2015/08/17


Bản Thảo Lục Bát





Một
Đạp ngàn hoa cỏ vô tâm
Dấu ghi oan khuất?
Trăng rằng gió xua
Cười, chim nhặt chút cỏ thừa
Nắng xanh, vàng sợi, ấm vừa uyên ương.

Hai 
Khuya trời trắng đục mù sương
Giọt rơi thánh thót trên đường nguyên trinh
Ơn cao, con nắng yên bình
Lóe lên ngàn sáng sóng tình nhấp nhô.

Ba
Đường thôn lắng đọng câu hò
Vòm truông tre mượt cánh cò nhẹ bay
Chan lòng tịnh lạc. Ngày nay
Thấy em trải tóc hong ngòai hiên quê.

Bốn
Mang hương rải khắp tư bề
Ngàn phương gió tụ đi về hiến dâng
Ròng phơi đất mịn bờ sông
Phù sa óng mỡ tím mồng tơi xưa.

Năm
Cũng là bụi bướm đong đưa
Lốc xô nẽo ấy bão đùa cội nghiêng
Lặng theo nhịp võng ngoan hiền
Thời gian xanh cảo qua miền nức hương

Sáu
Có con bướm lạc bên đường
Lần theo gió ngát, bóng hường nhan bay
Em xưa cuối buổi cạn ngày
Lá tre mực tím nguệch vài nét thanh

Bảy
Líu lo chuyền hát mướt xanh
Lòng Trong
Dâng tặng
Sá thành hoại chi
Nhớ em đầy buổi tà huy
Là tay cầm lấy xuân thì. Giờ đây.

Tám
Trăng soi để quãng đường dài
Thỏang nghe tiếng giục của loài chim đêm
Cánh vàng chao lệch nghiêng chênh
Bay sang bờ nhớ vòng lên đỉnh buồn.

Chín
Tôi lăn lông lốc bên triền
Tiệc ly còn thấy em hiền dưới hoa
Ở đây giọt giọt trần sa
Nắng gieo hồng má. Người xa vắng rồi.

Mười
Then cài, cửa chốt, lòng trôi
Ráng bay đêm lặng mai ngồi nắng hanh
Cây rằng mưa đổ giọt xanh
Nhành dương liểu phất nở thành hạt châu.

Mười Một
Giọt lau, lá nhẫy mượt màu
Sáng hoa cỏ ngậm sương đầu ngọn đưa
Em ngồi hóat hiện câu thơ
Chữ soi đáy nước. Lặng lờ
Liễu tri

Mười Hai
Lang thang mấy độ, quay về
Biển dâu đổi mặt câu thề còn mang
Khóat tay bụm nước trong ngần
Hạt lăn gột bụi trả dần nợ xưa.

Mười Ba
Gói dùm tôi tiếng guốc trưa
Treo cành phượng nhốt ve vừa râm ran
Mắt nheo nương ánh hôn hòang
Đùn mây lãng tử mơ màng cuối sông.

Mười Bốn
Em xưa giờ đã theo chồng
Gặp nhau cười nụ gửi lòng mười hai

Mười Lăm
Mây tôi xưa vẫn bến này
Gió ươm ướm thổi và lay lắt luồng
Mộng về xóm nhỏ hương thôn
Đèn chong hắt tiếng kinh nguồn nhắc nhau.

Mười Sáu
Áo người ta trắng hoa cau
Tóc vương hương rớt ngõ vào trường quê
Con chim mắt đỏ ven lề
Tiếng kêu ngút vẳng câu thề quạnh hiu.

Mười Bảy
Mình xưa, hội cuối, ao chiều
Cánh sen chớm nụ buồn hiu cuối đường
Em nằm ngủ. Giấc yêu đương
Tôi ôm gối hạnh cuối đường chiêm bao.

Mười Tám
Rằng mai ngụp giữa ba đào
Đồi xanh bật khóc nghẹn chào biệt ly
Ao Bà Om, cánh chim di
Về thăm bỗng gặp tiếng thì thầm xưa.

Mười Chín
Lại ngồi lên cội thu xưa
Thấy hoa ngó mởn dậy mùa thẫm xanh
Cầm trên tay giọt long lanh
Đầu sương cuối lệ vỡ thành trần sa.

Hai Mươi
Mây bay, tụ núi, mây về
Mai tan, dong ruỗi chẳng thề hẹn non
Thưa người một ánh trăng con
Hồn nhiên soi chiếu, viên tròn hằng sa

Hai Mươi Mốt
Dấu ngày bay đậu thành hư
Búp hoa hé mĩm môi Từ Tâm thơm
Bây giờ cuối buổi chiều hôm
Mặc mây phiêu trú, vén nguồn khiết khôi

Hai Mươi Hai
Lụn khuya chợt thức, mơ người
Vàng leo lét bóng nhòe trôi hững hờ
Tay gầy vo nửa câu thơ
Nửa câu thất lạc kể từ em đi.

Hai Mươi Ba
Gót son thị hiện ai về
Hoa cầm tay thả tóc thề vô ưu
Gió luồng thông thống thiên thu
Mênh mang tiếng hát lộng từ sơ khai. 

Hai Mươi Bốn
Men kinh thắm thuận dòng say
Son đôi má lúm ngực cài dịu hoa
Môi thơm ngát cõi di đà
Tiếng chim sẻ tụng
Ta bà rụng tan.

Hai Mươi Lăm
Chờ em mấy cuộc thu vàng
Cánh đơn gió ngược hướng ngàn mịt xa
Mới hay rừng lá hôm qua
Vừa thay áo mới
người ta cũng vừa..

Hai Mươi Sáu
Em về qua ngỏ ban trưa
Lỏng tay tôi
chút hương vừa đượm
bay
Bướm xinh phượng ép, xa ngày
Tình lăng lắc mấy dặm dài rỗng không.

