2016/03/06

Anh Về Mùa Xuân


Ảnh: Lê Kim Tuyết

Xuân này anh đến bên em
Em không còn tựa bên rèm trông anh
Anh về! Có mắt long lanh
Có chén rượu ngọt tình xanh má hồng.

Anh về đem khối tình nồng
Như dòng hơi ấm sưởi lòng em yêu
Chân trời rực áng mây chiều
Như bình minh đến mang nhiều ước mơ.

Xuân này thỏa dạ mong chờ
Bao năm mòn mõi mịt mờ bóng anh
Trên trời có áng mây xanh
Dưới đất em có tình anh tuyệt vời!

Anh Tú
HÃY LÀ TIA NẮNG*

Cho xin một chút nắng hồng
Gởi anh ấm áp mùa đông lạnh lùng
Cái gì như thể nhớ nhung
Chỉ là ảo ảnh nghìn trùng cách xa
Tình yêu vẫn cứ mượt mà
Dẫu cho phai nhạt sắc ngà hương sen
Thôi thì có lạ hay quen
Hãy như tia nắng nhẹ len vào hồn!

My Nguyễn
06/3/2016
*Họa từ:

2016/03/05

Năn Nỉ*

Cho em năn nỉ đi mà 
Giận chi mà giận người ta, giận hoài 
Giận gì mà cứ giận dai 
Nói năng cụt ngủn, mặt mày khó khăn 
Coi kià, cái trán nhăn nhăn 
Cái miệng mím mím, hàm răng đâu rồỉ 
Khoe răng một tí em coi 
Cho em nhìn cái nụ cười dễ thương 

Chiều ni anh giận, em buồn 
Anh làm cho bóng hoàng hôn âu sầu 
Em không năn nỉ nữa đâu 
Vì em cũng thấy sao sao trong lòng 
Hình như là một chút hờn 
Chút ghen, chút giận vẫn còn đâu đây 
Tại anh em mớị... như vầy 
Trái tim sao đựng thật đầy nhớ nhung? 

Sương Mai
*cho anh yêu 
"Tìm Mình"*

Tìm mình tìm mãi chẳng ra,
Hoài công một kiếp bôn ba cõi đời.
Tuổi xuân lãng phí mất rồi,
Tuổi già còm cõi một thời lãng du.

Mặc Thái Thủy
Mesa, AZ
Mar.2 , 2016 

2016/03/04

EM GOM TẤT CẢ

Em gom tất cả nắng hồng
Tặng anh sưởi ấm trời đông lạnh lùng
Gom luôn nỗi nhớ mông lung
Mỗi chiều mong đợi muôn trùng dặm xa
Gom luôn sắc thắm mượt mà
Tóc xanh em giữ ngọc ngà đan xen
Gom mây em dệt áo len
Tặng anh mặc ấm ai khen không nào ?

Phan Lương
March 3, 2015

Thơ ai sao quá ngọt ngào
Dù tim là đá cũng lao xao lòng! 

Anh Tú 
March 3, 2015  
Bài Thơ Dâng Mẹ 
Thơ Sương Mai
Nhạc: Võ Tá Hân
Trình bày: Bảo Yến
anh-hoa-sen-
Ảnh: Internet

Năn Nỉ

Có người gom gói nắng hồng
Gởi bạn xa xứ vào Đông lạnh lùng
Kèm theo một mảnh nhớ nhung
Tình yêu tuổi nhỏ muôn trùng đã xa
Mơ hồ nhưng vẫn mượt mà
Thoảng hương thơm đẹp ngọc ngà cánh sen.
Hai đứa nay tợ chẳng quen
Năn nỉ …xin để thơ len vào hồn!

Anh Tú
March 4, 2016

2016/03/02

Mình?

Mình ơi! Mình ở nơi mô?
Cố tìm hiểu được …không vô minh hoài
Giác ngộ soi rọi trần ai
Rõ nẻo dấn bước tương lai phước lành!

Anh Tú
March 2, 2016
*Mình là cái tôi.

2016/03/01


*Tìm Mình…*

Cố gắng tìm mình suốt nẻo dài
Từ hoàng hôn tối đến ban mai
Không duyên được gặp… hoài tiếp bước
Đã mỏn hơi rồi tim nhịp phai!

Cố gắng tìm mình chốn bụi đời
Mộng mơ thoát khỏi cảnh đơn côi
Đâu rồi đuốc tuệ buồn soi lối
Cúi mặt ngại nhìn hy vọng trôi!

