2014/07/11


VẪN

Trôi vẫn trôi...

chiếc thuyền thơ lặng lẽ
Buồn  vẫn  buồn
tiếng khẽ nhịp thời gian
Rơi vẫn rơi
từng chiếc lá  thu vàng
Nắng vẫn nắng
trong chiều mưa ảm đạm

Vẫn  thế thôi ...
mây trời bay chầm chậm
Vẫn chiều tàn
đêm đến, bình minh sang
Vẫn ánh trăng
tròn nở, khuyết mờ tan
Mơ vẫn mơ
trong cõi thơ đầy mộng ...

Yên Dạ Thảo

2014/07/08


NỤ HÔN

Nụ hôn
ngày ấy – bây giờ
Đục dòng thương nhớ, nhạt bờ yêu say

Buồn chan
mắt gió lệ cay
Hương sầu nhuộm đắng tháng ngày thẩn thơ

Nụ hôn
ngày ấy – bây giờ
Hình như ai đã phủ mờ chia ly

Môi trầm
ngày ấy cuồng si
Bây giờ nhợt lạnh còn gì cho nhau

Thôi đành
Chờ tiếp kiếp sau
Nụ hôn còn có tươi màu thuở yêu?

Phạm Đức Mạnh

KHI ẤY*

Nụ hôn tình ái xa xôi
Trinh nguyên dâng hiến làn môi ngọt ngào
Nhớ ôi da diết làm sao
Mùi thơm dạ lý d
ạt dào hương yêu.

Anh Tú
June 23, 2014
Manhattan, NYC
*Cảm tác từ NỤ HÔN của Phạm Đức Mạnh

Ngẫu hứng XUỒNG XƯA

Xuồng xưa đã kéo lên bờ
Không còn neo bến đợi chờ người xưa!
Dãi dầu sớm nắng chiều mưa
Người đi nào biết xuồng xưa…rã rời!

Kiều Trinh
Jul 8, 2014

Đọc XUỒNG XƯA tại:

QUÊ MÌNH*

Con rạch nhỏ chiếc xuồng bơi nhẹ nhẹ
Đôi bờ xanh dừa tre lá giao cành
Em nón lá nghiêng tình trên bến vắng
Quê hương mình thương lắm bóng bần xanh !…

Phong Tâm
06/7/14
*Nhân đọc Xuồng xưa, cảm hứng bất chợt tặng Anh Tú và những người góp công tô điểm.

Đọc XUỒNG XƯA tại:



Mênh mang ngọn sóng vô thường
Lang thang dõi dấu áng tường vân trôi
Tôi cời than của lòng tôi
Lửa hương chợt lóe góc trời mờ sao

Dấu thời gian, phút nhiệm mầu
Thấy em là của buổi đầu lệ e.


Hồng Băng

2014/07/07

XÚC ĐỘNG KHÁM PHÁ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI KINH (gốcVIỆT NAM) Ở TRUNG QUỐC

(Lịch sử Việt Nam) - Đối với chúng ta, rất ít người biết có một cộng đồng rất nhỏ (khoảng 22,000) người Jing (người Kinh) sống ở Tam Đảo (Quảng Tây, Trung Quốc) là một “khám phá” gây nhiều cảm xúc. Rồi lúc được biết họ đã rời xa Việt Nam 500 năm mà vẫn cố gắng duy trì bản sắc văn hóa dân tộc Việt trước sức đồng hóa rất mạnh của TQ, xem những điệu múa, đánh đàn bầu, nghe họ hát tiếng Việt làm ta xúc động…

Vào khoảng thế kỷ 16, có một số người Việt di cư lên phía bắc lập nghiệp ở vùng Trường Bình – Bạch Long. Vùng đất đó bấy giờ thuộc Đại Việt nhưng theo Công ước Pháp-Thanh ký năm 1887 giữa Pháp và nhà Thanh thì Trường Bình bị sáp nhập vào nước Trung Hoa. Người Kinh tại đây là một trong số 56 dân tộc được công nhận tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Người Kinh ở Trung Quốc mặc áo dài truyền thống

