2021/09/22

CÓ MỘT CUỘC TÌNH

“Tình đầu hay tình cuối, khi một ngày một người đã ra đi…”

Thế là anh đã rũ áo ra đi, đến một nơi mà anh sẽ không thể nào quay trở lại.  Nhà doanh nhân, nhà từ thiện, nhà yêu nước… Bùi Khả Trình đã xuôi tay sau tám mươi mùa xuân vui buồn trên đất.  Thôi nhé anh, nghìn thu vĩnh biệt.  Cuộc tình chúng mình chỉ đến thế mà thôi.

***

My lặng lẽ rời khỏi mộ phần theo dòng người tiễn đưa anh, họ cũng đang lặng lẽ ra về.  Những tiếng thì thầm to nhỏ tiếc thương người bạn, người anh, người chủ, người đồng sự, người ân nhân trong tiếng xào xạc của lá khô âm vang theo từng bước chân tạo nên điệp khúc buồn rưng rức. 

My lê bước chân vô vọng dẫm lên một cành khô kêu “rắc”, tiếng kêu khô khan như mũi dao nhọn xoáy vào trái tim My khoét một vệt cuối cùng cho vỡ tan màng mủ bưng kín lâu nay nhức nhối, nhức nhối.  Vết thương này hôm nay phải được nặn, được rửa, được chùi cho sạch để ngày mai kéo da non và chờ ngày lành hẳn.  Nàng ôm ngực ngồi vào xe, khóa cửa, gục đầu vào tay lái, đôi vai run lên bần bật theo từng tiếng nấc cố nén vào lòng ngực nhưng lại bướng bỉnh bật ra ngoài. 

Bài thơ My đã đọc tới đọc lui bao nhiêu lâu nay: 

“Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa.

Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,

Hai cái đầu xanh kề nhau than thở:

– Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,

Mà lấy nhau hẳn là không đặng,

Để đến nỗi, tình trước phụ sau,

Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau…”(**)

Đó là chuyện của người ta, còn chuyện chúng mình tính đến nay đã hai mươi bảy năm bốn tháng mười tám ngày rồi đó anh?  

Giá mà nghe được anh sẽ mỉm cười và bảo: “Em thật là chi tiết đó.”  Câu này anh đã từng nói với em mà. 

Đó là năm 1980, em được tuyển vào làm nhân viên cho khách sạn của anh.  Anh là một doanh nhân thành công với tuổi đời rất trẻ.  Qua Mỹ năm 1975 năm năm sau anh đã là chủ nhân của hai khách sạn lớn tại New York.  Với gương mặt phúc hậu, thái độ nhu hoà, ánh nhìn sâu lắng, ngày đầu gặp anh, em thật bối rối khi đụng phải ánh mắt ấy.  Anh đến tận bàn làm việc của em đưa tay vuốt vào bông hoa đang nở trong bình rồi nhìn em:

“Cô là nhân viên văn phòng mới tuyển vào à?”, anh quan tâm. 

“Dạ. Có gì không ạ?”

Em trả lời với giọng hơi bướng bỉnh.  

“Ồ, chúc mừng cô. Tôi nghĩ rằng cô sẽ rất thích và sẽ ở đây lâu dài giúp chúng tôi.” Anh thân mật chìa tay.

Sau đó anh bảo em cho xem bản tường trình chi tiết trong ngày, nhìn kỹ chi thu được cập nhật từng giờ, phút, giây, anh giả giọng diễn viên Tàu và lừ mắt : “Cô… thật là chi tiết đó”. Sau chữ “đó” dài giọng anh cười vẻ hài lòng. Em đã nguýt anh thật dài, anh nhìn sững vào mắt em, ngập ngừng:

“Wao, cô nguýt tôi dài đến đỗi… mắt có đuôi rồi kìa.”

Ảnh: Thought Catalog/Unsplash

Em đỏ mặt vì tự dưng bị trêu mà không biết trả lời sao vả lại chưa rõ anh giữ nhiệm vụ gì trong khách sạn này? Anh chào em và huýt sáo một điệu nhạc vui rời khỏi phòng.     

Em đã bị cuốn hút vào ánh nhìn của anh, vẻ đàn ông và cử chỉ thoáng đãng của anh khiến em bối rối. Anh là mẫu người lý tưởng mà em hằng ước mơ, đàn ông phải ra đàn ông, em không cần người đẹp trai em chỉ cần người có phong cách “nam nhi”. Từ hôm ấy em điểm trang thêm một chút, chọn y phục kỹ hơn một chút, đi làm sớm hơn một chút và tưởng tượng thêm một chút về người trong mộng của mình.  

Thời gian trôi qua, càng ngày anh càng thân thiết hơn, không có chút ngăn cách nào giữa liên hệ hai chúng mình.  Mỗi ngày em hiểu anh thêm, mỗi ngày anh nhìn em khác hơn và nồng nàn hơn. Vì anh không đến khách sạn thường nên em nghĩ có lẽ anh là quản lý làm việc bán thời gian, mỗi tuần chỉ đôi ba ngày. Em bắt đầu biết nôn nao trông ngóng, em ngơ ngẩn bần thần như người sắp bệnh khi anh đi xa hàng tuần. Em nhắm mắt thấy đang đi dạo phố cùng anh; đang dọn cơm cho anh trong căn phòng chỉ có hai đứa; đang tựa cửa đón anh về và ôm chầm khi anh bước vào nhà. Em mơ mộng, em hy vọng, em ước ao, niềm ước ao của tuổi thanh xuân với một mái gia đình lý tưởng. 

Rồi… khi biết anh là chủ khách sạn, em lặng đi một lúc, rồi không ai xô nhưng em rơi tõm vào hụt hẫng. Tại sao anh là ông chủ giàu có, tại sao em là nhân viên quèn, tại sao và tại sao???  Bao nhiêu câu hỏi tại sao đến với em, đêm về em nằm vắt tay lên trán tự vấn lòng: “Người ơi gặp gỡ làm chi? Trăm năm biết có duyên gì hay không?”. Em trăn trở, em sụt sùi, em tự trách mình, trách anh. Từ đó em khép kín ước mơ, đi làm như cái bóng vì biết rằng em ở một địa vị thấp kém, xa cách anh nhiều.  

Phía nữ nhân viên ngồi lại thường rù rì rằng ông chủ đẹp trai lại độc thân vui tính có ai dám mơ làm bà chủ không?  

Cũng có tin rằng ông chủ có vợ con bên Việt Nam đang chờ bảo lãnh qua (?)  

Bàn chuyện phiếm là chuyện của “ba bà bốn chuyện” nhưng tuyệt nhiên có những chuyện mà họ không hề biết nên không hề bàn. 

Đó là chuyện thật bất ngờ hôm em làm ca đêm thay cho chị Hằng anh mang đến phần súp nóng bảo: “Thưởng cho nhân viên giỏi.” 

Đó là chuyện bức thư tỏ tình anh gửi cho em sau một năm biết nhau, kèm theo lẵng hoa hồng tươi thắm, đẹp hơn mơ ước của em. 

Đó là chuyện em vẫn chưa trả lời có yêu anh hay không? Làm sao em dám nói yêu anh khi mà anh đang trong cương vị “chủ nhân”. Em sợ khi em trả lời anh sẽ thắc mắc liệu có phải em yêu anh thật lòng một tình yêu nam nữ hay em yêu anh vì anh đang ở địa vị giàu sang.  

Đó là chuyện trái tim cứ giải thích: “Tình yêu không phân biệt giai cấp, địa vị, tuổi tác” vì anh hơn em đến hai mươi tuổi. 

Đó là chuyện anh mặc áo phủ kín đầu đứng dưới cây cổ thụ to, giữa trời tuyết giá chờ đợi em vén màn cửa sổ gửi anh một nụ hôn theo gió rồi mới ra về, lãng mạn quá phải không anh?