Cố gắng tìm mình giữa sóng khơi
Lỡ đò sầu ngập tát không vơi
Bao năm khắc khoải đùn thương khó
Đọng lại thành mưa tí tách rơi!

Cố gắng tìm mình suốt kiếp người
Kể từ hăm hở tuổi hai mươi
Đến khi bụi bám đầu sơn trắng
Tuyệt vọng rồì nhưng cũng mĩm cười!

Anh Tú
March 1, 2016
*Họa Tìm Ai của Nguyệt Hạ:
Tìm Ai
 

Tôi mãi tìm ai giữa đêm dài
Theo ngàn tinh tú đến sớm mai
Hương khuya thầm thì bên làn gió
Kể chuyện tình xưa đã nhạt phai 

Tôi mãi tìm ai giữa cuộc đời
Mặc bao giông bão với đơn côi
Nhặt chút sương sa trên thềm vắng
Tìm chút ân tình lỡ đánh rơi 


Tôi mãi tìm ai giữa biển khơi 
Nước vòng ôm ngọn sóng chơi vơi 
Lấp chôn dã tràng vùi thân cát 
Bọt trắng xóa dần mộng buông lơi 

Tôi mãi tìm ai giữa muôn người 
Thật thà trao hết tuổi đôi mươi 
Bao nhiêu yêu dấu người mang cất 
Tôi chỉ còn đây mỗi nụ cười 

Nguyệt Hạ
Tháng hai 2016 

NỮ TRUNG HỌC ĐOÀN THỊ ĐIỂM 

Sau mùa hè đỏ lửa tôi lưu lạc xuống miền Tây. Khi các trường đã khai giảng được hơn một tháng tôi xin vào học tại trường Nữ Trung Học Đoàn Thị Điểm, Cần Thơ. Tôi chưa hoàn thành năm học trước, trong học bạ có ghi "gián đoạn vì chiến cuộc", bây giờ lại vào trường sau mọi người. Người đưa đến trường xin học là anh rễ tôi. Bà hiệu trưởng chần chừ không muốn nhận học trò vào trễ, anh tôi ca bài con cá sống vì nước, nạn nhân chiến cuộc, di tản chiến thuật, vân vân và vân vân.  Lúc đó trên đường đi làm nên anh mang nguyên bộ quân phục mũ nón boot de sault nhìn rất oai, có lẽ nhờ vậy đã thuyết phục được bà hiệu trưởng cho tôi vào trường sau khi đóng đủ các thứ tiền niên liễm ... 

Tôi còn nhỏ, từ xứ đất đỏ mưa bùn gió bụi, thấy mọi thứ nơi miền Tây lạ lẫm, mới mẻ. Đối với tôi, trường đẹp quá, trong sân có những hàng cây cổ thụ toả bóng mát rượi. Trường lớp là những dãy lầu đồ sộ với lối kiến trúc xưa rất đẹp và cổ kính. Lớp tôi học trên lầu ba, giờ ra chơi tôi chưa có bạn, thường đứng trên lầu nhìn xuống. Nơi tôi đi học khi trước, trường không có lầu, không có cây lớn toả bóng mát trong sân, lớp học chỉ là những phòng học đơn giản xây trên ngọn đồi đất đỏ. Bây giờ đi học nơi đây thật là một trời một vực. Ngày đến trường xin học anh chở bằng xe jeep, trưa về tôi phải tự đi bằng xe lam và xe lôi, một loại xe phía sau giống như xe xích lô nhưng phía trước kéo bằng xe gắn máy, leo lên ngồi trên cao chứ không thấp như xe xích lô. Tôi nhớ rõ từ trường ra tôi đón xe lam ở chợ gần bến Ninh Kiều đi về, đến trạm cuối cùng xe lam không đi nữa, tôi phải đón xe lôi đi một mình vào vùng ngoại ô, để về cư xá nhà anh chị. Ngày nào đi học cũng như vậy, sáng chiều bốn chuyến xe. Lúc đó, sao mà thanh bình, yên ổn. Một đứa con gái nhỏ, áo dài trắng ngồi xe lam, xe lôi trên đoạn đường vắng vẻ, xuống xe còn đi bộ một khúc thật xa từ đường cái vào nhà vì xe lôi không chở vào tận nơi. Vậy mà không sao, không có chuyện bắt cóc, không có chuyện cướp giật. Sau buổi học tôi còn đi học thêm Anh văn ở Hội Việt Mỹ nên giờ về mặt trời đã tắt. 