Hai Mươi Bảy
Sóng ơi nhẹ vỗ xuôi dòng
Bến trăm năm gát tay chồng. Ngủ yên
Lặng im tiếng vạc khàn đêm
Cánh trôi vô xứ sương dìm biệt tăm.
Hai Mươi Tám
Nương dòng nhật nguyệt tôi cầm
Và buông bỏ
mặc cuộc trầm luân trôi
Mãn thu ngan ngát mây trời
Khóac vai sáu nẽo
nhõen cười gửi hoa.

Hai Mươi Chín
Sao hôm nhú buổi huy tà
Nhìn mây ngũ sắc
giang hà hợp tan
Tay thon khải nhẹ tơ đàn
Âm xa vó ngựa lẫn hàng tím sim
Vàng cam chịu
tím lặng im
Giữa hai đọt sóng
người nghiêng vóc gầy.

Ba Mươi
Mở lòng vốc một bụm mây
Xuống chân núi thả
đợi vài giọt sương
Phải duyên trong cõi vô thường
Cỏ xanh
hứng
trỗ nụ hường
nhớ nhau.

Ba Mươi Mốt
Đã từng ru, dỗ
chiêm bao
Thấy con chim hót bên rào lá xanh
Bến người
Lận đận
cam đành
Véo von chi cũng hóa thành người dưng. 

Ba Mươi Hai
Mây ngàn thả buổi triêu dương
Tiếng chim líu 
lảnh
nhớ đồng vụt bay
Rộ vàng, tự tại, đơm đầy
Bờ chân hiển lộ
cõi này hiển linh.

Ba Mươi Ba
Tạt qua cố quận
một mình
Về,
Đêm đêm trở gối , mộng hình bóng xưa
Rằng sai biệt
Rằng nắng mưa
Biết làm sao để cho vừa vọng tâm.

Ba Mươi Bốn
Dây tơ rối
gút
xích thằng
Cội đa, một cuội, quãng hằng buồn tênh
Chấp tay, niệm nhớ điều quên
Và quên phắt một thảo nguyên tít mù

Ba Mươi Lăm
Bồ đòan sen nở trầm tư
Bởi sông nên dựng
lớp phù kiều
đi!
Mấy thu tôi vẫn quay về
Vẫn vàng đêm hắt trăng thề, gọi nhau

Ba Mươi Sáu
Cuối năm sóng vỗ rì rào
Chướng xô áo lạnh
rụng vào trống không
Tù và rúc thúc bên sông
Dây hoa muống rụi tàn bông tím buồn

Ba Mươi Bảy
Biết người tóc lỡ làng buông
Che con mắt bụp
ướm nguồn lệ đau
Hẳn nghe suối lệ tơ đào
Là sênh phách gõ nhẹ vào
quãng yên.

Ba Mươi Tám
Hí trường ướm một chút duyên
Mơ phai mộng huyễn em biền biệt xa
Màn nhung khép. Phố đèn hoa
Xuống vai lau vết lệ nhoà lấm son!

Hồng Băng


2015/08/14

GỬI VỀ ANH

Em biết trước một ngày nào anh chết
Không khóc đâu tim trao hết anh rồi
Của anh dừng thì em cũng ngưng thôi
Vì nó đập đã thành đôi chung nhịp

Ta hãy sống cùng nhau cho hết kiếp
Chưa thỏa lòng thì thêm tiếp anh ơi
Chỉ bên anh em mới thấy yêu đời
Và vô nghĩa khi ông trời chia cách

Anh mãi mãi sẽ là thân tùng bách
Che liễu em thành bờ vách vững vàng
Là hải đăng giữa đêm tối mênh mang
Luôn soi sáng thuyền em không lạc lối

Có nhiều lúc tưởng tình em nông nổi
Vì yêu anh mà quá đổi đắm say
Không quên anh dầu chỉ một ngày
Giống như máu chảy dài trong cơ thể

Không thể thiếu vì cùng là hơi thở
Mình yêu hoài đừng dang dở nghe anh
Nụ hôn em bao năm tháng để dành
Cho yêu dấu…chính là anh đó nhé!!!

Hồng Yến

Bài họa:

GỬI VỀ EM

Anh chỉ khóc nếu khi nào em chết
Dù tình yêu đã gởi trọn em rồi
Vì giòng máu chảy không thể ngừng/ thôi
Mà hứa giữ thủy chung tình bất diệt.

Quá tuyệt vời khi bên nhau trọn kiếp
Hãy xướng tùy phu phụ nhé em ơi
Kính thương trao nhau làm đẹp cuộc đời
Sẽ vô nghĩa lúc số phần chia cách.

Cám ơn em, xem anh là tùng bách
Em cũng là mạch sống chuyện đá vàng
Ta tựa nương trong đời sống mênh mang
Là ánh sáng của nhau soi rõ lối.

Chuyện thường tình với phút giây nông nổi
Làm đậm đà thêm vị ngọt đắm say
Tỏa ngát hương thơm dàn trải tháng ngày
Nuôi tình ta như máu nuôi cơ thể.

Sợi chỉ hồng, khi rong chơi trần thế
Trời buộc chặc ràng duyên nợ em/ anh
Trao tất cả nụ hôn… chẳng dụm dành
Để tận hưởng những gì ta có được.