My nức nở trên tay lái, ký ức ùa về, dồn dập gõ mạnh cửa tâm hồn cô đơn bao nhiêu năm tháng khép kín trong tĩnh lặng. My không quan tâm đến bầu trời đang gầm thét, sấm chớp đang xẹt qua xẹt lại trên không, mây đen từ đâu kéo đến vần vũ. Trời sắp đổ mưa rồi đó anh, như đêm mưa mình ngồi với nhau bên tách cà phê nóng để nghe anh dốc tỏ nỗi lòng. Anh đã hôn vào đôi mắt em đang khép chặt, cố ngăn dòng lệ đang chực trào, giọng anh chùng thật thấp:

“Xin lỗi em và xin em hiểu lòng anh, anh yêu em cho đến chết.  Anh sẵn sàng gây dựng một cơ sở cho em ở tiểu bang khác.  Anh sẽ bảo bọc đời em, nhưng…(anh ngập ngừng) anh không thể kết hôn với em được vì tương lai con anh, anh phải bảo lãnh vợ con qua đây cho tròn hai chữ “nghĩa, tình” vì gia đình vợ đã đóng vàng cho anh đi vượt biên, anh phải có trách nhiệm với họ.  Anh gặp em muộn màng nhưng em là người yêu đầu đời của anh. Anh sẽ bay qua hằng tuần với em, anh sẽ bù đắp đầy đủ anh không để em thiệt thòi đâu. Hãy nghe anh đi em, đừng khóc nữa em, anh đau lòng lắm, anh xin thề với em anh không lừa dối em đâu”. Anh nói một hơi dài như sợ em ngắt lời. 

Em bụm miệng anh, em tin anh mà, em không muốn anh thề; gục đầu vào bờ vai rắn chắc của anh mà mặc cho đôi dòng lệ cứ tuôn tràn ướt đẫm áo anh.

“Anh ơi, em không thể, cho dù em yêu anh đến mức độ nào, cho dù anh yêu em đến đỗi có thể moi quả tim ra để trên bàn tay anh, em cũng không thể làm kẻ thứ ba”. Em nghẹn ngào, rấm rức.  

Thế đó, mặc cho anh nài nỉ, van xin, em vẫn quyết định nói tiếng “không”. Sau nhiều đêm thức trắng, giọt vắn giọt dài ướt đẫm lọn tóc mai, em thầm hát câu: 

“Tóc mai sợi vắn sợi dài. Lấy nhau chẳng đặng thương hoài nghìn năm”. (***)

Mình lấy nhau chẳng đặng rồi anh ơi. Một tháng trước ngày gia đình anh đoàn tụ em xin nghỉ việc. Em muốn anh để hết tâm trí vào lo chuẩn bị cho mái ấm gia đình của anh đừng bận tâm đến em nữa. Em đã chọn cho mình một quyết định. Ra đi trong âm thầm, đến nơi ở mới trong âm thầm và sống những ngày lặng lẽ nơi ấy thật âm thầm. Xoá hết những gì dính líu đến mình, em trở thành con người mới với tên thường gọi mới, sống thu mình không giao du bè bạn. Em không cho anh một manh mối nào, một cơ hội nào để tìm ra em; em xa lánh tất cả trốn về một thành phố nhỏ rất gần gũi với thiên nhiên nhưng lại xa đô thị trong một trại nuôi gà của gia đình bạn. 

Không phải dễ dàng mà thực hiện ý định của mình, đã đôi lần em nghĩ: “Không cần cưới hỏi, không cần hôn thú nhưng được sống với anh là vui rồi, là hạnh phúc rồi. Ở Mỹ có năm mươi tiểu bang, vợ con anh ở một tiểu bang, em ở tiểu bang khác thì có gì dính líu đến nhau đâu. Có ai biết gì đâu mà bẻm mép cho lộn xộn gia đình anh. Em và anh xứng đáng được hưởng hạnh phúc riêng của mình vì anh đã bảo em là người anh yêu cơ mà…”. Ấy nhưng, em không thể chìu theo trái tim được vì toà án lương tâm em cứ gióng lên từng hồi chuông cảnh tỉnh.

Thôi thì chia xa, thôi thì xem như một giấc mơ đẹp đã hết, tỉnh giấc chỉ còn lại một mình thôi.  

Anh yêu ơi, anh biết không, em đã đếm từng ngày, em đã ghi vào từng trang nhật ký hết ngày này sang ngày khác, hết tháng này sang tháng nọ, hết năm nọ qua năm kia. Rồi những trang nhật ký ấy sẽ được tóm lại bằng hai từ chua chát và thật mỉa mai “dĩ vãng”. Vâng tất cả sau mỗi một ngày trôi qua đều trở thành dĩ vãng, ngày hôm qua là thuộc về dĩ vãng phải không anh?

Em thường ngồi thừ người thầm hỏi: “Nơi đó, trong ngôi nhà đầy đủ mọi thứ, sang trọng nhất nhì thành phố, anh thật sự có hạnh phúc bên vợ đẹp con ngoan không?”. Em không biết, chỉ biết là tuy cách xa nhưng em vẫn dõi theo anh qua tin tức trên báo, đài truyền hình, truyền thanh.

Anh vẫn làm việc, vẫn thành công, và vẫn là người chồng tốt, người cha tốt trong gia đình. Là một doanh nhân lỗi lạc trên thương trường, là một ông chủ nhân từ với mọi người. Em mừng vì vợ anh đã sánh vai bên anh cùng làm những công việc từ thiện mà ai cũng quý mến, yêu thương. Trong nạn đói năm 1984 ở Ethiopia anh đã tặng cho tổ chức cứu trợ nạn đói hai máy bay trực thăng để làm phương tiện vận chuyển. Anh hào phóng và rộng tay với những kẻ khốn cùng, em biết rõ, anh không vì phô trương nhưng vì lòng nhân ái vô lượng của anh. Em còn nhớ trong một buổi ăn tối trên tàu, nhìn ra biển mênh mông dưới ánh sáng vằng vặc của vầng trăng mười sáu, anh thì thầm bên tai em:

– Biển nhân từ với anh nên mới đưa anh đến bến bờ bình an này để được gặp em.  Anh muốn sống bao dung, nhân ái và rộng lượng như biển vậy.  Em chịu không?

Em đã trả lời anh bằng một nụ hôn nhanh phớt qua môi rồi quay mặt tránh nụ hôn trả của anh. Sau này xa anh rồi, mỗi khi nhớ đến những giây phút hai đứa bên nhau em tiếc sao mình lại hẹp hòi với anh quá vậy? Còn anh thì luôn tôn trọng em không làm điều gì khiến em buồn, anh nói: “Em không cho phép thì anh sẽ chờ, anh không muốn em hiểu lầm rằng anh lợi dụng em. Anh yêu em thật lòng, anh trân trọng em vì em là của quý đối với anh”. Em đã nguýt dài, phụng phịu khi nghe anh nói và chỉ biết cám ơn anh bằng cách kéo bàn tay anh ủ lên trái tim đang đập rộn ràng.  

Ảnh: Suhyeon Choi/Unsplash

Hàng đêm em vẫn ngước lên bầu trời cao qua khung cửa sổ cầu nguyện với Chúa yêu thương, xin Ngài gìn giữ và ban phước cho anh, em cũng tạ ơn Ngài đã giúp em không phạm vào điều răn: “Chớ lấy vợ hay chồng người”. Em tạ ơn Ngài đã cho anh thành công rực rỡ trên thương trường. Báo, đài đưa tin anh đã đóng góp bạc triệu trong quỹ cứu trợ nạn nhân của sự kiện khủng bố chín một một (9/11) năm 2001. Năm 2003 Liên hiệp người Mỹ gốc Á đã vinh danh anh là “Nhà từ Thiện”. Ở nơi đó anh có biết mắt em đã rực sáng niềm vui, em chạy vội ra sân quỳ xuống vạt cỏ non nhìn lên bầu trời mùa Hạ đầy sao lung linh mà gọi tên anh không ngớt, trái tim hét lớn trong lồng ngực: “Em yêu anh. Anh nhân từ quá, anh rộng lượng quá!”. Ở nơi đó anh có nghe? Em biết tính anh mà, lúc nào anh cũng muốn ôm hết những kẻ khốn khổ trên thế giới vào lòng. 