Thời gian trôi qua, nhóm người Việt này đã bị ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Tuy vậy họ vẫn nói tiếng Việt. Họ sinh sống chủ yếu trên 3 đảo (Vạn Vĩ, Sơn Tâm và Vu Đầu), gọi chung là Kinh tộc Tam Đảo, thuộc thị xã Đông Hưng, khu tự trị người Choang Quảng Tây (cách cửa khẩu Móng Cái của Việt Nam chừng 25 km) nhưng tiếng Việt của họ đã pha trộn nhiều với tiếng Hoa kèm với nhiều từ cổ của tiếng Việt.
Họ được coi là cộng đồng người Kinh chủ yếu và còn mang nhiều bản sắc văn hóa Việt Nam nhất tại Trung Quốc với tư cách là một trong 56 dân tộc của đất nước này (không bao gồm cộng đồng người Việt mang quốc tịch Việt Nam hiện đang học tập và làm việc tại Trung Quốc)
Tại Quảng Tây nói riêng và Trung Quốc nói chung, tên gọi “Kinh tộc Tam Đảo”, có nghĩa là “Ba hòn đảo của người Kinh”, hiện vẫn được dùng tương đối phổ biến để chỉ cộng đồng người Kinh này cũng như để chỉ địa bàn sinh sống tập trung của họ tại ba hòn đảo nói trên (nay đã trở thành bán đảo do phù sa bồi lấp và nhờ chính quyền cùng nhân dân địa phương đã đắp đê, làm đường nối các đảo với đất liền).

Vị trí Tam Đảo mà người Kinh sinh sống

Với lịch sử định cư trải qua hơn 500 năm, hầu hết cư dân người Kinh ở khu vực Tam Đảo (Vạn Vĩ, Vu Ðầu và Sơn Tâm) cũng như một vài nơi khác ở Quảng Tây (chủ yếu tập trung tại Đông Hưng) đều có chung nguồn gốc là người Đồ Sơn (Hải Phòng, Việt Nam), còn lại số ít người Kinh trong đó có nguồn gốc từ một vài địa phương ven biển của Việt Nam di cư đến. Theo điều tra dân số tại Trung Quốc vào năm 2000, dân số người Kinh riêng tại khu vực nói trên là khoảng hơn 18.000 người trong tổng số trên dưới 22.000 người dân tộc Kinh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc, một con số được coi là rất khiêm tốn nếu so với nhiều dân tộc khác đang cùng sinh sống trên đất nước đông dân nhất thế giới này.

Người Kinh tại Trung Quốc

Dòng họ Tô là một dòng họ lớn và được xem là có ảnh hưởng nhất trong cộng đồng các dòng họ người dân tộc Kinh tại Quảng Tây nói riêng và Trung Quốc nói chung. Họ Tô là một trong 12 dòng họ người Kinh hay còn gọi là người Việt gốc Đồ Sơn (Hải Phòng, Việt Nam). Nhiều người trong họ Tô đã có công nghiên cứu, bảotồn và quảng bá các giá trị đặc sắc của văn hóa truyền thống của người Kinh đồng thời cũng là cội nguồn của văn hóa Việt Nam đến nhiều nơi trên đất nước Trung Quốc rộng lớn dù cho dân số của người Kinh tại Trung Quốc là rất khiêm tốn nếu so với nhiều cộng đồng dân tộc khác của đất nước này. Trải qua hơn 500 năm định cư trên đất Trung Quốc, hiện dòng họ Tô cũng như một số dòng họ người Kinh khác không chỉ tập trung sinh sống tại khu vực Tam Đảo (Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm) mà đã phân tán ra nhiều địa bàn khác quanh khu Phòng Thành Cảng của tỉnh Quảng Tây.