Anh Tú
August 14, 2015


Vệ Tinh Siêu Nhỏ

2015/08/11

Góp Nước Miếng Húp Chung

Nhà có đám giỗ, chị Hương hớn hở nói với đứa con trai: “Sao không mời con Da-Ni-Phờ đến ăn cho vui? Con bé nầy dễ thương, vui vẻ, và ưa lăn vô bếp lăng xăng làm việc nầy việc nọ. Có khi giành rửa cả núi chén bát, mà mặt vẫn tươi như hoa nở.”
Trân thẳng thắn trả lới mẹ: “Nó ớn thấu óc lối ăn uống nhà mình rồi mẹ à. Nó nói thiếu vệ sinh, dễ lây lan truyền nhiễm bệnh từ người nầy qua người khác.”
“Sao vậy?” Chị Hương tròn mắt ngạc nhiên hỏi.
Trân rùn vai: “Nó nói nhà mình ăn đũa, ngậm vào miệng, rồi gắp thức ăn trong dĩa chung. Dính cả nước miếng, đờm dãi của người khác. Có người mang bệnh truyền nhiễm, không ai biết, rồi lây lan cho mọi người. Dơ dáy.”
Chị Hương gằn giọng: “Dơ dáy? Tụi bây hôn môi, ngoạm mồm, trún nước bọt cho nhau, dễ thường vệ sinh sạch sẽ hơn ăn đũa sao?”
Trân không dám cãi lại mẹ, lảng đi nơi khác. Bố của Trân hạ cuốn sách xuống nhìn bà vợ, rồi cười:
“Tôi đã nói với bà nhiều rồi, đừng dùng đũa gắp thức ăn cho ai cả. Mấy lần bà mút đũa cho sạch, rồi gắp thức ăn bỏ vào dĩa cho con Da-Ni-Phờ, tôi thấy cái mặt nó cứng sượng lại, dáng điệu sợ hãi lắm, cứ nhìn chăm chăm vào miếng ăn bà vừa gắp cho nó, mà không dám đụng đến. Bà gắp cho tôi thì được, chứ đừng nên gắp cho ai cả. Ngay cả bạn bè thân thiết hay con cái trong nhà cũng đừng. Riêng tôi với bà, thì xem như một, tôi không sợ cái dơ của bà, bà không sợ tôi lây bệnh. Đó là chuyện riêng của vợ chồng. Nhưng có lẽ, ngay cả vợ chồng, cũng không nên dùng đũa gắp bỏ cho nhau.”
Chị Hương hừ một tiếng, giọng giận hờn: “Người ta có thương, có quan tâm, mới gắp miếng ngon mời ăn. Nếu không thì mặc kệ. Hơi đâu mà tốn sức!”
Ông chồng chị tiếp lời: “Bà có cái thói dùng đũa sục sạo, moi móc, đão lộn thức ăn trong dĩa, tìm miếng ngon bỏ cho người khác. Cái tâm của bà tốt thật, nhưng hành động đó không hợp với văn minh chút nào.”
“Ưà, tui dã man mọi rợ như vậy đó. Ai chịu thì chịu, không chịu thì thôi!”
“Ai mà dám không chịu bà? Bà bỏ đói cho vêu mỏ ra thì khốn. Nhưng tôi có nhận xét sau đây, nói ra bà đừng buồn giận nghe! Bà học được cái thói đão thức ăn trong diã của mẹ bà. Mỗi lần về thăm ông bà cụ, trong bữa ăn tôi ớn lắm. Có lần ăn thịt gà bóp rau răm, mẹ dùng tay bốc và xé thịt bỏ vào chén tôi. Nhìn mười ngón tay của mẹ, móng dài, đóng khớm đất đen ngòm. Tôi cũng ớn lạnh. Mắt tôi muốn nổ đôm đốm. Tôi cứ hốt hoảng bảo xin mẹ để cho con tự nhiên, trong nhà cả mà, con đâu dám khách sáo. Nhưng mẹ cứ bốc bỏ thêm vào chén tôi. Tôi biết đó là tình thương, là lòng tốt của mẹ dành cho con rể, không thể phụ lòng mà từ chối, không đổ đi được, sợ mẹ buồn. Tôi nín thở nhắm mắt mà nuốt trỏng, không dám nhai, nó cứ nhờn nhợn trong cổ, nuốt hoài không xuống. Cứ nghĩ phải ăn các thứ vi khuẩn, vi trùng, sán lãi, chất dơ bẩn dính trong mười cái móng tay đen điu đó, không nổi gai ốc sao được. Chúng ta phải can đảm mà công nhận cái chưa đúng, lối sống thiếu vệ sinh của mình. Tìm cách cải tiến sửa đổi cho hợp với thời đại văn minh hơn. Nhiều lần tôi đề nghị ăn đũa hai đầu như thời xưa mấy người đi kháng chiến chống Pháp trong bưng biền, mà không ai chịu.”
Bà Hương cười chế diễu: “Ăn đũa hai đầu văn minh lắm hay sao! Mấy người đó, ở trong rừng đặt bày chuyện vệ sinh, khi về thành, có còn ai dùng đũa hai đầu nữa đâu. Hai đầu đũa đều dính dơ, dễ quệt vào áo quần. Khi muốn tạm gác đũa cũng không được, không biết gác vào đâu. Thêm lúng túng vụng về. Tôi nhớ nhiều lần ông đề nghị để thêm vài ba đôi đũa chung trên mâm cơm, để cả muỗng chung vào các dĩa thức ăn, khi gắp, thì dùng các thứ đũa muỗng chung đó. Thế mà ngay chính ông, cứ lẫn lộn, cầm đũa chung mà ăn, dùng đũa riêng mà gắp, lẫn lộn nhau, được năm ba hôm, phiền phức quá, rồi cũng dẹp. Chính ông phá chứ không ai cả.”