Tháng 5 năm 2004, em đã về Washington DC để hoà vào cộng đồng người Mỹ gốc Việt mừng anh được trao Giải Đuốc Vàng, giải thưởng vinh danh của cộng đồng Việt tại Mỹ. Anh có biết em đã vui đến mức nào không? Vui đến rơi lệ. Vui nhưng lại đau lòng lắm, vui vì mừng cho anh, đau lòng vì thấy anh đó mà như nghìn trùng xa. Lòng thì muốn chạy đến với anh nhưng trí óc không cho phép và đôi chân chẳng thể dời đi. 

“Hai bên giáp mặt chiền chiền.  Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay” (*)  

Anh luôn dõi mắt vào đám đông có lẽ anh muốn tìm em giữa đám người đang đứng đó, ôi “bụng làm dạ chịu” em đã tự quyết định thì em phải gắng chịu xót xa một mình. Bấy giờ anh đó em đây, nhưng “Ai ra đường nấy, ai nhìn được ai” (*)

Những lúc nhớ nhung vùng dậy, em muốn phone cho anh để chỉ nghe anh nói vài câu, hoặc đến gặp anh một lần gục đầu vào lòng anh để được anh vỗ về, cho thỏa lòng mong nhớ. Nhưng anh ơi, con tim em quá yếu đuối không chịu nỗi sự kiện cáo của lương tâm nên em cứ sống trong đơn lẻ để rồi: “Sớm ngơ ngẩn bóng, đêm năn nỉ lòng” (*)

Tháng 8 năm 2005, em laị nghe tin anh đến tận Houston để cứu trợ nạn nhân bão Katrina hàng trăm ngàn Mỹ kim.  Một số tiền không nhỏ anh đã chi ra để an ủi những mảnh đời tan vỡ, họ sẽ vui mừng và biết ơn anh. Nhưng anh đâu mong họ biết ơn, anh chỉ mong vá víu những tấm lòng rách nát, những mảnh đời vỡ tan, có lẽ vì anh nghĩ rằng “Không chừng trong số những con người đó có em?”   

Em mừng vì vợ anh là một phụ nữ có tâm tình và tấm lòng nhân ái như anh, điều này khiến em mãn nguyện vì anh có được một gia đình hạnh phúc. Báo đài và cộng đồng đều khen ngợi và yêu quý vợ anh, có lúc nào đó sự ích kỷ trong em nổi dậy muốn em ganh tị với chị ấy, nhưng… chỉ là một lúc nào đó thôi anh à. Em nhận thấy vợ anh xứng đáng được sánh vai anh bước đi trong thành công và tình yêu của cộng đồng dành cho hai người.  Em đã quyết định là kẻ đứng ngoài cuộc đời anh, là quan khách trong vở kịch đời mà anh và vợ anh là hai diễn viên chính, và hai vai diễn đã thành công tốt đẹp.

Anh đã từng nói: “Anh yêu vợ con khác với tình yêu của anh với em, tình yêu của anh dành cho em đúng nghĩa một tình yêu nam nữ. Đối với vợ con anh yêu bằng tình yêu nhân loại. Anh không biết diễn đạt như vậy đúng không nhưng anh chỉ biết rõ một điều là trái tim anh nói vậy”.

Anh yêu, anh có biết em đã đau khổ dường bao trong chuỗi ngày cô đơn nơi làng quê hẻo lánh ấy. Em càng đau khổ nhiều hơn khi hay tin anh bệnh nặng; em đã vò đầu bứt tóc không biết làm sao để thăm anh, để chăm sóc anh, để mang niềm vui đến cho anh hầu anh chóng lành bệnh. Làm sao và làm sao?  Câu hỏi không có đáp án! 

“Thương càng nghĩ, nghĩ càng đau,

Dễ ai lấp thảm, quạt sầu cho khuây” (*)

Em biếng ăn, chán ngủ, thao thức thâu đêm, hết ra lại vào, hết đi lại đứng, hết đứng lại ngồi.

Bỗng dưng anh bị đột quỵ. Anh nằm trên giường bệnh một thời gian dài mà em không dám đến thăm anh. Em không muốn vợ anh bắt gặp tình cảm của em rồi nghi ngờ và phiền muộn anh. Em không muốn mọi người hiểu lầm anh là một con người không chung thuỷ. Em lại càng không muốn gặp anh với tư cách một người xa lạ. Phải, làm sao em chịu nỗi tình cảnh ấy. Em biết rõ lòng mình, em biết em sẽ vỡ oà khi gặp anh và em sẽ đau khổ lắm khi anh không còn đủ tỉnh táo để nhận ra em.

Ảnh: Ralf Skirr/Unsplash

Rồi cái ngày em lo sợ nhất đã đến, khi đọc trang cáo phó của gia đình anh, hung tin này bóp nghẹt trái tim em. Giữa cái nóng tháng năm mà em lại run bần bật, tim em kêu lên tức tưởi: “Anh ơi, sao lại bỏ em, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cả sự nghiệp đã xây dựng bao tháng ngày mà ra đi, anh có còn nhớ đến em không?” 

Em muốn đến nhìn mặt anh lần cuối nhưng em không đủ sức chịu đựng, em quyết định tiễn anh đến nơi an nghỉ cuối cùng. Giờ đây Trời đất cũng thảm sầu với cảnh biệt ly, sấm rền vang, chớp loé lên vắt ngang bầu trời, mưa trút xuống ào ào như cõi lòng My đang giông bão. Mọi người đã đi hết rồi, còn mình anh nằm đây cô đơn lạnh lẽo, My không cam lòng bỏ anh. 

***

Mười phút sau, mưa nhẹ hạt dần rồi tạnh hẳn. My trở lại phần mộ, nâng bức hình anh lên lau khô những giọt nước đọng rồi áp sát vào mặt nấc lên từng hồi tức tưởi: “Bây giờ chỉ còn anh và em, sao anh im lặng, sao anh không nói gì với em đi, anh muốn nói nhiều với em lắm mà.  Anh có buồn không khi giờ phút cuối mà không gặp mặt em? Anh có trông chờ em không? Âu cũng là số mệnh phải không anh? Bao năm qua tuy sống xa anh nhưng em biết rằng sẽ có cơ hội gặp nhau nếu em muốn bất cứ lúc nào. Nhưng từ nay em sẽ không mong có ngày gặp anh vì anh đã bỏ em rồi. Lần này là chính anh bỏ em chứ không phải em bỏ anh như ngày ấy. Thôi anh hãy yên giấc nghìn thu và hãy yên lòng về em. Hôm nay em đến tiễn đưa anh, mai này ai sẽ đưa tiễn em đây? Hãy về với vòng tay yêu thương của đất và hãy mỉm cười với em lần cuối nhé anh. Bây giờ là năm giờ, ba mươi sáu phút, mười hai giây rồi (anh đừng bảo: “Em thật là chi tiết đó”) em về đây. Vĩnh biệt anh.”

My đếm từng bước nặng nề rời xa mộ phần Bùi Khả Trình, nghĩa trang giờ này thật vắng lặng. Nước mắt không thể ngừng rơi, trái tim không đập đều nhịp, đầu óc không thể suy nghĩ điều gì khác hơn sự chia ly vĩnh viễn. 

“Thế là hết, kết thúc một cuộc tình. Bùi Khả Trình ơi, hôm nay anh trở về cát bụi, đời này kiếp này em đã thực sự mất anh”


Truyện ngắn của Chu An

Tháng Sáu 2021


Chú thích: 

(*) Truyện Kiều của Nguyễn Du.

