2022/02/06

Mùa Xuân Đầu Tiên


Trần Mạnh Hảo: Tác phẩm “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao từng bị “giết” như thế nào?

Nhạc sĩ Văn Cao (file photo) - SGN


Không đợi khi Xuân đến, Tết về như dịp này, chúng tôi mới nghe lại bản nhạc bất hủ “Mùa xuân đầu tiên” Văn Cao khởi viết cuối Tháng Mười Hai 1975, hoàn thành trong dịp Tết Bính Thìn năm 1976. Đây là bài hát có số phận đặc biệt nhất trong cuộc đời sáng tác của Văn Cao. Đây cũng là bài hát mang nhiều tâm trạng đối lập, hòa trộn nước với lửa: vui ít, buồn nhiều, mừng ít, tủi nhiều, hoan ca ít, bi ca nhiều, tha thiết ít, nghẹn ngào nhiều, bâng khuâng ít, đau đáu nhiều, tự sự ít, ai oán nhiều, mê say ít, thở than nhiều, cứng cỏi ít, run run nhiều, da diết ít, nỉ non nhiều, cười ít, khóc nhiều, sum họp ít, cô đơn nhiều, yêu thương ít, đau thương nhiều, gặp gỡ ít, bơ vơ nhiều…

Hầu như tất cả trạng thái tình cảm trái ngược nhau của con người đều có trong bản nhạc kỳ lạ này: ai vui hát lên thì nghe vui, ai buồn hát lên thấy buồn não ruột, ai đau khổ hát lên thấy một trời đau khổ, ai sầu thảm hát lên thấy cả một thế giới sầu thảm đang đồng cảm cùng mình… Nghe đi nghe lại bản nhạc này, ta thấy xuất hiện trong tâm trí mình rất nhiều tâm trạng không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt. Nếu bạn đã hoặc đang đi qua bể khổ trần gian, nghe bản nhạc “Mùa xuân đầu tiên” bạn sẽ cảm thương, nhờ nước mắt diễn đạt nỗi lòng mình.

Riêng lời bài hát đã là một bài thơ hay:

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về

Mùa bình thường mùa vui nay đã về

Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên

Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông

Một trưa nắng cho bao tâm hồn

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về

Người mẹ nhìn đàn con nay đã về

Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên

Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh

Niềm vui phút giây như đang long lanh

Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên

Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm

Từ đây người biết quê người

Từ đây người biết thương người

Từ đây người biết yêu người

Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về

Mùa bình thường, mùa vui nay đã về

Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu

Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông

Một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông

Rất nhiều chim én, nhiều nắng gió, có nước mắt vui gặp gỡ của đàn con nay đã về, có cuộc đời êm ấm… nhưng sao hình ảnh “khói bay trên sông, gà đang gáy trưa trên sông” lặp lại hai lần làm không gian của “Mùa xuân đầu tiên” xa xôi, bơ phờ thế, xao xác thế, hoang vắng thế, hiu quạnh thế, đơn độc có phần cô đơn thế? Chợt nhớ nỗi buồn thiếu quê hương của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu xưa, cũng một tiếng gà trưa Văn Cao nay, một khói sóng trên sông xa Văn Cao nay, u hoài khôn xiết: “Một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông”:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị,

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

(Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?

Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!)

Chợt nhớ Lưu Trọng Lư “thời con nai vàng ngơ ngác” với câu thơ tiền chiến xưa sao rất đồng cảm với nỗi vui não nùng Văn Cao nay: “Tiếng gà trưa xao xác não nùng”.