Mỗi ngày khi tan học, tôi theo người bạn mới quen tên Mai đi ra chợ gần bến Ninh Kiều. Ngôi chợ sầm uất và đông đảo. Hàng quán nào cũng náo nhiệt người mua kẻ bán. Tôi vẫn nhớ rõ món ăn tôi thích là bánh cống chiên. Mùi vị đặc biệt của chiếc bánh cống có tôm tươi chiên dòn, đậu xanh bùi bùi, thịt băm béo béo, cùng nước chấm chua ngọt ăn với rau sống các loại, tất cả hoà đồng để lại vị ngon khó quên. Hình như chỉ có ở chợ Ninh Kiều* mới có món bánh cống ngon như vậy. Không những chỉ một món ngon, chợ Ninh Kiều* còn rất nhiều món ăn mặn ngọt, món nào cũng ngon cũng hấp dẫn. Tan trường tôi ăn tạm ở chợ để chiều học tiếp lớp Anh văn đến tối về ăn cơm nhà. Mai là người bạn duy nhất tôi nhớ tên và nhớ rõ chữ viết của Mai rất đẹp. Tôi vào học sau hai tháng nên phải mượn vở của bạn về chép bài học để theo kịp lớp. Chưa hết một năm học, tôi bắt đầu quen bạn quen thầy thì đột ngột phải nghỉ học ở trường Đoàn Thị Điểm. Bỗng dưng chị cả đưa tôi về quê cũ, tôi đành phải rời trường và rời Cần thơ. Anh rễ và chị hai ngạc nhiên nhưng cũng không cản chị cả được, dù tôi phản đối. Cho đến bây giờ tôi vẫn tiếc, phải chi đừng có chuyện ấy, tôi được tiếp tục học ở đây cho xong bậc trung học. 

Quả đất tròn và nhỏ. Mấy mươi năm qua, bây giờ tôi được gặp một người đã dạy ở ngôi trường tôi yêu mến, dù không học với anh, nhưng chúng tôi đều đã có mặt tại một nơi chốn trong cùng một khoảng thời gian. Không quen biết lúc còn đi học, đi dạy nhưng bây giờ nơi xứ sở xa lạ này gặp người có liên quan đến ngôi trường cũ cũng là niềm vui khó tìm thấy. Tôi vẫn mong sao có ngày được trở về thăm trường. Dù chỉ học một thời gian ngắn, nhưng tôi vẫn có thể gọi là trường cũ của mình. 

Nguyệt Hạ 
(Lt - TD) 
Jan 28, 2016 


* Chợ gần bến Ninh Kiều nên tôi quen gọi là chợ Ninh Kiều. 

2016/02/29

Từ Em ...












Từ em lạc bến sương mù
Hương xuân mùa cũ quyện phù vân bay
Rưng rưng buông tiếng thở dài
Gió khuya lay nhẹ tóc cài tơ vương

Từ em lạc bến sông thương
Từng đêm vỗ giấc nghê thường vào mơ
Dù đời không đẹp như thơ
Tình đi, tình đến, tình chờ thiên thu…

Từ em lạc bến mộng hư
Sông trăng gợn sóng lắc lư thuyền đời
Ngược dòng dĩ vãng trùng khơi
Tìm dư hương đọng một thời hoa niên

Từ em rời bến cô miên
Thuyền tình lặng lẽ xuôi miền nắng quê
Bước xuân êm ả bên lề
Đêm nghe gió thức vỗ về giấc ngoan!

Yên Dạ Thảo
27/02/2016

2016/02/21

Đèo Bồng

Chiều qua trở lại bờ doi
Nước sông uốn lượn ngàn đời thủy chung
Bằng lăng lặng lẽ tím lòng
Lá bàng vàng ẻo, hàng vông điêu tàn.

Đâu rồi tiếng gọi ngọt thanh
Dìu nhau vào quán âm thầm trú mưa
Rỉ tai lời nói cợt đùa
Nghiêng khuôn mặt ướt mắt vừa liếc mau.

Xa nhau từ độ mùa ngâu
Chúng mình giã biệt ngàn sau thật rồi
Sông sâu bên lở bên bồi
Nước phèn ngầu đục người ơi đừng về.

Sá gì mật ngọt tình quê
Mưa đêm rả rích càng tê tái lòng
Trách ai má ửng môi hồng
Để người năm cũ đèo bồng khó quên.