(**) Thơ “Tình Già” của Phan Khôi.

(***) Nhạc phẩm “Tóc mai sợi vắn sợi dài” của Phạm Duy.

Tự truyện viết theo lời kể của một người. Nhân vật và sự kiện có thật nhưng tên đã thay đổi và có ít phần hư cấu. Nếu có sự trùng hợp nào là ngoài ý muốn của tác giả. 

Nguồn:https://saigonnhonews.com/van-hoa-van-nghe/co-mot-cuoc-tinh/

 

2021/09/10

 Tạp ghi

NỮ TRUNG SĨ NICOLE GEE

PHỤ NỮ TRUNG ĐÔNG

THIẾU NỮ VIỆT NAM*


Marine Sgt. Nicole Gee, seen holding a baby at Kabul's airport, was one of the 13 U.S. service members killed in the Aug. 26 bombing in Afghanistan.

Marine Sgt. Nicole Gee calms an infant during an evacuation at Hamid Karzai International Airport in Kabul,

Afghanistan, on Aug. 20 




ĐIỆP MỸ LINH

Trước khi cuộc rút quân tại Afghanistan chấm dứt, nhiều phương tiện truyền thông đưa ra một hình ảnh rất nhân ái của nữ trung sĩ Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ, trong giai đoạn kết thúc cuộc chiến tại Afghanistan. 

Tôi muốn đề cập đến tấm hình của nữ trung sĩ TQLC Nicole Gee – với cử chỉ đầy thương yêu như người Mẹ – đang bế và dổ cho em bé tỵ nạn bớt sợ hãi, tại phi trường Kabul, Afghanistan. Tấm ảnh này được chính Nicole Gee chuyển về cho gia đình của Cô, tại Hoa Kỳ, với dòng chữ “I love my job”.

Tấm ảnh này không ghi ngày, nhưng được trang twitter của US Department of Defense đăng, Aug. 20/2021.

Không ngờ, Aug. 28/2021, trung sĩ Nicole Gee – 23 tuổi, thuộc 24th Marine Expeditionary Unit và cũng là cư dân của thành phố Sacramento, Calif., cùng với 12 quân nhân Hoa Kỳ khác – bị tử thương trong vụ nổ bom tự sát do Islamic State in Khorasan Province, ISKP (ISIS-K) thực hiện!

Trong số 13 quân nhân Hoa Kỳ bị tử thương tại phi trường Kabul, không phải chỉ có Nicole Gee là nữ quân nhân mà còn có nữ trung sĩ TQLC Johanny Rosario Pichardo, 25 tuổi, cư dân Lawrence, Massachusetts. Nữ trung sĩ  Rosario served with the Naval Amphibious Force, Task Force 51/5th Marine Expeditionary Brigade.

Theo tin bổ túc của Zach Hester trên News19 đăng, Aug. 28, 2021 lúc 03:51 chiều CDT thì: Danh tính của 13 quân nhân Hoa Kỳ bị tử thương trong cuộc đánh bom tự sát ở phi trường Kabul, tai Afghanistan – được The U.S. Department of Defense (DOD) công bố – gồm có: 

  • Marine Corps Staff Sgt. Darin T. Hoover, 31, of Salt Lake City, Utah.

  • Marine Corps Sgt. Johanny Rosariopichardo, 25, of Lawrence, Mass.

  • Marine Corps Sgt. Nicole L. Gee, 23, of Sacramento, Calif.

  • Marine Corps Cpl. Hunter Lopez, 22, of Indio, Calif.

  • Marine Corps Cpl. Daegan W. Page, 23, of Omaha, Neb. 

  • Marine Corps Cpl. Humberto A. Sanchez, 22, of Logansport, Ind.

  • Marine Corps Lance Cpl. David L. Espinoza, 20, of Rio Bravo, Texas

  • Marine Corps Lance Cpl. Jared M. Schmitz, 20, of St. Charles, Mo.

  • Marine Corps Lance Cpl. Rylee J. McCollum, 20, of Jackson, Wyo.

  • Marine Corps Lance Cpl. Dylan R. Merola, 20, of Rancho Cucamonga, Calif. 

  • Marine Corps Lance Cpl. Kareem M. Nikoui, 20, of Norco, Calif.

  • Navy Hospitalman Maxton W. Soviak, 22, of Berlin Heights, Ohio

  • Army Staff Sgt. Ryan C. Knauss, 23, of Corryton, Tenn.

Theo báo cáo của The Associated Press, 169 Afghans cũng tử thương trong vụ nổ bom tự sát này.

Điều đáng buồn hơn nữa là trong danh sách 13 quân nhân Hoa Kỳ bị tử thương tại phi trường Kabul có 05 quân nhân chỉ mới 20 tuổi. Khi New York bị ISIS tấn công, Sept-11-2001, đưa đến việc Hoa Kỳ đưa quân vào Afghanistan, 05 quân nhân này chưa được sinh ra hoặc chỉ còn là em bé!

Nữ quân nhân Hoa Kỳ – cũng như nữ quân nhân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) – chỉ phụ trách việc văn phòng, tiếp liệu, ý tế, tâm lý chiến chứ không được trực tiếp tham chiến tại mặt trận.

Theo cựu trung tá TQLC Kate Germano, khi cuộc chiến tại Afghanistan bùng nổ – October-07-2001, với chiến dịch “Enduring Freedom” do Tổng Thống Hoa Kỳ George W Bush ký sắc lệnh, sau khi Taliban từ chối giao nộp mastermind Osama bin Laden’s al-Qaida organization – nữ quân nhân Hoa Kỳ cũng không được phép thực hiện công tác tại cổng gác. 

Nhưng, khi cuộc rút quân tại Afghanistan bắt đầu, nhận thấy việc kiểm soát phụ nữ và trẻ em tại sân bay sẽ gặp nhiều trở ngại – vì phong tục và văn hóa dị biệt –  nữ trung sĩ Nicole Gee và nữ trung sĩ Johanny Rosario Pichardo tình nguyện nhận lãnh phần việc giúp đỡ và kiểm soát phụ nữ cũng như trẻ em Afghans đi qua cổng gác. 

Không ngờ, hành động thiện nguyện của hai nữ trung sĩ TQLC Hoa Kỳ này lại đưa đến kết quả quá thảm khốc và đau thương!

Bên cạnh sự cảm phục dành cho nữ quân nhân Hoa Kỳ cũng như nữ quân nhân VNCH và nữ quân nhân các nước văn minh, tâm hồn tôi lại âm thầm xót xa khi nghĩ đến thân phận phụ nữ thiếu may mắn ở Trung Đông; bởi vì, tại 18 nước bên Trung Đông, phụ nữ bị thiệt thòi rất nhiều, về mọi phương diện. 

Vì thế, khi đọc bảng tin bổ túc của The Associated Press, Aug.-17-2021, lúc 12:15PM ET, tôi thầm vui, vì câu này: A Taliban spokesman promised Tuesday that the insurgents who overran Afghanistan in recent days would respect women's rights and would not exact revenge …” Niềm vui trong tôi vừa đến, chợt tan biến, khi tôi đọc câu kế tiếp: “Mujahid promised the Taliban would honor women's rights, but within the norms of Islamic law {…} He promised the insurgents would secure Afghanistan — but seek no revenge against those who worked with the former government or with foreign governments or forces…” 

Tự dưng tôi cảm thấy hoài nghi và rồi hệ quả khóc hờn của những lời kêu gọi xảo trá do cộng sản Việt Nam (csVN) lập mưu để “lùa” tất cả thành phần ưu tú của miền Nam Việt Nam – không thể chạy thoát trước khi csVN cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam – vào tù, sau 30-04-1975, lại bừng sống trong hồn tôi!

Sau giây phút xúc động, tôi bình tâm và nhận ra rằng: Người csVN không những ác độc với phụ nữ miền Nam mà trong cuộc chiến, 1954-1975, người csVN cũng đã hành xử tàn ác và man rợ đối với ngay cả phụ nữ và thiếu nữ miền Bắc Việt Nam rồi!