Ông chống bà rùn vai cười gượng: “Đúng. Tôi cứ lẫn lộn mãi vì quen thói cũ. Nếu chúng ta cứ tập lần lần, kiên nhẫn theo, rồi thành quen và sẽ không lẫn lộn nữa. Cái gì cũng phải tập, thói quen mấy chục năm từ ngày còn thơ ấu, đâu thể bỏ ngay được?”
Ông chồng bà Hương thở một tiếng rất dài, tằng hắng rồi nói:
“Cách ăn uống ở quê tôi còn thiếu vệ sinh hơn nhiều. Một lần tôi về thăm, được mời cơm chiều. Chiếu trải trên giường, mâm cơm có hai tô canh, một dĩa rau luộc lớn, một tô nước chấm bằng mắm nêm pha loảng với ớt cay, tỏi bằm, thêm một dĩa mắm cà vun. Quanh mâm cơm có tám người, hai ông bà nội, hai vợ chồng, ba đứa con, và tôi. Đường xa, đói bụng, nhìn mâm cơm tuy thanh đạm, nhưng tôi đã cảm được cái ngon trong tô canh, trong diã rau luộc và tô nước chấm cay xè. Cả nhà, ai cũng đua nhau ăn mau như vũ bảo. Mọi người dùng đũa gắp rau, rồi nhúng vào chén nước chấm chung, quậy quậy đũa, rồi đưa thẳng vào mồm. Thỉnh thoảng có người đang nhai nhồm nhoàm cơm đầy trong miệng, cầm tô canh lên húp một tiếng ‘rột’, rồi bỏ xuống, người khác bắt chước, cầm tô húp theo. Tô nước chấm hòa đủ nước miếng của mọi người trong nhà qua đôi đũa, càng ngày càng loảng và nhạt ra. Tôi đi đường xa, tuy bụng đói, nhưng cũng ngại ngần, không dám ăn rau luộc, không dám chan canh, chỉ khười khười mấy trái mắm cà, vì món nầy ít bị những đôi đũa xáo trộn.”
Ngưng một lát, ông chồng nói tiếp: “Đừng hỏi tại sao không chia cho mỗi người một chén nước chấm riêng. Nhà nghèo, chén đâu có nhiều mà bày ra. Dù nếu có được chén, cũng không thể đủ nhiều nước chấm để chia riêng cho từng người vài muỗng. Bởi thế, khi trong nhà có người bị bệnh truyền nhiễm thì nó lây lan vô tội vạ. Rán mà chịu. Nhưng thật ra, thì không biết làm sao hơn. Biết đâu đó cũng là một cách chủng ngừa lạc hậu nhưng lại hiệu nghiệm.”
Anh con trai tán thêm: “Khi nào đi ăn tiệc, con tránh ngồi chung bàn với ông Tư, dì Sáu, chú Tám. Mấy người nầy ăn uống tự nhiên, dễ dàng. Cứ dùng đũa đào bới lật qua lật lại thức ăn trong dĩa, gắp miếng nầy lên, bỏ miếng kia xuống, cho đũa chạy rong từ dĩa nầy qua dĩa khác để tìm gắp những miếng ăn mà họ vừa ý. Có mấy người khách chung bàn cứ nhíu mày, mắt theo dõi chăm chăm các đôi đũa đang sục sạo, có lẽ để tránh các nơi thức ăn đã bị đũa người khác nhúng vào rồi. Con thì cứ cười cười, quan sát nét mặt bất bình, không vui của những người sợ, và cái hớn hở thản nhiên của người đang dùng đũa bới đào chọn lựa, tìm được miếng ngon, thấy mà thương. Bác Ngô nói với con rằng, thường chỉ ăn được mấy miếng đầu tiên, khi những đôi đũa dơ dáy chưa đào xới diã thức ăn. Sau đó, bác gác đũa, ngồi nói chuyện vui. Bởi thế, mỗi lần phải đi dự tiệc tùng, bác bèn ăn cơm nguội trước ở nhà cho lưng lửng bụng mới ra đi. Bác nói tiếp, có thể người ta sạch sẽ vệ sinh hơn bác, nhưng bác không muốn ăn nước bọt, uống đờm dãi của người khác.”
Bà Hương trừng mắt gắt: “Thôi, thôi, mẹ không muốn nghe cái lối nói thiếu tử tế đó. Việc chi mà kêu là uống đờm dãi của người khác, nghe không lọt tai. Nên ăn nói cho thanh lịch, tử tế hơn. Ông ấy đâu có vệ sinh văn minh chi hơn ai mà bày đặt chê bai.”
Ông chồng bà Hương thấy vợ nỗi cáu, quay qua nháy mắt với anh con trai, và hạ giọng nói riêng với nó:
“Lần nọ ăn tiệc, ba ngồi gần bà chị hàng xóm cũ. Bà nầy quen thân từ nhỏ. Ngồi gần nhau, bà vui mừng nói chuyện tíu tít. Bà cho biết mới bị bệnh cúm xong, chưa lành hẳn, lâu lâu bà hắt xì nhảy mũi, lấy khăn xịt mũi xì xì, và ho sù sụ. Ba cũng sợ lây bệnh lắm, nhưng đành phó mặc cho Trời, và cầu sao đừng bị lây. Chị em lâu ngày gặp lại nhau, dù về nhà có bị bệnh, cũng đành chấp nhận. Nhưng chị cứ dùng đũa của chị, gắp thức ăn bỏ vào chén của ba mãi. Ba cứ van lơn cầu khẩn chị để cho ba tự nhiên, ưa ăn món nào thì sẽ tự gắp. Nhưng chị không chịu, cứ gắp bỏ cho ba hoài. Ba buồn lắm, nhưng không biết làm sao. Thấy dĩa thức ăn của ba cứ đầy vun, chị hỏi sao không ăn, ba  ngại ngần giả vờ nhăn mặt, nói rằng bỗng  nhiên nghe  đau quặn trong bụng. Rồi ba chỉ uống nước cho đến khi tiệc tàn.”