Dương hồng Thủy

13/2/2016

2016/02/14

Bài thơ khai bút cuối cùng của Vũ Hoàng Chương 

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương từ trần tại Sài Gòn lúc 11 giờ sáng ngày 6 tháng 9, 1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bính Thìn, năm ngày sau khi được thả khỏi nhà tù Cộng Sản. Trước đó hàng năm, mỗi Nguyên Đán (sáng sớm ngày mồng 1), ông thường có một bài thơ khai bút; mùa Xuân Bính Thìn 1976 miền Nam đã nằm trong gông cùm chế độ mới, chắc chắn thơ khai bút của ông, dù có làm, cũng không còn được đăng lên báo Xuân nữa. Cho nên bài thơ khai bút đăng trên tạp chí Nhà Văn Xuân Ất Mão, tháng 2, 1975, chắc chắn là bài thơ khai bút đăng báo xuân cuối cùng của ông.
Vũ Hoàng Chương (1916-1976). (Hình: Viên Linh cung cấp)

Bút tự Hán Nôm của nhà thơ Vũ Hoàng Chương khi làm bài thơ Khai Xuân Thạch Vấn, 2, 1975, Sài Gòn. Bài thơ báo điểm “cố quốc vàng rơi phấn rụng,” và “chàng say nằm chuyện trò với đá.” (Hình: Viên Linh cung cấp)
Cách đây nửa năm, một người Mỹ tới thuê căn chung cư Christian Home trên đường Bolsa, phía sau quán Song Long. Từ khu sân sau của chung cư, người ta có thể nhìn thấy tòa soạn nguyệt san Khởi Hành, phía sau đường Dillow, Westminter. Người đó là ông Robert-Richard Jones III, cựu nhân viên Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn cho tới những ngày cuối cùng, tháng 4, 1975.  Từ khi là láng giềng của chúng tôi, mỗi khi dùng xe đi về, thấy tôi, ông thường bước tới khung cổng rất rộng, khung sắt lưới sắt, dưới có bánh xe, ngăn khu sân chung cư với bên ngoài, trò chuyện dăm câu... Ông chính là vị “sponsor” mang nhiều dân tị nạn Việt Nam về Minnesota, ông kể với tôi, như kịch tác gia Vũ Khắc Khoan, cựu Đại Tá Vũ Quang, nguyên cục trưởng Tâm Lý Chiến, người do khẩu lệnh đã mang tôi từ Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương về làm thư ký tòa soạn Nhật báo Tiền Tuyến. Trước khi dọn đi vài ngày, từ khoảng sân sau đó ông Jones III cầm hai tờ tạp chí Việt ngữ đã cũ, hơi sờn mép, cho người viết bài này xem, và cho mượn hai ngày, để sao chụp nếu muốn, vì tới ngày thứ ba ông sẽ dọn khỏi nơi đó. Bài khai bút vào mùa Xuân cuối cùng của báo chí văn học miền Nam của Vũ Hoàng Chương đã đăng trong tờ báo ông cho mượn. Đó là bài “Khai Xuân hỏi đá” dưới đây:

Khai Xuân Thạch Vấn

Tường vân mãn tọa nguyệt bôi minh
Hy chúc Xuân khai dạ bán quỳnh.
Đông liễu Tây đào song tận mỹ,
Tần tang Yên thảo nhất hà thanh!
Tẫn giao cố quốc hoài kim phấn,
Tự hữu cuồng ngôn xuất thạch bình!
Đồi ngọa, dữ sa trường túy ngọa,
Cổ lai thùy dã chiếm cao danh?

Thi sĩ tự chuyển ra lục bát như sau:

Đá Mở Lời Xuân

Bạn đầy mây, chén đầy trăng,
Xuân vào đêm, giữa lòng băng nở quỳnh.
Liễu tơ đào gấm như tranh,
Dâu Tần biếc, cỏ Yên xanh, một trời.
Quê xưa phấn rụng vàng rơi
Có nghe vách đá vang lời hỏi duyên:
Say nằm trước ngõ là tiên,
Hoặc say nằm cát ngoài biên mới hào?

(Vũ Hoàng Chương, trên thềm Ất Mão, 1975)

Đọc đi đọc lại bài thơ, từ nguyên tác chữ Hán tới phiên âm và bản chuyển dịch, dù không mê tín, người đọc vẫn có thể tự hỏi: “Bài thơ có phải là điềm tù ngục chăng? Có linh tính mẫn cảm đến từ trời đất, từ tiền sinh dị kiếp nào chăng? Sao lại Tẫn giao cố quốc hoài kim phấn? (Quê xưa phấn rụng vàng rơi). Và sao lại lấy nhan đề bài khai bút là Khai Xuân Thạch Vấn: Vào Xuân Hỏi Đá hay Khai bút ngày Xuân hỏi đá? Hỏi tường đá? Và sao đang say ở nhà lại so sánh với cảnh say trên đất cát chiến địa: Sa trường túy ngọa? Thi sĩ nhiều khi trở thành tiên tri, là như thế. 