Thật vậy! Suốt cuộc chiến, từ 1954 đến 1975, do csVN xé Hiệp Định Ba-Lê, đưa quân xẻ Trường Sơn xâm lăng miền Nam, nếu bao nhiêu ngàn trái tim của phụ nữ miền Bắc đã nát tan theo từng bước chân của người thân trong đoàn quân csVN tham tàn và háo chiến trên đường mòn Hồ Chí Minh thì phụ nữ miền Nam cũng chịu nhiều đau thương, mất mác vì người thân gục ngã trong những cuộc cường tập do csVN gây nên! 

Trong khi thiếu nữ miền Nam Việt Nam – nhờ sự hy sinh vô bờ của người Lính VNCH – vẫn được sống trong thanh bình, được cắp sách đến trường, thì, không biết bao nhiêu ngàn thiếu nữ miền Bắc Việt Nam bị csVN buộc phải theo đoàn quân csVN khát máu, xẻ dọc Trường Sơn để thực hiện những công tác nặng nhọc như tải đạn, tải nhu yếu phẩm, tải nhiên liệu, lái xe vận tải, hộ lý, v.v… đề được làm anh hùng!

Trên thế giới, chỉ có những kẻ tàn ác và không có lòng nhân đạo – như người csVN – mới dùng hai chữ “anh hùng” để chiêu dụ, phỉnh gạc những em bé chỉ hơn 10 tuổi vào quân đội. Đây là bằng chứng do chính csVN phổ biến:

1.- Phó Tổng tham mưu trưởng QĐND csVN Nguyễn Trung Thu, vtướng đánh giặc từ thuở lên 10. {…}10 tuổi, Trung Thu đã tự chế mìn, lựu đạn, vũ khí đánh địch theo chiến thuật du kích. {…} Cậu bé quyết định mang 05 quả mìn bỏ vào bao mang đi gài địch. Link: 

https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/vi-tuong-danh-giac-tu-thuo-len-10-103503.html

2.- Nguyễn Thị Ánh Thu, năm 14 tuổi, đã tình nguyện tham gia từ công tác giao liên, du kích xã rồi làm chỉ huy xã đội Song Thuận…Link: https://vov.vn/xa-hoi/huyen-thoai-ve-nu-anh-hung-tieu-diet-tren-100-linh-my-nguy-461262.vov

3.- Cao Thị Hương, 15 tuổi, nữ du kích đầu tiên bắn rơi máy bay Mỹ trên đất Củ Chi bằng súng bá đỏ (loại súng trường lên đạn từng viên). Chú thích này là của LĐ - Số 63 Lê Tuyết - 11:24 AM, 20-03-2015, trên báo Lao Động. Link: 

http://tamlongvang.laodong.com.vn/phong-su/huyen-thoai-ban-roi-may-bay-my-bang-sung-ba-do-306675.bld

Vận tốc và cao độ của phi cơ phản lực mà bị “nữ cán bộ nhí” dùng súng trường, lên đạn từng viên, bắn hạ thì…quả thật người csVN đã thể hiện được tất cả bản chất của những em bé ngày xưa chỉ biết chăn trâu, chăn bò!

4.- Danh sách 12 “anh hùng nhí” – nhóm chữ này và danh sách “anh hùng nhí” rất dài, ngày trước được dư luận viên csVN quảng bá trên internet. Sau khi bị vài bài của người Việt di tản chỉ trích, dư luận viên csVN đã đổi thành “anh hùng trẻ tuổi” và danh sách trẻ em bị csVN lừa, đưa vào chỗ chết để được làm anh hùng đã bị rút ngắn rất nhiều; nay chỉ còn:

-* Nguyễn Bá Ngọc (1952 - 1965), 13 tuổi.

-* Dương Văn Nội (1932 - 1947), 15 tuổi.

-* Dương Văn Mạnh (1930-1944), 14 tuổi.

-* Vừ A Dính (1934-1949), 15 tuổi.

-* Kim Đồng (1929-1943), 14 tuổi, v.v…

Dưới thời VNCH, tại Saigon và các thành phố lớn, không ai lạ gì trò đánh lén của Việt cộng – tay sai rất đắc lực của csVN. Việt cộng gói kỷ mìn hoặc lưu đạn,  vào giỏ đi chợ, rồi bảo em bé đánh giày hay là em bé ăn xin, đem gói đó đến chỗ lính Mỹ đứng đón xe bus, trao cho lính Mỹ để được lính Mỹ cho “kẹo cao su” – chewing gum – rồi em bé sẽ trở thành anh hùng!

Người Mỹ, với bản tính nhân hậu, rất thích và tin tưởng trẻ em, cho nên, không những không đề phòng mà còn lấy kẹo cho em bé nữa. Thế là mìn nổ! Lính Mỹ và đứa bé Việt Nam chết không toàn thây!

CsVN đã lợi dụng sự thơ dại của trẻ em để đưa trẻ em vào chỗ chết! Thế mà người csVN và bộ đội ông Hồ Chí Minh lúc nào cũng “tự sướng”, tự ca ngợi những “chiến công huyền thoại” do các em bé chỉ hơn 10 tuổi thi hành!

Hỡi người csVN! Suốt chiều dài của dòng lịch sử cận đại, csVN đã áp dụng những thủ đoạn gian manh, lừa lọc để giết hại cả triệu triệu người đồng chủng; rồi phổ biến hình ảnh những em bé ôm súng; mấy cụ bà thêu dệt chuyện “đánh Mỹ cứu nước” và hình ảnh bi thảm có thật của không biết bao nhiêu ngàn thiếu nữ Bắc Việt mất xác trên đường mòn Hồ Chí Minh, v.v…chỉ làm cho nhân loại ghê tỡm về sự tàn ác và dã man của người csVN chứ những hình ảnh đó không thể gây được chút thiện cảm nào trong lòng người!

Gần đây, chỉ một tấm ảnh của nữ trung sĩ TQLC Hoa Kỳ – Nicole Gee – ôm em bé người Afghan với thái độ đầy thương cảm thì nhiều cơ quan truyền thông quốc tế đều phổ biến và ca ngợi! 

Nhân loại chỉ tôn trọng sự thật, trân quý những tâm hồn cao thượng và những trái tim biết rung động vì tình người – như nữ trung sĩ TQLC Hoa Kỳ, Nicole Gee – chứ nhân loại không bao giờ thán phục hoặc ca ngợi sự tàn ác, dã man, như những gì người csVN đã và đang áp đặt lên thân phận người Việt Nam!


ĐIỆP MỸ LINH

https://www.diepmylinh.com/

*.- Bài này do sự gợi ý của nhà báo Vương Trùng Dương.


2021/09/07

 Tùy bút

TẠ ƠN MẢNH ĐẤT NÀY

1

ĐIỆP MỸ LINH

Trong chuyến du hành nội địa, tình cờ tôi được ngồi cạnh hai thanh niên. Sau vài câu xã giao tôi được biết người anh tên Mike và người em tên Jack. Jack có mái tóc vàng như tơ và mái tóc đó được cắt và chải giống y mái tóc của Justin Bieber – một nghệ sĩ rất trẻ và đầy tài năng của nền nhạc trẻ Canada. Mike có khuôn mặt tương tự như khuôn mặt của cựu phó tổng thống Hoa-Kỳ, Dan Quayle, và màu mắt của Mike xanh như màu nước của hồ Diablo.

Tôi không hiểu vì cả hai anh em đều có nụ cười vô tư và nói chuyện rất lễ phép hay là vì bộ quân phục rằn ri của Mike mà tôi cảm thấy có rất nhiều thiện cảm với hai thanh niên này. Tôi hỏi hai anh em đi về đâu. Jack bảo Jack muốn tiễn Mike một đoạn đường. Tôi hỏi tiễn Mike đi đâu? Jack quay nhìn Mike, dường như Jack không muốn nhắc đến địa danh nào đó mà Mike sẽ phải đến. Như hiểu ý cậu em, Mike đáp lời tôi: 

-Tôi đi Iraq.