Anh con trai cười thích thú kể cho hai ông bà nghe: “Ba mẹ có biết không, thằng James nó nói ăn lẩu là “góp nước miếng húp chung”. Mọi người đều gắp tôm cá thịt, rau, nhúng vào nồi, nhận chìm rau, quậy vục, chờ sôi, thọc đũa riêng vào mà vớt, mò, đôi khi lại dùng cả muỗng riêng mà múc nước húp, rồi cho vào chén. Mọi người đều cùng làm một động tác như nhau, không ai ngán ai lây truyền bệnh hoạn. Không biết nồi lẫu sôi có giết hết được các loài vi khuẩn, vi trùng hay không. Bởi thế, khi có ai mời di ăn món lẫu, nó thẳng thừng từ chối ngay, con cũng thế. Con ngán nhất những bữa cơm chung, khi có người kêu canh chua cá bông lau, nghe đề nghị là con can ngay. Vì cũng như ăn lẩu, mọi người vui vẻ thọc đũa vào tô canh mò, vớt cá ra dĩa, rồi thọc đũa riêng vào mà dày xéo xâu xé con cá. Có lẽ họ nghĩ nước mắm mặn cũng đủ giết chết vi trùng, vi khuần rồi chăng? Bởi vậy, khi nào ăn lẩu, ăn canh chua là không có con.”
Chị Hương tiếp lời anh con trai: “Người mình ăn đũa, dù cho là thiếu vệ sinh, nhưng đã chết ai đâu mà ầm ĩ?”
Ống chồng chị đưa tay ngắt râu ngứa, rồi từ tốn nói: “Có chắc chưa chết ai không? Thế mà thống kê cho biết, chỉ tại Hoa Kỳ thôi, số người bị lây nhiễm qua đường miệng do ăn uống  hàng năm có đến gần 50 triệu người, mà 130 ngàn người phải đưa vào bệnh viện, và chết hơn ba ngàn người. Còn Việt Nam mình không có thống kê, cứ lặng lẽ truyền bệnh, âm thầm mà chết. Tôi nghĩ rằng, sở dĩ người Việt Nam mình đông đảo người bị bệnh gan, là hậu quả của ăn đũa. Đôi đũa, gây đại họa, đôi đũa bí mật giết người.”  
Chị Hương đã yếu giọng: “Chi đến nỗi bi thảm đến thế? Dễ chừng những xứ không ăn đũa ít bị bệnh gan hơn chăng?”
Anh con trai xen vào: “Ba nói đúng đó mẹ à. Bố mẹ của bạn con, mười người chết, thì có đến năm sáu người chết vì bệnh gan, chai gan, ung thư gan, bệnh gan B, bệnh gan C. Rồi mới đến bệnh tim,  ung thư phổi, tử cung, ruột. Bác Sáu nói rằng, không hiểu sao những người hay về Việt Nam chơi, khi trở lại Mỹ, thường bị bệnh gan mà chết. Nói thế thì có lẽ cũng không đúng hẳn, không lẽ chỉ họ chết mà người bên Việt Nam mình không sao?”
Chị Hương lên giọng: “Đôi đũa cũng được xem như là một phát minh quan trọng của loài người. Là một bước tiến của nền văn minh cổ đại. Dùng đũa, có nhiều điều kỳ diệu. Còn bao hàm một cả triết lý của đông phương. Đó là nguyên lý âm dương, ngũ hành, kết hợp giữa thế động và thế tĩnh, động là chiểc đũa trên di động, tĩnh là chiếc dưới nằm yên. Đũa tiện dụng, có thể đào, bới, kẹp, lùa, xắn, cắt, xé, phân nhỏ, xiên, đè, quẹt, hất, giữ. Chỉ đôi đũa thôi, nó còn đa năng hơn hai ngón tay, hơn con dao, hơn cả muỗng nĩa. Đũa chỉ không gắp được chất lỏng mà thôi. Có lẽ vào thời xa xưa nào đó, khi còn ăn lông ở lỗ, tổ tiên chúng ta đã dùng que, nhánh mà khều thức ăn nướng trong lửa nóng. Ban đầu dùng một thanh, sau đó dùng hai thanh mà gắp, thấy thuận tiện, nên đôi đũa được phát sinh. Cũng có học giả cho rằng, loài người bắt chước những con chim mỏ dài gắp cá mà làm nên đôi đũa. Khi tay dơ dáy, dính đầy bùn đất, không muốn bốc thức ăn đưa lên miệng, dùng đũa là giải pháp tốt nhất.” - Ngưng một lúc, chị nói tiếp - “Dùng đũa, còn vệ sinh hơn dùng tay mà bốc như cách ăn của người Ấn Độ, Trung Đông. Đang  ăn, ngứa đầu đưa tay lên gãi tóc,  ngứa mông thọc tay vào quần gãi, rồi cũng bàn tay đó, bốc thức ăn cho vào miệng. Ăn đũa không rườm rà như ăn bằng dao, nĩa, muỗng của người Âu Châu. Người Nhật, người Hàn cũng dùng đũa, họ bày đặt ra những quy định riêng khá nghiêm ngặt khi sử dụng đũa, cũng bảo đảm được phần nào vệ sinh trong  khi ăn chung.”