Người Kinh đánh trống trong một lễ hội

Ngôn ngữ
Người Kinh tam đảo vốn nói tiếng Kinh hay tiếng Việt và sử dụng phổ biến chữ Nôm, nhưng từ lâu họ cũng nói tiếng địa phương là tiếng Quảng Đông và sử dụng Hán tự. Tuy nhiên, về ngữ pháp, người Kinh không nói ngược như dân Hán mà vẫn nói xuôi theo lối giao tiếp của người Việt.
Phong tục
Y phục của người Kinh đơn giản và thực tế. Phụ nữ ăn mặc theo cổ truyền với những chiếc áo ngắn, không cổ, chẽn bó vào thân mình, cài nút phía trước, mặc những tấm quần rộng nhuộm đen hay nâu. Khi ra ngoài, phụ nữ thường mặc thêm áo dài tay chật nhuộm màu sắc nhạt hơn. Họ thích đeo khuyên tai, tóc rẽ ngôi ở giữa dùng vải đen hay khăn đen bọc lấy và vấn xung quanh đầu. Dân quê còn đi chân đất. Còn đàn ông thì thường mặc áo cộc để làm việc, cổ quấn khăn, nhưng khi có hội hè thì họ mặc những áo dài chùng tới gối, hai vạt trước sau đối nhau và có giải quấn ở eo lưng.
Ngày nay, người Kinh ăn mặc giống như người Hán láng giềng, mặc dù còn một số người già còn giữ lối ăn mặc theo cổ tục và một thiểu số phụ nữ trẻ còn vấn tóc và nhuộm răng đen vì vẫn còn tục ăn trầu, còn đàn ông thì ăn mặc thực tế theo hiện đại như những dân lân cận khác.
Phong tục hôn nhân thì một vợ, một chồng, thuở trước thì thường do cha mẹ hai bên xếp đặt bao biện. Trai gái cùng họ và anh em cô cậu cấm lấy nhau.

Dân tộc Kinh tại Trung Quốc

Ẩm thực
Về ẩm thực, người Kinh ở Tam Đảo ăn cơm là chính, ngoài ra còn ăn khoai sắn, khoai sọ, thích ăn các loài hải sản như cá, tôm, cua. Đặc biệt, họ làm nước mắm từ cá biển để chấm và nêm thức ăn. Những món ăn ưa thích của họ là bánh đa làm bằng bột gạo có rắc vừng nướng trên than hồng mà sách Trung Quốc gọi là phong xuy hỉ (bánh phồng do gió thổi) và bún riêu, bún ốc sách Hán tự ghi là hỉ ty tức là sợi bún nấu với canh cua và ốc.
Tín ngưỡng, tôn giáo
Tôn giáo chủ yếu là Phật giáo đại thừa và Đạo giáo. Ngoài ra họ còn duy trì tục cúng thần linh và tổ tiên.

Trong một lễ hội

Sinh hoạt văn hóa
Họ ưa thích lối hát đối đáp giao duyên (antiphonal songs) nghe du dương và trữ tình, kiểu như hát Quan họ hay hát đúm quen thuộc ở miền Bắc Việt Nam bây giờ. Lối hát đúm hát đối này thường được tổ chức vào ngày Tết, ngày Hội. Nhạc cụ cổ truyền của người Kinh gồm có đàn nhị (two-stringed fiddle), sáo trúc, trống, cồng và đàn bầu (độc huyền cầm) là một nhạc khí chỉ riêng Kinh tộc có mà thôi. Họ có một kho tàng văn học dân gian truyền khẩu phong phú với ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích… Những điệu múa ưa chuộng của người Kinh là múa đèn, múa gậy sặc sỡ nhiều màu, múa rồng và múa y phục thêu thùa.

Y phục và nhạc cụ của người Kinh tại Quảng Tây

Đời sống kinh tế
Người Kinh tại khu vực Tam đảo hoạt động chủ yếu trong các ngành như ngư nghiệp (đánh bắt, nuôi trồng hải sản, nông nghiệp, dịch vụ du lịch. Ngoài ra, một bộ phận dân cư hoạt động trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ.
Trong 700 loại cá đánh ở đây thì hơn 200 loại có giá trị kinh tế cao và thu hoạch nhiều. Ngọc trai, cá ngựa và sea otters sinh sản lắm ở đây và thường quí về phương diện dược liệu. Nước biển của vịnh Bắc Bộ tốt cho sự làm muối. Mùa màng chính ở đây là gạo, khoai lang, đậu phọng, khoai sọ, và kê. Những loại trái cây bán nhiệt đới như đu đủ, chuối, nhãn thì rất nhiều. Những khoáng sản dưới đất gồm sắt, monazite, titanium, magnetite và silica. Những giải rộng của rừng tràm mọc trên vùng nước lợ là một nguồn lợi phong phú về chất tannin dùng làm nguyên liệu tất yếu cho kỹ nghệ thuộc da.
Người Việt Nam cho dù ở đâu vẫn là người Việt Nam!