 

Bài hát như một điệu valse bằng nước mắt; sự thướt tha, quý phái của một giai điệu bi thương; sự sang trọng của ngậm ngùi, day dứt; sự lãng mạn của một phiêu linh, xô dạt; sự mê đắm của một vu vơ; sự đoan trang của cái đẹp lỡ thì; sự liêu trai của ngơ ngác, đìu hiu; sự dịu dàng của nỗi thương đau, xót nhớ…

Chừng như đã mấy chục năm chiến tranh liên miên chưa từng có Xuân về? Chừng như gần hết cả đời người bận chuyện đấu tranh giai cấp giành giật miếng ăn chưa từng thấy chim én báo Xuân? Chừng như đã rất lâu rồi sự căm thù trùm lên xã hội không còn ai biết thương người? Chừng như đã lâu lắm rồi ta tha hương trên chính quê hương mình? Chừng như suốt mấy cuộc chém giết kinh hoàng mạo danh cách mạng, không còn ai biết yêu con người? Chừng như mấy mươi năm rồi con người đã quên mình còn nước mắt? Chừng như lâu rồi tâm hồn người không được sưởi nắng mùa Xuân?

Và chừng như lâu lắm rồi Văn Cao quên không còn nhớ mình từng là nhạc sĩ lãng mạn đã có cả chục ca khúc vào hàng kiệt tác? Chừng như cây đàn piano cũ kỹ do Hội nhạc sĩ Việt Nam cho Văn Cao thuê mỗi tháng bảy đồng (thuê căn gác chật hẹp cũ kỹ 108 Yết Kiêu 15 đồng) đã bị thời gian phủ bụi đầy rêu mốc? Chừng như đôi tai Văn Cao đã bị súng đạn thời cuộc, sự hò hét xướng ca hò vè phục vụ chính trị một thời làm ù đặc, khi tất cả kiệt tác âm nhạc của ông đều bị chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc) cấm hát, trừ bài Quốc ca (kể cả thơ Văn Cao cũng bị cấm)?

Và chừng như toàn bộ vết thương cuộc đời Văn Cao, vết thương cuộc đời dân tộc, bỗng mượn ngón tay ông mà nhỏ xuống cây đàn piano những giọt nước mắt giai điệu, khiến những vết thương chợt mở miệng ca hát: “Mùa xuân đầu tiên”.

Chừng như nỗi niềm ngày 30 Tháng Tư 1975: “Có một triệu người Việt Nam vui thì cũng có một triệu người Việt Nam buồn” (lời ông cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã hiện ra nơi bài hát “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao? Trong bài hát ấy, kỳ lạ thay, tôi nghe có một nửa nước vui thắng trận trào nước mắt và một nửa nước buồn thua trận cũng trào nước mắt, chợt ôm chầm lấy nhau mà quằn quại, mà dằn vặt giằng xé nhau, cười khóc mếu máo bầm dập nhau, nên vui ấy sao buồn hiu hắt thế, lênh đênh phiêu bạt thế, nức nở nghẹn ngào thế?

Có lẽ, chính vì những điều trên mà kiệt tác “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao sau khi được báo Sài Gòn Giải Phóng in trước Tết Bính Thìn, ngày 1 Tháng Một 1976, được hát trên Đài Tiếng nói Việt Nam mấy lần, liền bị cấm suốt 24 năm (1976-2000)! Sinh thời, Văn Cao không được nghe, được nhìn thấy đứa con tinh thần lớn lao này của mình được trình diễn. Sau khi ông mất (1995) năm năm, “Mùa xuân đầu tiên” mới ra khỏi nhà tù kiểm duyệt của chế độ.

Xin quý bạn đọc hãy nghe nhà thơ, họa sĩ Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao kể sơ qua về sự ra đời của bài hát này:

“Sau khi bài “Tiến về Hà Nội” ra đời cuối năm 1949, bố bị đưa ra kiểm điểm và bị phê phán khắp nơi. Từ đó bố đã thề, sẽ không sáng tác ca khúc chính trị nữa… Nhưng rồi những năm tháng sau này đôi lúc hứng khởi bố vẫn sáng tác. Vẫn biết có sáng tác ra cũng chẳng được dàn dựng… Tôi còn lưu giữ được một số tác phẩm của ông sáng tác sau này nên tôi hiểu những điều ông nói. Giá như ông không bị rơi vào cái nạn “Nhân văn” và bị “vô hiệu hóa” mất 30 năm thì tôi chắc rằng ông sẽ còn sáng tác được thêm nhiều tác phẩm cho nền âm nhạc Việt Nam. Những ngày tháng sau đó, căn gác nhỏ nhà Văn Cao không lúc nào ngớt khách. Những khuôn mặt bừng sáng. Những nụ cười rạng rỡ. Những giọt nước mắt sung sướng bên những ly rượu tràn đầy và có cả những khuôn mặt, một thời không dám bước chân đến căn gác nhỏ này vì sợ “bị vỗ vai”. Văn Cao đã sáng tác xong ca khúc MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN vào đúng dịp tết Bính Thìn”.