Anh con trai góp chuyện: “Con nghe chú Tú kể rằng, thời mới được tàu Nhật vớt trong khi vượt biển. Đến Nhật tình cờ gặp được người bạn cũ vào thời du học tại Mỹ trước đây.  Được bạn mời cơm nhiều lần, và chú đã phạm phải nhiều sai sót khi dùng đũa. Vì người Nhật đã đưa nghệ thuật ăn đũa thành một thứ văn hoá, với nhiều quy định chặt chẽ.  Chú cứ gắp thức ăn từ dĩa, lia lịa đưa thẳng vào miệng. Chủ nhà vì lịch sự không nói, nhưng có vẻ không bằng lòng. Trong khi đang ăn, nhiều lúc chú tạm gác đũa qua chén. Làm chủ nhà tròn mắt ngơ ngác. Với người Nhật, đây là một hành động cực kỳ vô phép, xúc phạm đến người nấu ăn, ý muốn nhắn rằng, đồ ăn dở như hạch, hay là tôi cóc cần các thức ăn nầy. Có khi chú đã dùng đũa đâm xiên vào cục thịt, cũng là một hành động vô lễ, giống như thử xem thức ăn đã nấu chín hay chưa. Sau nầy, chú đọc sách,  học được nhiều quy tắc trong khi dùng đũa của người Nhật. Ví như không được ngậm đũa trên miệng, không được dùng đũa đề chuyền thức ăn cho nhau, giống hành động gắp tro xương người chết.  Không cắm đôi đũa vào tô cơm, đũa chỉ được cắm vào tô cơm cúng người chết mà thôi. Cũng không được dùng đũa để chuyển dịch tô chén trên bàn ăn. Không được nhảy đũa từ món nầy qua món kia. Không mút đũa. Không dùng đũa khoắng trong tô canh. Khi gắp món ăn, gắp từ miếng nằm trên dần xuống miếng dưới, chứ không đào bới tìm miếng ngon vừa ý. Kể ra những quy tắc đó, có nhiều phần đúng với phép vệ sinh, nhưng cũng có nhiều cái mang nặng tính cách quy định không cần thiết. Nếu ăn đũa theo người Nhật, cũng bớt được phần nào truyền nhiễm bệnh từ nước miếng khi ăn chung.”
Sau khi pha cho chồng và con hai ly nước trái cây, chị Hương lục lọi trong tủ đựng các dĩa phim, rồi bảo sẽ cho chồng xem nghệ thuật cao siêu của người sử dụng đũa thuần thục. Trên màn ảnh truyền hình hiện lên một kiếm khách xứ Phù Tang, đầu đội nón rê xùm xụp, mang áo tơi lá, trông tơi tả nhếch nhác như một kẻ ăn mày, khệnh khạng bước vô quán,  xem như chung quanh không còn ai. Lặng lẽ nâng cốc cạn rượu. Bỗng từ phía bàn kia, có người ném một ‘ám khí’ bay vụt thẳng vào mặt kiếm khách. Không né tránh, không vội vàng, kiếm khách cầm đôi đũa lên, gắp được miếng ám khí đang bay, vụt hất ngược lại, địch thủ thét lên một tiếng đau đớn mà ngã lăn quay ra chết. Rồi cũng đôi đũa đó, gắp lia lịa giết bọn ruồi nhặng đang bay vo ve trên dĩa thức ăn.
Anh chồng chị Hương vỗ đùi cười vang mà nói: “Xạo  gần bằng chuyện đội phụ nữ anh hùng Thanh Hóa dùng cù ngéo tre móc rớt máy bay ‘Con Ma’ bắt giặc lái Mỹ.”
Chị Hương hỏi chồng: “Ngày nay văn minh, cả thế giới như đã thu hẹp lại. Hiểu biết và văn hóa phổ biến khắp nơi, thì tại sao các dân tộc ăn bốc không biết cải thiện, mà dùng dao nĩa, dùng đũa? Không biết dân Ấn Độ ăn bốc có vục tay vào tô cà ri mà thay muỗng, đưa lên miệng húp sồn sột, rồi mút và liếm bàn tay hay không? Có lẽ là không. Có thể họ đổ ra tô, diã của họ, rồi chấm mút chăng?”
Chồng chị Hương thong thả: “Nghe đâu ăn bốc, theo quy định, chỉ được bốc bằng các ngón của tay mặt mà thôi, tay trái được nghỉ ngơi, có lẽ vì tay trái chỉ xử dụng để làm những việc dơ dáy. Món ăn nào bị bàn tay trái của người khác đụng vào, thì xem như đã bị ô nhiễm, không ai dám đụng đến nữa, phải bỏ đi. Người ta khinh bỉ người ăn bằng tay trái, bị xem là hạ tiện, bất lịch sự. Trong truyện ‘Ngàn Lẻ Một Đêm’ của dân  Ả Rập có kể chuyện một thương gia giàu có, vì ăn tỏi hôi tay, nên bị người tình là bà hoàng, chặt mất bàn tay mặt, phải dùng tay trái trong lúc ăn, ông ta bị khinh bỉ, hất hủi, miệt thị.
Khi bốc những thức ăn rời rạc như cơm, đậu, thì chúm các ngón tay mà vít lên, rồi lật ngữa bàn tay, để thức ăn vào giữa bốn ngón, sau đó dùng ngón tay cái mà lùa vô miệng. Không để thức ăn trong lòng bàn tay. Không bốc thức ăn từ dĩa đưa thẳng vào miệng. Ăn quen thì cũng gọn gàng, không bôi tèm lem vào râu ria, môi miệng.”
“Ăn bốc có gì hay mà không thay đổi nhĩ?” Chị Hương hỏi vẩn vơ.