Tôi bàng hoàng nhìn Mike. Như nhận ra niềm xúc động trên mặt tôi, Mike vói tay sang phía tôi, vỗ vỗ trên cánh tay của tôi, tiếp: 

-Không sao đâu, bà đừng lo. Tôi đã tham chiến tại Iraq hai lần rồi, đây là lần thứ ba.

Tôi muốn nói với Mike nhiều điều nhưng sao tôi cứ nghẹn lại như sắp khóc, nói không thành lời!

Để nén xúc động, tôi quay mặt ra cửa sổ phi cơ. Chờn vờn trong những áng mây trắng như bông gòn, tôi tưởng như tôi có thể thấy lại tấm ảnh và bản tin về sự “trở về” của First Lieutenant Paul Magers! 

Paul chết khi chàng chỉ 25 tuổi và mới đến Việt-Nam chỉ có hai tuần! Paul biết quê tôi chỉ hai tuần nhưng thân xác của Paul thì ở lại đó đến gần 40 năm! Trong ảnh, nụ cười của Paul cũng rạng rỡ, vô tư như nụ cười của Mike. Nụ cười đó mà biết hận thù ai! Ánh mắt đó mà muốn bắn giết ai! Bởi vậy mới có một chiến binh Hoa-Kỳ – James Lenihan – trong trận Thế Giới Đại Chiến II, đã bắn kẻ thù xong thì gục đầu bên xác kẻ thù mà khóc:

I shot a man yesterday

And much to my surprise,

The strangest thing happened to me

I began to cry.

 

He was so young, so very young

And Fear was in his eyes.

He had left his home in Germany

And came to Holland to die


I knelt beside him

And held his hand

I begged his forgiveness

Did he understand?

 

It was the War

And he was the enemy

If I hadn’t shot him

He would have shot me.

 

I saw he was dying

And I called him “Brother” 

But he gasped out one word

And that word was “Mother.”…

 Đang chìm đắm trong dòng suy tư, tôi choàng tĩnh khi tiếng của trưởng phi hành đoàn thông báo phi cơ sẽ đáp xuống phi trường trong vài phút.

Khi chia tay tại nơi lãnh hành lý, tôi nắm tay Mike, nói với Mike những lời biết ơn rất thành thật và sâu xa. Mike cười: 

-Đó là bổn phận của chúng tôi

Nhìn dáng Mike xa dần tôi cảm nhận được nỗi lo âu, niềm thương cảm đang dâng lên chất ngất trong hồn tôi. Khung cảnh này và trạng thái tình cảm này khiến tôi nhớ lại những giờ phút bàng hoàng/hoang mang/xốn xang/lo sợ của tôi tại phi trường Frankfurt.

Lý do đưa tôi vào trạng thái tình cảm phức tạp đó khởi nguồn từ một chuyến du lịch xa…

*      *

*

Vừa rời chiếc xe buýt của công ty du lịch Trafalgar, tôi chú ý ngay đến một nhóm đàn ông lớn tuổi – người Nga – ngồi bên trái lối đi, cạnh con kinh đào. Mỗi ông mang một nhạc cụ nhà binh như saxophone, trumpetclarinet, v.v. Không hiểu có phải vì nghe những tiếng thầm thì bằng tiếng Anh của du khách hay không mà bỗng nhiên ban nhạc đều đứng lên, cử hành Quốc Ca Hoa-Kỳ.

Nhóm du khách và tôi đều dừng bước, ngạc nhiên, vì đây là lãnh thổ của Nga. Du khách Mỹ để tay phải lên lồng ngực bên trái. Nhìn các nhạc công, tôi nghĩ, có lẽ họ là những người lính trẻ nhất của trận thế chiến thứ II. Tôi cảm thấy nao nao buồn. Những người lính già nua, yếu đuối đang cố kéo chút hơi tàn để tìm sự sống qua bản Quốc Ca của kẻ thù xưa; vì lương hưu của cựu chiến binh Nga rất thấp!

Bài Quốc Ca Hoa Kỳ dứt. Du khách vui vẻ lấy tiền cho vào cái sắc nhỏ được đặt trước mặt các nhạc công. Các nhạc công ngồi xuống, đồng tấu tiếp nhạc khúc America, the Beautiful. Tôi đứng lặng, lòng đầy xúc động.

Niềm xúc động trong tôi lúc này cũng dạc dào như năm 1977, khi con gái lớn của tôi – Xuân Nguyệt – lúc đó đang học lớp 8, được trao tặng giải nhất toàn tiểu bang Arizona về bài luận văn “What Makes America Beautiful?”

Gia đình tôi được giúp phương tiện để đưa Xuân-Nguyệt từ Yuma đến Phoenix nhận phần thưởng trong một buổi lễ vô cùng long trọng. Đó là lần đầu tiên tôi nghe ca khúc America, the Beautiful được cả hội trường đồng ca. Tự dưng tôi khóc. Nhưng rồi âm điệu và lời ca của bản nhạc khiến lòng tôi lắng xuống. Tôi trầm tĩnh lại để nhận những vòng tay thân ái và những lời chúc mừng của những người Mỹ quanh tôi. Theo những lời chúc mừng của những người chưa quen này, tôi hiểu những người này nghĩ rằng tôi xúc động vì thành quả của con gái tôi. Điều đó chỉ đúng một phần; vì, ngoài sự hãnh diện của một người Mẹ, những giọt nước mắt của tôi còn mang nặng niềm âu lo và sự lạc lõng trước một tương lai đầy thử thách mà tôi không hiểu tôi có thể vượt qua được hay không!

Hơn 26 năm qua, với tất cả hy sinh và nỗ lực, gia đình tôi đã vượt được nhiều trở ngại. Các con/dâu/rể của tôi hiện đang đem tất cả khả năng và kiến thức đã học hỏi, đã hấp thụ tại đất nước này để góp công xây dựng một nơi mà ai cũng hơn một lần ước mơ được nhìn tận mắt sự văn minh và phồn thịnh.

Riêng tôi, ngoài sự văn minh và phồn thịnh, nước Mỹ còn có những công dân với trái tim rất vỹ đại. 

Chỉ có những trái tim vỹ đại mới có thể thực hiện những chuyến máy bay đầy thực phẩm, thuốc men cùng những phái đoàn y tế tình nguyện sang Phi châu cứu đói. Chỉ có những trái tim vỹ đại mới sáng tác và hát say sưa nhạc bản We Are The World để quyên góp hiện kim gửi sang Phi châu cứu đói. Chỉ có những trái tim vỹ đại mới đưa nhiều phái đoàn y dược sỹ, dụng cụ y tế sang Nga cứu giúp khi lò nguyên tử của Nga, tại Chernobyl, bùng nổ. Chỉ có những trái tim vỹ đại mới có thể thực hiện những chuyến bay khẩn cấp để di chuyển hằng mấy trăm em bé mồ côi ra khỏi Việt-Nam vào cuối Tư năm 1975. Chỉ có những trái tim vỹ đại mới cứu giúp hết đợt di dân này đến đợt di dân khác. Trong số triệu triệu di dân đó có gia đình tôi. Gia đình xin tôi biết ơn:

*- Cựu Thiếu Tá Thủy Quân Lục Chiến và bà Michael Z. Smith, người đã bảo trợ chúng tôi từ Camp Pendleton. Ông bà Smith có ba người con: Michael, hiện là Đại-Úy Không Quân Hoa-Kỳ và cô con gái nuôi, người Nhật, Kristin cùng với bé Heather. Hiện nay ông Smith là một mục sư ở California.