(Trích bài “Văn Cao với ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Thao in trên Tạp chí Sông Hương số 179-180).

Văn Thao tiết lộ tiếp rằng, bài hát bị cấm ở Việt Nam nhưng bên Liên Xô người ta lại dịch sang tiếng Nga, phát trên Đài phát thanh Moscow:

“Nhưng cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng con đường nào), trong cái năm 1976 ấy, MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN đã được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100 rúp. Văn Cao phải viết giấy ủy quyền qua sứ quán để con gái ông đang học bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: ‘Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu”.

Nhạc sĩ Văn Cao dưới nét vẽ của họa sĩ Trần Thế Vĩnh


Qua tiết lộ trên của anh Văn Thao, con trưởng nhạc sĩ, thì nhà ông Văn Cao trên căn gác nhỏ 108 Yết Kiêu suốt một thời luôn luôn có công an ngầm canh gác, ai đến đều “bị vỗ vai” hỏi tên tuổi, xem đến nhà tên phản động “Nhân Văn” làm gì? Người viết bài này sau năm 1975 có lần đến thăm nhạc sĩ Văn Cao để cho ông mượn cuốn tiểu thuyết vĩ đại “Giờ thứ 25” của văn hào Romania Constantin Virgil Gheorghiu (1916-1992) mang ra từ Sài Gòn như đã hứa, cũng từng bị công an mật “vỗ vai” hỏi đi đâu? Bèn bảo: Đi phỏng vấn tác giả Quốc ca viết bài in báo cũng bị cấm à? Người “vỗ vai” hất đầu cộc lốc: “Vào đi”.

Người ta đã cầm giữ Văn Cao như một tù nhân lương tâm bị giam lỏng, một thứ nhà tù tại chỗ, nhà tù nhân dân kiểu xã hội chủ nghĩa. Rằng Văn Cao bị vô hiệu hóa suốt 30 năm vì tội Nhân Văn-Giai Phẩm. Rằng suốt 30 năm ấy, nhạc sĩ Văn Cao sống rất nghèo khổ, “bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu”.

Chúng ta lại được nghe người con trai thứ của nhạc sĩ Văn Cao, nhà thơ Nghiêm Bằng kể sơ qua về sự ra đời của “Mùa xuân đầu tiên”:

“Đó là một đêm vào giữa Tháng Mười Hai 1975. Chúng tôi đang sống với cha mẹ trong ngôi nhà số 108 Yết Kiêu. Mùa Đông, Hà Nội rét tê tái. Cha tôi đã từ lâu rồi không đàn. Vậy mà trong đêm ấy, tôi nghe có tiếng chân nhè nhẹ lần từng bước từ phòng trong ra gần chiếc đàn piano – đối diện với chiếc đivăng tôi đang ngủ. Một giai điệu khe khẽ vang lên, nó được đàn bởi một bàn tay phải. Cũng phải nói thêm là cha tôi đã đàn trên chiếc đàn vốn được Hội Nhạc sĩ Việt Nam cho thuê lại với giá bảy đồng rưỡi một tháng (lương tôi hồi đó là 63 đồng, còn tiền thuê nhà là 15 đồng); từ ngày kỷ niệm 30 năm Tiến quân ca (1974), chiếc đàn mới được tặng hẳn cho cha tôi thì cha lại rất ít có dịp dùng đến.