Trân, con trai bà Hương trước đây có cô bạn gái người Ấn Độ, hay lui tới và định ‘kết’ với cô nầy, nên đã tìm hiểu, bèn giải thích cho mẹ:
“Ăn bốc cũng có cái triết lý cao siêu riêng của nó, chứ không phải là dã man, chưa văn minh, chưa biết dùng đến đũa hay dao nĩa. Họ quan niệm rằng, ăn bốc là một phối hợp kỳ diệu của ngũ hành với hệ thống thần kinh não bộ, nối liền với hệ thống bộ tiêu hoá, có nhiều ích lợi dinh dưỡng cho đời sống. Họ quan niệm năm ngón tay hàm chứa năng lực ‘ngũ hành’. Ngón cái là tiêu biểu cho lửa, ngón trỏ là khí, ngón giữa là trời, ngón đeo nhẫn là đất, ngón út là nước. Nếu mất thăng bằng của ‘ngũ hành’ nầy, thì dễ sinh bệnh hoạn. Khi ăn bằng tay, bốc bằng năm ngón, thì năm thứ năng lượng tiềm tàng nầy đi theo thức ăn mà vào cơ thể, làm cho thức ăn thành một món thuốc, chữa lành các bệnh hoạn, tăng sinh lực cho các vùng yếu đuối của cơ thể. Khi bốc bằng tay, thì cái xúc giác đưa tín hiệu lên não bộ, vào hệ thống kinh mạch, nên bao tử biết để đón nhận, và chấp nhận, tiết ra những dịch vị thích ứng, cho nên thực phẩm dễ tiêu hoá hơn. Mấy ngón tay cũng là cái nhiệt kế đo lường độ nóng lạnh của thực phẩm, để khỏi phỏng miệng la làng.”
Chị Hương cười: “Bày đặt! Tưởng tượng! Có chi chắc là nước, lửa, trời, đất, khí nằm trên năm ngón tay? Người ta tưởng rằng, ăn dao nĩa là văn minh và thuận tiện nhất. Không hẵn. Trước tiên, phải cho mỗi người một bộ. Dao nĩa cũng không thuận lợi bằng đôi đũa. Phở mà ăn bằng nĩa thì bất tiện lắm. Không thể nào câu sợi phở lên, cũng không thể quấn vòng vòng như ăn mì sợi, nó tuột mất. Thử xem, khi muốn gắp cục xương, dùng đũa vẫn dễ dàng hơn dùng nĩa, cục xương nằm chênh vênh trên cái nĩa, rất dễ rơi rớt ra bàn, văng vào áo quần người khác. Ăn bằng dao nĩa, phải phối hợp với ăn bốc. Như ăn bánh mì, họ phài dùng tay mà xé, ăn gà nướng, cũng bốc bằng tay. Nếu dùng đũa, thì không cần phải bốc bao giờ.”
Trân kể cho bố mẹ nghe rằng, sở dĩ con Da-Ni-Phờ không dám đến nhà ăn nữa, vì năm ngoái, nó đi du lịch bên Việt Nam với bạn. Chúng nó nghe nói thức ăn của các bà bán hàng rong rất ngon. Chúng ăn bún ốc. Ăn mỗi đứa ba tô ngon lành. Khi ăn thì chúng không để ý. Khi thấy chị hàng rong rửa tô trong một cái chậu nước nhỏ, và lau bằng cái khăn ướt ngã màu đen điu, mà trước đó nó thấy đàn ruồi bu đen, chạy nhảy trên khăn. Nó chợt nhận ra chậu nước đó đã rửa cả hàng chục cái tô của hàng trăm thực khách, bao nhiêu dơ dáy đều gom lại trong đó hết. Nó nghe dờn dợn trong cổ họng, rồi quay ra, kê đầu vào gốc cây mà nôn thốc nôn tháo ra hết. Nó tởn, không dám đụng đến các gánh hàng rong nữa. Sau đó, con Da-Ni-Phờ còn thấy tận mắt các bà bán hàng móc túi thối tiền, những tờ đen điu bèo nhèo dơ dáy, rồi cũng dùng bàn tay trần đó, bốc thịt, bốc rau, nhón tiêu hành, thả vào các tô chén cho thực khách ăn. Nó khiếp vía từ đó.
Chị Hương nói với Trân: “Con cứ kêu con Da-Ni-Phờ đến ăn đám giỗ cho vui. Nói cho nó biết, sẽ cho nó một dĩa riêng thức ăn, không chung đụng với ai cả. Con bé nầy dễ thương vui vẻ. Mỗi xứ có cái văn hoá riêng. Ai cũng tự hào về văn minh của mình. Đừng ai chê ai. Ăn bốc cũng tốt, ăn bằng dao nĩa cũng hay, nhưng tốt và tiện nhất là ăn đũa như chúng ta.”
Trân tiếp ý mẹ: “Thế sao chúng ta không phối hợp giữa dao nĩa, và đôi đũa mà ăn uống cho vệ sinh? Có đũa muỗng riêng, đũa muỗng chung, không ai ngại ai. Như thế thì có vệ sinh hơn không. Ngày nay, đũa muỗng cũng rẻ rề, mua bao nhiêu cũng có. Cứ tập dần, cái gì hay thì theo, cái gì không tốt thì bỏ đi.”
Chị Hương nghĩ ngợi một lúc, vui vẻ nói: “Mẹ tán thành ý kiến của con. Kể từ ngày mai, sẽ thi hành. Trong bữa ăn ai vi phạm sẽ xử phạt bằng tiền. Mẹ chắc Ba con sẽ bị phạt dài dài đó. Phạt mãi, sợ tốn tiền, thì sẽ tuân thủ mau.”
Ông chồng chị quay lại nói lớn: “Ừ, ừ, để xem ai bị phạt nhiều hơn ai cho biết. Bà cứ chê tôi hoài!” ./.