*- Ông bà Collins. Ông Collins từng tham chiến tại Việt-Nam. Ông được một gia đình Việt-Nam che chở trong khi Việt-Cộng ruồng bắt. Ông Collins bảo vì Ông mang ơn người Việt cho nên Ông thương và muốn giúp đỡ người Việt với tất cả nhiệt tình. May mắn cho chúng tôi, vì chúng tôi là gia đình Việt-Nam duy nhất tại thành phố Yuma.

*- Ông bà Collard, người đã thật lòng thương yêu gia đình tôi như ruột thịt. Ông bà thường vui vẻ và hãnh diện giới thiệu với mọi người rằng chúng tôi là con và cháu của ông bà. 

Tôi không hề biết ông Collard là một cựu chiến binh thế chiến thứ II; vì không bao giờ Ông nhắc nhở hoặc đề cập đến cuộc chiến khốc liệt đó. Đến khi Ông Collard qua đời, người bạn đồng ngũ của Ông đọc điếu văn, tôi mới biết ông Collard có mặt trong trận Trân-Châu-Cảng. Chính ông Collard đã cứu giúp nhiều người, kể cả người đang đọc điếu văn, rời khỏi chiến hạm… và Ông là người sau cùng. 

Sự hiểu biết của tôi về quân nhân Hoa-Kỳ trong trận Trân-Châu-Cảng hoặc Normandy chỉ căn cứ theo sách vở và phim ảnh nên rất mơ hồ, rất hạn hẹp. Nhưng sự hiểu biết của tôi về sự hy sinh và lòng quả cảm của người lính Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt-Nam thì khá tường tận – tường tận hơn cả những cuốn sách viết về chiến tranh Việt-Nam mà tác giả chưa bao giờ có mặt tại chiến trường Việt-Nam. Do đó, tôi nhận thấy, dù cuộc chiến kết thúc một cách tức tưởi, thiếu công bằng, nhưng cũng phải chấm dứt, vì máu của người Việt – cả hai miền Nam Bắc – và máu của người Mỹ đã chan hòa trong từng thước đất nơi quê hương nghèo khó của tôi.

Sau khi miền Nam bị bức tử, hạm đội Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa đã di tản cả mấy mươi ngàn người Việt thoát khỏi hiểm họa Cộng-sản. Nhưng nếu không có sự hiện diện của Đệ-Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ tại Thái-Bình-Dương cũng như không có sự giúp đỡ vô điều kiện của nhân dân Hoa-Kỳ thì số người tỵ nạn khổng lồ của chúng tôi sẽ về đâu?

Nương vào lòng nhân ái của người Mỹ, chúng tôi vào Mỹ với thái độ biết ơn và lòng tự tin để vươn lên.

Người Việt, qua bao thử thách cam go, đã vươn lên, đã góp công xây đắp và bảo vệ đất nước này.

Khi cuộc chiến Trung-Đông bùng nổ, năm 1992, tôi đã đau buồn và lo sợ khi đưa tiễn một độc giả trẻ và thân thiết nhất của tôi – Hải Quân Đại Úy Hoàng Quốc Tuấn – tòng sự trên hàng không mẫu hạm USS. Independence, ra khơi, tiến về vùng lửa đạn của Persian Gulf. Trong lá thư gửi về từ vùng Vịnh, Tuấn viết: “… Người lính Hoa-Kỳ được huấn luyện để bảo vệ Hòa-Bình chứ không phải để gây chiến ...” Theo tinh thần cao cả đó, biết bao thanh niên nam nữ Vietnamese-American đã tốt nghiệp hoặc đang thụ huấn tại các quân trường lừng danh của Hoa-Kỳ như West Point Academy, Naval Academy, Air Force Academy, v. v…

Ngoài những tham gia đáng kể về quân sự, giới trẻ Việt-Nam cũng đã và đang xây đắp đất nước này trong tất cả mọi lãnh vực như truyền thông, giáo dục, y tế, khoa học, khoa học không gian, v. v.

Giới trẻ Việt-Nam có những đóng góp lớn lao như vậy thì những nỗ lực của thế hệ di dân Việt-Nam đầu tiên cũng không nhỏ. Thử nhìn bản đồ của các thành phố lớn như Los Angeles, San José, Houston, v. v… thì sẽ thấy: Từ những vùng đất hoang tàn cách nay 20 năm, bây giờ đã trở thành những vùng thương mại sầm uất do người Việt khai thác. Và trong các hãng, xưởng, văn phòng, biết bao người mang họ Nguyễn, Lê, Trần …

Khi những đóng góp của người Việt vào đất nước này mỗi ngày mỗi thăng tiến thì bỗng dưng sự phá hoại từ đâu ùa đến, phủ chụp xuống ngay lòng đất nước mà gia đình tôi đã âm thầm nhận là quê hương thứ hai.

http://old.danchimviet.info/wp-content/uploads/2010/09/september_11_burning-400x481.jpg

11 September. Ảnh On the net

Tin Nữu-Ước và Hoa-Thịnh-Đốn bị máy bay tấn công đến với tôi trong lúc tôi cùng nhóm du khách dùng cơm trưa sau những giờ thăm viếng thành phố Minks. Tôi ngồi bất động, lòng đầy phẫn uất. Nếu bảo rằng tôi không lo sợ thì không hẳn đúng; nhưng niềm lo sợ trong tôi bây giờ khác hẳn với sự hãi sợ của đứa bé gái, giữa thập niên 40, theo Cha Mẹ tản cư và thấy những chiếc máy bay mang cờ tam tài (cờ Pháp) bắn phá những làng mạc xác xơ. Những chiếc máy bay đó bắn vào tất cả những vật thể nào di động; vì vậy nông dân không giám ra đồng, súc vật bị giết hại, sinh sản không kịp và con người thì đói và thiếu thốn mọi bề.

Hơn hai mươi năm sống yên lành tại miền Nam nước Việt và hơn hai mươi năm sống thanh bình trên đất Mỹ, tôi cứ ngỡ rằng bom đạn đã xa tôi, không còn cơ hội làm tôi sợ hãi nữa. Nhưng không! Trên màn ảnh TV, một tòa nhà của The World Trade Center bốc khói và một chiếc máy bay lao thẳng vào tòa nhà thứ hai. Cả hai tòa nhà lần lượt sụp xuống trong khi niềm phẫn uất trong tôi dâng cao như những cuộn khói đen ngòm thoát ra từ The Twin Towers. Tình cảm trong tôi chẳng khác gì nỗi đau xót của tôi cách nay hơn một phần tư thế kỷ, khi Việt-Cộng pháo kích ồ ạc vào Saigon.

Là một phụ nữ được giáo dục chỉ để nuôi con và phục tùng chồng, ngày đó, trước thảm trạng của quê hương Việt-Nam, tôi chỉ biết viết những dòng ca ngợi tinh thần chiến đấu can cường của Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa và tôn vinh lòng hy sinh vô bờ của những người Mẹ, người vợ và người con.

Bây giờ, trước sự đổ nát và thiệt hại nhân mạng một cách phi lý và tàn bạo tại Nữu-Ước và Hoa-Thịnh-Đốn, tâm hồn tôi bị chấn động mạnh và tôi muốn viết ra những ý nghĩ thầm kín của tôi về một nơi chốn mà gia đình tôi âm thầm thọ ơn. Ý nghĩ này làm cho cuộc du lịch giảm thiểu nhiều phần thích thú. Cuộc du lịch này chỉ vì sự tò mò của tôi, muốn tìm hiểu về một nước Nga rộng lớn.