“Bài hát đã được báo Sài Gòn Giải Phóng số năm mới 1 Tháng Một 1976 in trang trọng ở bìa bốn và thu thanh ngay sau đó, được phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, nếu tôi không nhầm thì do ca sĩ Trần Khánh và đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam trình bày. Bài hát được phát khoảng mươi lần trong chừng một tháng (hồi ấy ca khúc được truyền bá chủ yếu qua sóng phát thanh), rồi không hiểu sao lặng lẽ chìm đi, như thể bị quên lãng. Như mọi lần, trong suốt mấy chục năm, cha không tỏ ra bực bội gì, chỉ hơi buồn thôi. Cha tôi nói chắc chắn bài hát sẽ có ngày được hát lại và mọi người sẽ yêu nó. Và như mọi lần, cha tôi lại đúng. Chỉ có điều lúc đó cha tôi không còn nữa. Khi bài hát lần đầu tiên được phát trên sóng truyền hình Việt Nam năm 2000, cha tôi đã mất được năm năm”

(nhà thơ Nghiêm Bằng-Thu Hà ghi).


 

QUA KINH THÀNH CŨ

 

(Tặng mấy em, mấy o Huế & liên quan)

 

Tết đi vèo như mới hôm qua

mặt nước sông chau mày se lạnh

có nghe mưa ghé đêm, vừa tạnh

bóng xuân, mùa dường vẫn còn xa !

 

O Huế tê vừa ngang Đại Nội,

dáng xiêu buồn in ngã Hương Giang.

chợ Đông Ba chiều ni tan vội

nước thì thầm, chậm xuống Thuận An.

 

gió vẫn đưa cành trúc la đà,

chuông Thiên Mụ ngân nga sớm, tối.

núi Ngự, chim có về lạc lối ?

Vỹ Dạ chừ, bắp vẫn chưa hoa ?

 

nắng quái làm... nghiêng nón Kim Long,

che mặt em đỏ hồng vì... thẹn !

"đã quen mô, răng chừ biểu hẹn ?

cái anh nì, thấy dị như không !"

 

Nguyễn Chí Anh

(31/1/2020 - mùng 7 tết Canh Tý)

 

2022/02/02

SỰ TRỚ TRÊU CỦA  LỊCH SỬ:
Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ là anh em cọc chèo

 

Hai kẻ thù không đợi trời chung là Nguyễn Ánh - Gia Long và Nguyễn Huệ - Quang Trung cuối cùng lại trở thành anh em cọc chèo.

Đó quả là sự sắp đặt trớ trêu của lịch sử. Nguyễn Huệ - Quang Trung là chồng của công chúa Lê Ngọc Hân, Nguyễn Ánh - Gia Long là chồng công chúa Lê Ngọc Bình, em ruột Ngọc Hân.

 

Năm 1786, sau khi đánh thắng nhà Nguyễn ở Đàng Trong, Nguyễn Huệ (lúc ấy còn có tên là Nguyễn Quang Bình) kéo quân ra Bắc với danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh”. Mặc dù khi ấy đã có chính thất Phạm Thị Liên ở đất miền Nam song Nguyễn Huệ vẫn nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh mai mối để lấy công chúa Ngọc Hân, nàng công chúa tài sắc vẹn toàn của vua Lê Hiển Tông.

 

Tình cảm sâu đậm mà Ngọc Hân dành cho chồng có lẽ là phải sau khi đã lấy nhau, trước đó, mối nhân duyên này vẫn là cuộc hôn nhân mang đầy tính chính trị. Khi quyết định lấy Ngọc Hân, Nguyễn Huệ đã nói câu nói để đời: “Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về; bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng nên thử một chuyến xem có tốt không” (Hoàng Lê Nhất thống chí). “Trai anh hùng gái thuyền quyên/ Phỉ quyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng” (Truyện Kiều) thật đúng với cặp trai anh hùng Nguyễn Huệ và gái thuyền quyên Ngọc Hân. Là bậc anh hùng trăm trận trăm thắng, tuổi đời lại gấp đôi tuổi Ngọc Hân (khi ấy cô dâu 16 tuổi, còn chàng đã ở tuổi 33) nên Nguyễn Huệ vẫn mang tính cách cao ngạo của một vị tướng.