Nguyễn Anh (tổng hợp)


2014/07/06

CÁNH GIÓ - Nhược Thu
Diễn ngâm: Hồng Vân



CÁNH GIÓ*

Chiều nay ai khắc bóng trong mây
Cho nhớ về nhau rót thật đầy
Khóe mắt nụ cười em buổi đó
Một lần uống trộm ngả nghiêng say

Đường xa cánh gió nào chưa mỏi
Chia lá tàn thu sắp cạn màu
Có lũ chim chiều xao xác gọi
Thấm buồn khi chúng sắp xa nhau ..

Có phải sao trời em giấu cạn
Góp vào trong mắt dõi tìm anh
Mà nghe có ánh trăng hờn giỗi
Khi lén nhìn hôn lén dưới cành ..

Có ai quét lá mùa thu chết
Để lót mây trời đón bước tiên
Để gót son em hờ hững bước
Buồn vương tơ mộng chẻ ưu phiền ...
 


Nhược Thu
* Vì không biết cách nào để liên lạc, nên mạo muội viết dòng này như lời xin phép tác giã cho chép CÁNH GIÓ vào blog của tôi. Cám ơn.
HOA MUA




2014/07/04


BÊN ĐỒI

Mây nhẹ giăng giăng đồi hiu quạnh
Chim ẩn trong rừng, mỏi cánh bay
Đong đưa cành lá vờn với gió
Nhạt nắng buồn tênh bóng chiều phai

Thấp thoáng mái nhà ai ẩn hiện
Im lìm khuất giữa rặng cây che
Một chút hương thơm loài hoa dại
Quấn bước chân đi rộn lối về

Bỗng dưng thấy nhớ dòng sông cũ
Lặng lẽ trôi qua dáng cầu xưa
Vàng bông Hoàng hậu soi đường vắng
Theo dấu tình nhân buổi hẹn hò

Nhớ lắm tiếng gà nhà hàng xóm
Bên hè xao xác lá cây rơi
Hương sầu riêng gợn đùa theo gió
Trống vắng tình xưa chút ngậm ngùi

Chiều nay đứng ở bên đồi vắng
Mây trắng bay hoài mây trắng ơi
Nhưng có dòng sông nào dậy sóng
Ồ ạt ùa vào nỗi nhớ- Tôi.

Nguyễn Văn In
June 28,2014





MƯA LĂM RĂM

Giọt sầu: hạt mưa lăm răm
Lăn tăn mặt nước ao đầm buồn hiu
Dằng dai khóc sáng than chiều
Miên man gặm nhấm dặt dìu tiếng mưa.

Anh Tú
July 4, 2014
*Viết khi Colombia đấu với Brazil (1-2) - World Cup 2014

TRỞ LẠI TRƯỜNG XƯA

Ngày trở lại trường xưa
Cơn mưa sầu giăng thấp
Lá xanh kín che trời
Ta một mình ướt tóc

Đi giữa hai hàng cây
Còn thấy gì trên cao
nghe lòng mình chợt thấp
như mới thoáng hôm nào.

Ơi ! Sợi mưa như tơ
Nối chuyện tình học trò
Trong một lần thu khóc
Tạm bỏ trường mà đi !

Ngang qua dãy lớp cũ
Nghe quãng đời xưa mơ
Qua ngang vùng trí nhỏ
Rợp mát giữa lòng buồn

Lần trở lại trường xưa
Ngang hàng hoa xưa cũ
Dưới chân vương sợi nhớ
Nhưng nào ai có hay ?

Hoành Châu
1973

2014/07/03


MẮT CAY

Em sang sông mà lòng không sang
Dù xa xa nhớ nhung mang mang
Tình ly tan tình ta vẫn đẹp
Chẳng qua vì duyên phần trái ngang.