Bút tự chữ quốc ngữ của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ Khai Bút Nhâm Tý, 1972. (Hình: Viên Linh cung cấp
2- Nhiều người thường xua đuổi loài quạ mỗi khi nghe tiếng chúng trên đầu, cho rằng đó là loài chim mang đến tai ương, tang tóc. Thật ra làm sao những cánh chim ấy có thể gây ra bất cứ sự việc gì: Chúng là loài chim ăn thịt, dù thịt sống hay thịt đang chuyển mùi tử khí, chúng “nghe” thấy chết chóc trước con người, và kêu lên trước con người. Quạ là loài chim bay là là trên những con đường lớn của thành phố mỗi sáng tinh sương, chúng giúp con người đi nhặt xác chết các loài chuột bọ bị xe cán, hay bị loài người vứt trên đường lộ, bãi hoang, trong đêm hôm trước. Quạ là thứ phu quét đường dọn vệ sinh cho dân thành phố. Chúng cất tiếng kêu vì mùi tử khí đã phảng phất ở đó rồi, chứ không phải vì chúng kêu nên mới có người chết. Người viết bài này từng đọc một bài diễn từ khai mạc nhân dịp kỷ niệm Khởi Hành qua năm thứ ba, ca ngợi loài quạ. Thi sĩ không phải quạ, nhưng thi sĩ chân chính, nhà nòi, cũng có thể là một loài linh điểu nào đó đã cụt cánh, sống chung với loài người mà thôi, để kêu lên thường xuyên bằng vần điệu, qua vần điệu, rằng nghe ra đã có mùi tử khí quanh đây. Nhà hiền triết Plato biết như thế, nên không ưa thi sĩ. Giáo điều, phát xít, cộng sản biết như thế, nên không ưa thi sĩ, và nhà thơ Vũ Hoàng Chương thì họ càng muốn triệt hạ.
Sau khi ông từ trần vài năm, có giai thoại kể rằng vài tháng sau tháng 4.75, nại cớ quen biết cũ, Chế Lan Viên tới thăm thi bá miền Nam, và gợi ý rằng họ Vũ sẽ không gặp rắc rối gì, ngoài ra còn có thể được biệt đãi, nếu có thái độ thích hợp, thể hiện qua một tài liệu mà họ Chế đưa cho ông; đó là tập “Thơ của Hồ Chủ Tịch.” Nghĩa là tác giả Điêu Tàn gợi ý cho người bạn xa xưa hãy viết một bài ca ngợi “thơ Bác!”
Ít ngày sau Chế Lan Viên trở lại thăm, và hỏi về tập thơ ấy. Nhà thơ Vũ Hoàng Chương như chợt nhớ ra, nghiêng người, lật một mảng chiếu mà ông đang ngồi, rút tập “thơ của Bác” mà ông lót dưới chiếu để ngồi, đưa trả tác giả Điêu Tàn.
Bài Thạch Vấn làm năm 1975, bài sau đây chắc chắn chưa từng được đăng báo trong nước:

Đề Tranh Gà Lợn


Sáng chưa sáng hẳn, tối sao đành
Gà lợn om sòm cả bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có họa
Biết lòng ai đỏ mắt ai xanh?
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành.
Thôi hãy im đi đừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.

(Vũ Hoàng Chương, Gác Bút, năm Thìn 1976)

Thái độ của nhà thơ về chế độ, về con người của chê độ ấy thật quá rõ. “Đừng om sòm, đừng ủn ỉn nữa lũ gà lợn kia, thôi hãy im đi. Nghe ta ngâm thơ đây.” (Ông thường tự nhận mình là Thi Vương, hay là Rồng.) Chuyện sau đó chúng ta đã biết: Vũ Hoàng Chương là nhà thơ đầu tiên của miền Nam chết vì tù đày Cộng Sản, tháng 9, 1976.