Cưới nhau sau mấy ngày, nhân lần đi cáo yết Thái miếu nhà Lê, Nguyễn Huệ cùng công chúa gióng kiệu đi cùng, Nguyễn Huệ đã tự hào hỏi Ngọc Hân: “Con trai con gái nhà vua, đã có mấy người được vẻ vang như nàng chăng?”. Nàng công chúa “cành vàng lá ngọc” đã trả lời đức phu quân: “…thiếp có duyên, lấy được lệnh công, ví như hạt mưa, bụi ngọc bay ở giữa trời, được sa vào chốn lâu đài như thế này, là sự may mắn của thiếp mà thôi”. Đó là công chúa lấy ý từ câu ca cổ: “Thân em như hạt mưa sa/ Hạt vào đài các, hạt ra cánh đồng”. Hoàng Lê Nhất thống chí cho biết Nguyễn Huệ nghe Ngọc Hân trả lời như vậy thì thích thú lắm. Mới hay, các bậc anh hùng chiến trận suốt ngày mải miết kiếm cung, quanh năm ngửi mùi khét lẹt của thuốc súng nên rất cần cái gì mềm mại, thơm tho, cần những lời êm dịu bên tai. Phải chăng vì vậy mà mối tình Ngọc Hân - Quang Trung ngày càng sâu đậm.

Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi vua và phong Ngọc Hân là Hữu cung Hoàng hậu. Năm sau, năm 1789, khi dẫn đại quân vào giải phóng Thăng Long, tương truyền, ngài đã vào làng hoa Ngọc Hồi chọn một cành đào đẹp nhất cho phi ngựa trạm mang về Phú Xuân báo tiệp để Ngọc Hân biết. Cành đào Nguyễn Huệ là thật hay chỉ là giai thoại thì đó vẫn là câu chuyện đẹp lung linh trong tâm khảm hậu thế về mối tình của bậc trai tài gái sắc. Cũng ngay năm thắng trận ấy, năm 1789, Ngọc Hân được phong là Bắc Cung Hoàng hậu. “Ngày vui ngắn chẳng tày gang” (Truyện Kiều), năm 1792, niên hiệu Quang Trung thứ 5, nhà vua băng hà ở tuổi 39. Tương truyền, Ngọc Hân chính là tác giả bài Tế vua Quang Trung và Ai Tư Vãn. Bà đã viết những lời da diết này để bày tỏ nỗi đau khổ cùng cực cũng như nỗi tiếc thương vô hạn cho người chồng anh hùng vắn số.

Sau khi Quang Trung qua đời, Thái tử Quang Toản 10 tuổi lên ngôi với niên hiệu Cảnh Thịnh. Năm 1795, Lê Ngọc Hân đã làm mai để công chúa Ngọc Bình, em cùng cha khác mẹ với Ngọc Hân lấy Quang Toản. Năm ấy, vua Cảnh Thịnh 13 tuổi còn công chúa Ngọc Bình 11 tuổi. Cuộc hôn nhân chính trị Ngọc Bình - Cảnh Thịnh đã tạo ra mối quan hệ phức tạp. Ngọc Hân là vợ của Quang Trung, Ngọc Bình em ruột bà lại lấy con trai Quang Trung, vậy là hai chị em ruột lại có mối quan hệ mẹ chồng (kế) - nàng dâu. Quang Trung là cha lấy chị, Quang Toản là con lấy em, họ vừa là cha con, vừa có mối quan hệ "cọc chèo" và có chung nhạc phụ là hoàng đế Lê Hiển Tông nhà Lê mạt. Thế nhưng, câu chuyện vẫn chưa dừng tại đó khi năm 1801, Nguyễn Ánh kéo quân ra Bắc, cả triều đình nhà Cảnh Thịnh Tây Sơn bỏ chạy khỏi kinh thành Phú Xuân, Ngọc Bình chạy theo không kịp và ở lại Phú Xuân. Thấy hoàng hậu nhà Tây Sơn trẻ đẹp, ăn nói dịu dàng, Nguyễn Ánh muốn lấy bà làm vợ. Mặc cho triều thần can ngăn đó là “vợ giặc ngụy”, Nguyễn Ánh vẫn bỏ ngoài tai tất cả khi trả lời bề tôi cả nước có cái gì không phải của nhà Tây Sơn, sá chi một người đàn bà.

