Thấy tôi buồn hoài, Ba tôi
hỏi, tôi không thể nói dối; thế là Ba tôi dạy tôi viết văn. Ông cũng bảo “Viết
lách làm chi, dẹp đi cho rồi!”. Vậy mà, hễ ai mời/yêu cầu tôi đàn/hát hoặc điện
thoại xin bài thì ông nhận lời ngay. Có phải ông chỉ muốn tôi đàn/hát “dở ẹc” để
không ai thèm mời tôi nữa hay không?
-Thôi mà, anh đã nhận lời
rồi, đừng làm anh bị “quê xệ”!
Thế là – như bao nhiêu lần
trước – tôi “chịu thua”, phải tập đàn trong thời gian ngắn nhất, rồi đem
Accordéon theo. Muốn cho nhân viên hàng không cẩn thận khi chuyển hàng, tôi
phải gián tấm giấy lớn bên ngoài thùng đàn rồi viết: This side is up. Very
fragile, be careful, please!
Dòng hoài niệm của tôi vừa
đến đây, tiếng của con tôi đưa tôi trở về thực tại:
-Măng vẫn đi “Gym” đều chứ?
Tôi gật đầu. Con tôi “nủa đùa
nửa thật” bảo:
-Mommy! Mommy có ông Mỹ già
nào cho vui!
Tôi giật mình trợn mắt nhìn
con tôi! Con tôi đổi giọng:
-Sorry, Mommy! Thôi, Mommy có
Bác nào cho vui.
-Từ khi con khôn lớn cho đến
khi “ông Già” mất, có bao giờ con thấy “ông Già” đem giùm bao rác ra ngoài cho
Măng hay không?
Im lặng. Con tôi xoay vào
“closette”, chuyển đề tài:
-A, để con mở thùng đàn, bưng
Accordéon để sẵn trên bàn, khi nào Măng đàn thì đàn; khi không đàn, Măng lấy
khăn phủ lên cho bụi khỏi bám vào, nhen!
Sau khi để Accordéon lên bàn,
con tôi nói:
-Okay, Mommy! Con về chứ gần
giờ kẹt xe.
Từ cửa sổ trên lầu, tôi quyến luyến nhìn theo chiếc xe của con tôi. Khi chiếc xe khuất nơi ngã tư, tôi quay lại, nhìn Accordéon. Chính lúc đó, tự dưng niềm xúc động dạc dào dâng lên, rồi một tình khúc xưa âm thầm trổi dậy, ray rức hồn tôi!
Ðời mà thiếu em ta vắng
vui...” (1)