Viên Linh



Ghi chú:

Trong Từ Điển Văn Học, bộ mới, do Thế Giới Hà Nội xuất bản tháng 10, 2004, “Công trình biên soạn của 106 giáo sư, tiến sĩ,” có đoạn viết về nhà thơ Vũ Hoàng Chương như sau: “...bắt chước Lý Bạch hát ‘bài ca cuồng’”... “nhưng cũng có những bài có phần bốc đồng, thiếu chín chắn về mặt chính trị...” (trang 2025). Võ Phiến, trong bộ tạp văn Văn Học Miền Nam, Thơ, đã viết về họ Vũ từ trang 3178 tới trang 3195, bằng một giọng văn đùa rỡn, chế giễu, (mặc dù ông nói không dám), phần lớn dựa vào ý của Hoài Thanh trong Thi Nhân Việt Nam và của Vũ Ngọc Phan trong Nhà Văn Hiện Đại in từ thời '40 về VHC bằng những tiếng như sau: “Vừa ló mặt ra với đời, ông đã già tức khắc.” “nhiều lúc giọng già cóc cách,” “Giọng già cóc cách thế nào không rõ. Nhưng xem cái ý nghĩ của ông thì thấy già rành rành. Nếu ý đã già, giọng cũng già (cóc cách) nữa thì đích thị già trọn vẹn rồi, còn gì nữa? Vũ Hoàng Chương không những già, lại còn xưa.” “Trụy lạc hay không trụy lạc, say sưa hay không say sưa, ngao ngán hay không ngao ngán, VHC đều có thể xưa.” (trang 3180) Đại khái toàn những giọng phán bừa phứa kiểu quan ngự sử văn đàn như thế. Người viết bài này muốn lưu ý bạn đọc là với sách cộng sản in trong nước, (hay sách viết ở ngoài nước lại chê miền Nam ) người đọc cần nhận định và đánh giá lại bằng suy nghiệm riêng của mình, hầu tránh bị dẫn dắt có hậu ý. Từ Điển Văn Học còn không dám viết đến cái chết của VHC, dù một dòng; lại còn “phê bình” nhà thơ “thiếu chín chắn về chính trị.” Tuy thế, phần viết về tác giả Thơ Say trong cuốn từ điển do Hà Nội xuất bản lại tử tế hơn phần viết về VHC trong bộ Văn Học Miền Nam, Thơ, in tại Hải Ngoại.”
1-Xem Chiêu Niệm Văn Chương I, Vũ Hoàng Chương, Lịch sử Thơ, Viên Linh xuất bản, Hoa Kỳ, 2000.
2-Xem Khởi Hành 141,  tháng 7, 2008.
3-Số tạp chí cuối cùng của văn học miền Nam là tờ Thời Tập số 23 ra ngày 15 tháng 4, 1975.
4-Plato (427-347), triết gia Hy Lạp, người đầu tiên dược coi là phê binh gia thi ca của nhân loại. Những kẻ độc tài, trong tư tưởng chính trị hay tôn giáo, thường theo gót Plato ngược đãi thi sĩ, từ thánh Augustine tới phát xít hay cộng sản. Khi thi sĩ nhìn thấy ánh sáng phía chân trời là ánh sáng của hoàng hôn, thì những kẻ độc đoán lại vui mừng ca ngợi bình minh đang tới. Và khi Vũ Hoàng Chương nhìn thấy cảnh mình nằm hỏi đá nhà lao, thì đám côn quang ở Sài Gòn sửa soạn giương cờ đỏ ca ngợi ngày giải phóng. Bằng những lời đường mật, Plato ca ngợi thi sĩ, nhưng đế lưu đày thi sĩ. Ông ta viết: “Nor shall any one [thi sĩ] dare to sing a song which has not been approved by the judgment of the guardians of the laws, not even if his strain be sweeter than the songs of Thamyras and Orpheus.” (Plato, Laws) Trích lại từ A short history of Literary Critism của V. Hall, Jr.
5-Năm 1986, Chế Lan Viên có tập thơ xuất bản nhan đề “Ta gửi cho mình,” có những câu thơ như “Mỗi tấc đất miền Nam đều là đất Bác Hồ” (trang 52) và có một số câu diễn tả cái đói ở miền Trung, mơ về miền Bắc sung túc như ... thật: “Ăn sạch hết rau rừng rau đắng Trường Sơn - Đêm đói bụng nằm mơ về đất Bắc - Trung châu Trung châu lúa vàng tít tắp - Đi khắp mọi nhà đều được mời cơm.” (Nhớ được mời cơm, trang 8). [12, 2008]

Nguồn : Nhật báo Người Việt Online