 

Anh hùng khó qua ải mỹ nhân. Công chúa triều Lê, hoàng hậu nhà Tây Sơn đã trở thành phi tần của Gia Long nhà Nguyễn - một triều đại đối nghịch với nhà Tây Sơn - như vậy đó. Trong số 21 người vợ của vua Gia Long, Lê Ngọc Bình được xếp thứ 3 sau Thừa Thiên cao Hoàng hậu (Tống Thị Lan, mẹ đẻ Hoàng tử Cảnh) và Thuận Thiên cao Hoàng hậu (Trần Thị Đang, mẹ đẻ Thánh Tổ Nhân Hoàng đế Minh Mạng), như vậy đủ thấy Gia Long rất yêu quý bà. Sách Nguyễn Phúc tộc thế phả do Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc xuất bản (Nxb Thuận Hóa - Huế, 1995) cho biết: Năm Nhâm Tuất (1802) bà vào hầu Thế Tổ (tức Gia Long) và được phong là Tả Cung tần. Bà sinh với vua Gia Long hai hoàng tử là Quảng Uy công Nguyễn Phúc Quân, Thường Tín công Nguyễn Phúc Cự; 2 công chúa là Nguyễn Phúc Ngọc Khuê và Nguyễn Phúc Ngọc Ngôn. Bà mất năm Canh Ngọ, tức mới 26 tuổi (ta), được tặng Đức Phi và ban tên thụy là Cung Thận.

“Số đâu có số lạ lùng/ Con vua lại lấy hai chồng làm vua”, đó là những câu ca của dân gian truyền tụng về số phận kỳ lạ của một nàng công chúa nhà Lê nhưng cuối cùng lại trở thành hoàng hậu của nhà Tây Sơn và phi tần của nhà Nguyễn. Nhà Nguyễn (Tây Sơn) và nhà Nguyễn (Gia Miêu) là hai triều đại đối nghịch nhau kịch liệt trong lịch sử. Thế nhưng qua chuyện tình đầy éo le ấy, Gia Long và Nguyễn Huệ lại là anh em cọc chèo, quả là một sự sắp đặt trớ trêu của lịch sử.

 

Theo báo Lâm Đồng

 

2022/01/30


TAN TRƯỜNG

Vạt nắng chiều vướng chân em
Đường về nhà vẫn êm đềm bước đi.
Quanh co ngõ nhỏ Cổ Trì
Bước qua Cầu Lộ xá gì dốc cao

Tan trường bè bạn bên nhau
Líu lo đùa giỡn len vào tai ai?
Có người áo trắng mỗi ngày
Im lìm cười mĩm miệt mài làm đuôi.

Dòng đời ngày tháng ngược xuôi
Xa rồi thuở ấy! Bùi ngùi trong tim!

Nhị Hồng
September 15, 2013


 GỞI

 

"Gởi gió cho mây ngàn bay"

Về thăm nơi cũ những ngày dấu thương

Rạch sông mương rãnh ruộng vườn

Bảng phấn thầy bạn lớp trường người thân!