Nước Nga rộng lớn nhưng môi người Nga không đàn hồi cho nên người Nga không biết cười. Thức ăn của người Nga thường là những miếng thịt dai dừ, mà không ai đoán được và cũng không ghi trong thực đơn là thịt gì, được tẩm trứng hoặc bột rồi chiên, không mùi vị, ăn đệm với khoai tây. Lâu lắm, may ra mới có một bữa thịt gà. Thức ăn của Mỹ như các loại kẹo, ice cream và sản phẩm của hãng Coca Cola được bày bán khắp nơi. Tôi cũng thấy vài nhà hàng McDonald’s và Pizza Hut. Sản phẩm tiểu công nghệ của Nga như thủy tinh và đồ gỗ thì tuyệt đẹp, vì được làm bằng tay. Hệ thống Metro của Nga tại Moscow rất tối tân, dù đã được hoàn tất cách nay nửa thế kỷ. Cứ 30 giây, (vâng, 30 giây) thì một chuyến tốc hành đến và một chuyến đi ngược lộ trình với chiếc kia. Trong sinh hoạt hằng ngày, người Nga không ăn mặc giản dị, xềnh xoàng như người Mỹ. Những buổi trình diễn ballet, skate on ice làm tôi say mê bao nhiêu thì những màn vũ dân tộc và những bản dân ca cũng khiến hồn tôi giao động bấy nhiêu. Âm hưởng dân ca của Nga mang nặng niềm thống thiết của dân du mục.

Dân Nga rất kiêu hãnh về Red Square, vì đó là biểu tượng của thủ đô. Khi thấy trong hình và phim ảnh, tôi cũng nghĩ Red Square rất vỹ đại. Nhưng sau khi thấy tận mắt, tôi nghĩ – không phải vì định kiến chính trị – Red Square không là gì cả, vì thiếu sự hài hòa giữa thiên nhiên và nhân tạo. Khu vực Red Square được lát bằng gạch, trên triền đồi thoai thoải, diện tích khoảng một phần ba của công trường Thiên-An-Môn. Phần cao nhất của Red Square là tòa nhà của chính phủ và mộ của Lenin. Chân đồi bên này là ngôi nhà thờ với những chóp cao hình tròn, chạm trổ và sơn phết rất rực rỡ. Chân đồi bên kia chỉ là một lối đi rộng lớn. Lối đi này, vào những dịp diễn hành để phô trương lực lượng, được Hồng Quân Nga cũng như thiết giáp và các cơ giới nặng dùng làm lối ra. Bây giờ, trên lối ra này, người ta xây một ngôi nhà trên cao, phía dưới để trống vừa đủ cho bộ hành và xe hơi nhỏ ra vào. Lối vào Red Square, phía nhà thờ, cũng được chận lại bằng nhiều dãy trụ xi-măng, với mục đích không cho thiết giáp và cơ giới nặng vào điện Cẩm-Linh.

Trước điện Cẩm-Linh, ban đêm, trong khi những cặp tình nhân thủ thỉ bên nhau những lời mặn nồng thì những người Nga lớn tuổi lại chậm bước, lòng hướng về một thủ đô đã đổi tên: St. Petersburg.

St. Petersburg là một thành phố mang nặng di tích lịch sử của Nga-Hoàng. St. Petersburg không chinh phục được cảm tình của tôi nếu không có ngôi nhà thờ cổ còn hằn vết đạn của thời Hitler xâm lược và những bức tranh đầy sinh động của Ivan Aivazovsky, Wassily Kandinsky, Pavel Filonov, v. v… Những dòng sông ở St. Petersburg đã để lại trong hồn tôi rất nhiều lưu luyến. Những dòng sông im lìm, nhẫn nhục, chỉ biết len lõi trong từng ngõ ngách của thành phố trước sự kiêu căng thách đố âm thầm nhưng lố bịch của từng dãy lâu đài nguy nga. Lúc xuôi theo giòng Neva, trong khi mọi người lưu ý đến mấy chiếc cầu dựng đứng, vào những giờ nhất định, để tàu thủy có thể đi qua, thì tôi chỉ nghĩ đến những gì tôi đã thấy trên đoạn đường sau khi vào biên giới Nga.

Trên đoạn đường loang lở ở biên giới, tôi đã thấy những xóm nhà lụp xụp. Thỉnh thoảng tôi mới thấy một chiếc xe hơi cũ thật cũ đậu dưới tàng cây, không biết xe còn xử dụng được hay không. Nơi khoảng sân hẹp, mỗi nhà thường cất một cái chòi nhỏ, mái và chung quanh được bọc ny-lông, để trồng hoa màu. Tôi cũng thấy người dân quê canh tác bằng tay chứ không bằng máy.

Những hình ảnh nghèo khó này cứ theo tôi mãi. Nhưng khi đến Minsk, mọi hình ảnh đều bị đẩy lùi về quá khứ, chỉ còn trong tôi nỗi xót xa của một người vừa biết nơi mình nương náu hơn hai mươi năm qua đang bị xâm phạm nặng nề! 

Từ Minsk đến Riga, tôi thấy các thành phố đều treo cờ rũ và mọi người dân địa phương có vẻ sốt ruột, dán mắt vào TV hoặc ngóng tin tức từng giờ. Điều làm cho tôi xúc động nhất là hôm 14-09, lúc 12 giờ trưa, tại khách sạn Scandic thuộc thành phố Helsinki của nước Finland, ban giám đốc đã yêu cầu mọi người đứng nghiêm, dành năm phút mặc niệm để tưởng nhớ những nạn nhân của khủng bố tại Hoa-Kỳ.

Trong khi đứng nghiêm tôi vẫn bị những lời tường trình của xướng ngôn viên đài truyền hình CNN, từ chiếc TV lớn treo nơi góc phòng khánh tiết, chi phối. Tôi đau đớn, xốn xang trong lòng như ngày xưa, năm 1968, hay tin cộng sản Việt Nam tấn công và cưỡng chiếm thành phố Huế – quê Ngoại của tôi.

Sau khi Huế được quân lực Việt Mỹ giải tỏa, tôi nôn nóng muốn trở về để nhìn sự tan thương và đổ nát của quê Ngoại. 

Bây giờ, tại phi trường Helsinki đợi máy bay để sang Frankfurt, tôi cũng nôn nóng muốn trở về một nơi mà tôi gọi là nhà – Home. Nhưng bà nhân viên hãng hàng không Lufthansa, sau khi nhìn vé máy bay và thấy rõ ràng tôi không phải là một người da trắng, tóc màu, đã khẳng định:

- Bà có vé. Tôi sẽ ghi tên bà vào danh sách, nhưng sẽ không có chỗ cho bà. Bà phải chờ, vì đây là chuyến phản lực 747 đầu tiên từ Đức vào lục địa Hoa-Kỳ.

- Vé của tôi mua từ lâu, tại sao bây giờ tôi phải chờ? Và chờ đến bao giờ?

- Rất tiếc, tôi không biết bà phải chờ đến bao giờ. Khi nào có chỗ chúng tôi sẽ thông báo cho bà. Hiện tại, chúng tôi có rất nhiều hành khách ứ đọng từ mấy ngày qua. Và chuyến bay này, từ Helsinki đến Frankfurt để về Nữu-Ứớc, chỉ dành ưu tiên …

Không đủ kiên nhẫn chờ bà ấy nói hết câu, tôi cắt ngang:

- Tại sao tôi mới rời nhà chỉ có hai tuần mà nay tôi không thể trở về, hả?

Bà ấy ngạc nhiên, nhìn tôi, gằn giọng:

- Nhà?

Tôi đáp với giọng nghèn nghẹn như sắp khóc:

- Vâng! Nhà của tôi.

- Cho tôi xem thẻ thông hành.

Chỉ nhìn thoáng qua Passport, bà ấy thay đổi thái độ ngay:

- Vâng. Bà là công dân Mỹ. Bà ưu tiên đi chuyến bay này.

Tôi cúi xuống xách hành lý, lòng âm thầm tạ ơn nước Mỹ; nơi đã cho tôi hiểu thế nào là giá trị thực tiễn của tự do, dân chủ và công bằng. Và trên tất cả mọi điều, nước Mỹ đã cho tôi cơ hội thể hiện tinh thần tự lập của một phụ nữ./.


ĐIỆP MỸ LINH

https://www.diepmylinh.com/