Tràm Cà Mau 2015
03/28/15

*Cám ơn anh Trần Tấn Đạt giới thiệu.

2015/08/09

Bài Ca Sát Thát

Đoàn người ấy mọc lên trong sa mạc, 
Cả một rừng gươm trên lưng ngựa trường thành 
Đoàn quân ấy từ phương Đông xuất phát, 
Lũ con hoang bất trị của trời xanh 
Chỉ nhắp có hơi men sung sát, 
Chỉ say sưa bằng những miếng giao tranh, 
Nhằm hướng Phi châu 
Ngựa vọt tới đâu là đời sống tan tành, 
Biển ngập máu còn mang tên Hồng Hải 
Cờ phất Âu châu, 
Ngựa giẫm tới đâu là xương phơi thịt vãi 
Biển đeo tang còn Hắc Hải ghi danh... 


Như ngọn cuồng lưu, như cơn bão cát 
Từ Mông Cổ, Tân Cương đến Ba Tư Bạch Đát, 
Trở về Hoa Hạ, Yên kinh 
Lũ Thiên triều từng Bắc chiến, Tây chinh 
Lẽ nào để một phương không xéo nát! 
Trời Nam riêng cõi thanh bình 
Lẽ nào để chiếc ngai vàng Thát Đát 
Ba chân trời Đại Lục đứng chênh vênh! 

Hay đâu: Bắc phương vừa quẫy đuôi kình 
Rồng thiên sớm đã cựa mình Nam phương 
Trần triều hai Thánh Đế 
Hưng Đạo một Đại Vương 
Hội mở Diên Hồng, đất nước vang rền khí thế, 
Hịch truyền Vạn Kiếp, trời mây sáng rực văn chương. 
Ý gửi tự muôn dân, lệnh trao từ chín bệ 
Thì nắm đầu giặc như chơi, cướp giáo giặc cũng dễ. 
Đây cửa sông Hàm Tử, bến đò Chương Dương! 
“Nuốt sao Ngưu” chẳng phải việc hoang đường 
Nam phương cường, Bắc phương cường! 
Máu đào loang sóng Phú Lương mấy lần... 

Sét nổ trăm hai ngọn ải Tần, 
Giang hoài biên tỉnh lại ra quân 
Năm mươi vạn tinh binh ruổi ngựa 
Tràn xuống Thăng Long như một khu rừng bốc lửa. 
Những “Cây Sắt” con nòi Thiết Mộc Chân! 

Giống Hồng Lạc giữa hai đường sanh tử 
Trông lên sợi tóc buộc ngàn cân 
Chợt đâu đó xé rèm mây quá khứ, 
Xa thăm thẳm mấy ngàn năm Việt sử 
Rọi về tia mắt tiền nhân: 
Thiêu tàn khoảnh khắc bao do dự 
Cả thép vô danh cũng rực ánh gươm thần... 

Sát cánh vua cùng dân 
Chung lòng với tướng quân 
“Phá cường địch” cờ ai sáu chữ 
Báo hoàng ân là báo quốc ân 
Trăm họ chẳng ai còn lưỡng lự 
Sông núi nào riêng một họ Trần. 
Bình Than lạ nổi phong vân 
Một gươm Tiết chế hai lần trao tay. 

Lời Đại Vương truyền nín cỏ cây 
Ba quân hào khí ngất tầng mây 
Vụt nghe tướng lệnh, vươn mình thét: 
-Sông Bạch Đằng tôi có mặt đây! 
Hán hồ cũng đến chôn thây 
Trước sau một khúc sông này mà thôi... 

Triều non bạc lên ngôi, giờ lịch sử 
Và xuống ngôi, theo lệnh Đại Vương truyền. 
Nước rút đi, như ngàn vạn mũi tên 
Lấy Đông Hải làm bia nhằm bắn tới 
Một ám hiệu Kình nghê vừa mắc lưới, 
Thuyền Vương Sư liền quật khởi tranh phong 
Tay chèo nổi ngược cơn dông 
Tiêng hò “Sát Thát” vang sông ngập bờ. 

Duyên Giang một giải, 
Lau cũng phất cờ 
Mùa xuân gần cuối 
Vẫn sóng bay hoa 
Ngang trời động sấm tháng ba, 
Dọc sông chớp giật, sáng loà gươm đao... 

Cũng nơi đây Bạch Đằng Giang một khúc, 
Ngô Vương từng chém Hoằng Thao 
Gió mây thôi thúc 
Quằn quại ba đào 
Chợt tưởng niệm máu càng sôi sục, 
Tinh thần quyết thắng bốc lên cao. 

Thế phản công làm giặc dữ nôn nao 
Chúng hoảng hốt vội thu quân về thượng lưu sông Bạch, 
Nhưng số phận Hung nô, người phương Nam đã vạch, 
Hỡi ơi, bằng giáo sắt cắm ngang sông 
Đáy trường giang là cả một bàn chông 
Nằm đợi sẵn khi thuỷ triều xuống thấp 
Đoàn thuyền giặc lui qua bị xô nghiêng, lật sấp 
Bị xé ra từng mảng vở tan thây... 

Giữa lúc rồng thiêng mở vuốt tung mây 
Quân tiếp ứng của Vương Sư ào xuất trận 
Và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn 
Hiện ra như một vị thần linh 
Chớp mắt trên sông bặt sóng kình 
Thế là đã nơi này bỏ xác 
Lũ con hoang của trời sa mạc 
Khắp Á, Âu từng vạn lý trường chinh 
Bọn chúng ngờ đâu một sớm cõi Lý Minh 
Thân bách chiến bỗng quay về hột cát 
Trôi theo sóng cả tiếng tăm nòi Thát Đát 
Cả giấc mơ xâm lược chúa Hồ Nguyên... 

Ấy ai qua chốn giang biên 
Khói đầy khoang giấc sầu miên lạnh lùng 
Tiếng kình vang đợt sóng rung 
Có nghe chăng có thẹn thùng người xưa? 
Riêng ai nước cũ mây mờ 
“Thái Bình Diên Yến” câu thơ lệ nhoà 
Tháng Giêng kỷ niệm Đống Đa 
Sông Đằng kỷ niệm tháng ba mấy lần? 

Đầu mùa xuân, cuối mùa xuân 
Cánh tay Đế Nguyễn, Vương Trần nào ai? 


Vũ Hoàng Chương
1962