 

Anh Tú

Tết Nhâm Dần

2022

2022/01/29

Từ Văn Trường

LIỄN DÁN... CHUỒNG HEO

            Ngày xưa, không có những quảng cáo bắt mắt và hấp dẫn như hiện nay của các nhà làm thương mại. Quảng cáo ngày xưa là cái BẢNG HIỆU, cái thương hiệu của hiệu tiệm của mình. Đôi câu đối dán hai bên cửa tiệm cũng có tác dụng quảng cáo rất mạnh mẽ để  "câu" khách.  Xin kể hầu độc giả các chuyện vui dưới đây có tác dụng rất lớn đối với các business....
           Như chúng ta đã biết, Lục Thư để hình thành tiếng Hán cổ xưa là Tượng Hình, Chỉ Sự, Hội Ý, Hài Thanh, Chuyển Chú, và Giả Tá.  Bỏ qua 5 cái đầu ta chỉ nói đến GIẢ TÁ 假借 mà thôi.
           GIẢ là trái với THẬT, là Làm bộ. TÁ là Mượn, là Nương nhờ. GIẢ TÁ là Làm bộ mượn, có nghĩa MƯỢN TẠM để mà XÀI... luôn! Ví dụ :

      ĐẠO 道 là Con Đường, như Đạo lộ là đường lộ. Mượn Ý nầy để chỉ...
       ĐẠO là ĐẠO GIÁO: Con đường tín ngưỡng mà mọi người đi theo.
       ĐẠO là NÓI RẰNG, như Văn Đạo là Nghe nói rằng. Mở đầu Đạo Đức Kinh của Lão Tử là câu "ĐẠO khả ĐẠO phi thường ĐẠO " Có nghĩa: Cái ĐẠO mà có thể THUYẾT GIẢNG được thì không phải là cái ĐẠO thường.

      Chữ 少 Khi đọc là THIỂU thì có nghĩa là ÍT. Thiểu Số là Số ít.  Đa Thiểu là It Nhiều, là Bao nhiêu?
            Khi đọc là THIẾU thì có nghĩa là TRẺ  như Thiếu niên, Thiếu phụ.
            ...V.V... V.V...
      Bây giờ ta nói đến một chữ Giả Tá đặc biệt khác có bộ XÍCH 彳(nghĩa là Bước chân trái ) ở bên trái, và chữ XÁCH 亍 (Bước chân phải) ở bên phải, đó chính là chữ HÀNH 行 (Bước chân trái 1 cái, bước chân phải 1 cái) nên HÀNH có nghĩa là ĐI.
           HÀNH 行 : Ngoài nghĩa ĐI ĐỨNG ra, Hành còn có nghĩa là LÀM: HÀNH ĐỘNG, mà việc làm thì biểu hiện tánh tình và bản chất của con người, nên HÀNH còn được đọc là...       
           HẠNH: là Phẩm Hạnh, chỉ phẩm chất đạo đức của một con người: "Nhân sanh bách HẠNH hiếu vi tiên" chính là chữ HẠNH nầy.  Kết hợp Hành động và Phẩm hạnh chữ HÀNH còn được đọc là...
           HÀNG : là Ngành Nghề. Cải HÀNG 改行 là Đổi Nghề. Ta có thành ngữ : HÀNG HÀNG XUẤT TRẠNG NGUYÊN: Có nghĩa là Bất cứ ngành nghề nào cũng đều có Trạng Nguyên của ngành nghề đó cả. Ý muốn nói: Bất cứ nghề nào cũng có thể phát triển và làm giàu lớn được cả!  Nghĩa phát sinh của âm đọc nầy là...
          NGÂN HÀNG 銀行: là Cái Tiệm, Cái Hảng chuyên kinh doanh Tiền bạc.  HÀNG QUÁN cũng là chữ HÀNG nầy.  Vì là chỗ Kinh Doanh nên còn được đọc là ...
       HẢNG: như TỬU HẢNG 酒行: là cái Hảng Rượu.  Hảng Xưởng là chữ HẢNG nầy.  Cuối cùng...
       HÀNH : còn là một thể loại Văn Học chỉ các bài thơ Trường Thiên như: TÌ BÀ HÀNH của Bạch Cư Dị, TÒNG QUÂN HÀNH của LÝ Cần, LỆ NHÂN HÀNH của Đỗ Phủ....
       HÀNH là chữ tiêu biểu cho câu nói của ông bà ta xưa kia thường nhắn nhủ là: Nhất tự lục nghì (Một chữ mà có tới 6 nghĩa!)