Em nơi đây! Cô đơn từng ngày.
Em nơi đây! Lệ rơi đêm dài.
Mỗi chiều vàng trông về quê cũ
Vật vờ ngày xưa mờ mắt cay!

Anh Tú
July 3, 2014
*Từ EM SANG SÔNG VỀ của Quách Đào

CHÉN TRÀ CÚNG PHẬT*

Hoa ngắm, trà châm, khóc với cười
Thế là quá đủ hởi người ơi
Đêm đen để sáng trời thêm tỏ
Mưa tạnh, mây quang, rạng góc trời.

Cách biệt lâu ngày gặp gở nhau
Niềm vui san sẽ, chén trà trao
Đời tuy quá ngắn nhưng đừng vội
Hạnh phúc là đây, sống chậm nào.

Tháng sáu qua rồi, tháng bảy đây
Bao nhiêu cảm xúc , vẫn đong đầy
Con đường đã hướng, chân thiền bước
Sao để trong trà mây mãi bay.

Biết đủ , trong ta vẫn đủ đầy
Đói ăn, khát uống, ngắm hoa lay
Ngàn năm mây trắng còn trôi mãi
Ta vẫn là ta của tháng ngày.

Dông bão ngoài kia dẫu phủ phàng
Hồn ta an tịnh, cõi thênh thang
Mỗi mai dâng cốc trà sen nóng
Lễ Phật , ngồi yên, thấy nhẹ nhàng.


Trần Văn Dõng

*Tặng Trà Thất Bước Chân Thiền Đà Lạt

2014/07/02


CÓ PHẢI EM VỀ ĐÊM NAY

Có phải em về đêm nay
Trên con đường thời gian trắc trở
Để lòng anh đèn khuya cửa ngỏ
Ngọn đèn dầu lụi bấc mắt long lanh 
Có phải em về đêm nay
Trên con đường chạy dài hoa cỏ
Cho lòng anh trở lại với lòng anh
Như lá vàng về với lá cây xanh
Trong những chiều gió đưa về cội 
Có phải em về đêm nay
Để phá tan
Những nụ cười thắt se sầu tủi
Như anh vẫn cười mà đau đớn bao nhiêu
Không biết đời người có đưa đến tin yêu
Những ngón tay có đưa đến bàn tay
Những mùa thu có đến gió heo may
Hay ngày mai là bốn bề tuyết lạnh

 Có phải em về đêm nay
Giữa lòng chiều tím lặng
Cho anh đừng tìm thấy anh
Đo đếm thời gian
Bằng những điều thuốc là tất trong đêm
Đầu gối trên cánh tay
Để giấc mơ đừng tẻ lạnh
Em đừng trách anh đã quá lo âu đời người hiu quạnh
Làm thế nào khi lòng mình nứt rạn cơ em
Dù không muốn gục ngã trong đêm
Nhưng đã bao lần đêm khuya
anh không biết đã làm thơ
Hay đã chọn âm thanh làm độc dược
Em đừng trách anh để lòng mình tủi cực
Đến ngại ngùng dù nắng dù mưa
Sao em không về
Để dù nắng dù mưa
Dù trong thời gian có sắc mầu của những thiên đàng đổ vỡ
Anh vẫn chăn chùm kín cổ
Ngủ say mềm
Vì lòng anh (em đã biết)
Có bao giờ thèm khát vô biên
Có bao giờ anh mong đừng chết -dù để làm thơ
Nên tất cả chỉ là yêu em
Và làm thơ cho đến chết
Em sẽ về, phải không em
Có gì đầu mà khó khăn, trắc trở
Chúng mình lại đi
Trên con đường chạy dài hoa cỏ
Là những đồn phòng ngự của tình yêu
Mỗi ngón tay em
Anh vẫn gọi là một cửa đào nguyên
Và anh sẽ trở lại nguyên hình
Một anh chàng làm thơ
Mà suốt đời say rượu cúc
Có phải em sẽ về
Dù bầu trời ẩm đục
Hay bầu trời trang điểm bằng mây
Anh sẽ chải tóc em bằng năm ngón tay
Trong những chiều gió thổi.

Nguyên Sa