       Trở lại với tác dụng QUẢNG CÁO của Bảng Hiệu.  Một công ty ở Hồng Kông đã để tên Bảng Hiệu như thế nầy: 行 行 行 thu hút không ít khách hàng ghé lại xem Công Ty của ông ta kinh doanh cái gì và tên của bảng hiệu phải đọc như thế nào, làm cho business của ông ta trở nên vô cùng bận rộn và phát triển... Thì ra ông ta đang chơi trò Giả Tá, 3 chữ 行 行 行 đọc là  HẠNH HÀNH HẢNG, tức là cái Hảng có tên là Hạnh Hành, thế thôi!

       Lại một bảng hiệu khác do Từ Văn Trường viết cũng thu hút rất nhiều khách cho cửa tiệm 

 TỪ VĂN TRƯỜNG (1521-1593) tên là VỊ, tự là Văn Trường, sanh năm Chánh Đức thứ 16 đời nhà Minh.  Người đất Sơn Âm (Thiệu Hưng ngày nay), lớn lên trong một gia đình quí tộc đang hồi xuống dốc. 6 tuổi đã đi học, nổi tiếng là THẦN ĐỒNG, 20 tuổi đậu Tú Tài, là một nhà văn, nhà thơ, nhà thư pháp và là một họa sư nổi tiếng ở cuối đời Minh đầu đời Thanh.
         Ông là người phóng khoáng, không chịu gò bó vào khuông phép, nên thi hoài 8 khoa mà vẫn không đậu Cử Nhân giống như Trần Tế Xương của ta: "Tám khoa chưa khỏi phạm trường qui!"  Tài hoa thì có thừa, nên hay dùng văn thơ châm biếm người đời, bởn cợt kẻ quyền thế, rất được giới bình dân hâm mộ giống như là Trạng QUỲNH của ta vậy!  
         Từ Văn Trường văn hay chữ tốt nổi tiếng trong vùng, nên một hôm, có người đến nhờ ông viết dùm bảng hiệu "Tỉm Xấm" bán đồ điểm tâm. 3 chữ " ĐIỂM TÂM ĐIẾM 點心店 vừa treo lên thì người ra vào ăn điểm tâm nườm nượp suốt cả tháng trời, ông chủ tiệm cười híp cả mắt, mặc sức hốt bạc... Nhưng có một điều hết sức ngạc nhiên là thực khách nào ăn xong khi đến tính tiền đều nói với chủ tiệm là : " Ông ơi, 3 chữ ĐIỂM TÂM ĐIẾM 點心店 của ông, chữ TÂM sao viết thiếu mất một chấm ở giữa?!"  Như ta đã biết, hình dạng chữ TÂM được Cụ NGUYỄN DU diễn tả lúc cô Kiều nhớ Thúc Kì Tâm (Thúc Sinh) là :

                   Đêm thu gió lọt song đào,
    Nửa vành TRĂNG KHUYẾT BA SAO giữa trời.

        Chữ 心 có hình dạng như Nửa Vành Trăng Khuyết và 3 vì sao, 2 cái 2 bên, 1 cái ở giữa, nhè Từ Văn Trường không có chấm cái chấm ở giữa. Ông chủ tiệm là dân thị tứ đâu có biết gì là chữ nghĩa, nghe mọi người đều nói vậy nên tìm Từ Văn Trường để nhờ anh ta chấm thêm cho một chấm.  Nhưng sau khi chấm xong chấm đó, thì suốt cả tháng trời buôn bán ế ẩm. Ông chủ quán lại gặp Từ Văn Trường than thở rằng, từ khi chấm cái chấm đó xong thì buôn bán không còn như trước nữa. Từ Văn Trường cười bảo ông ta rằng: "Chữ TÂM là cái lòng, cái bụng, bụng có trống thì người ta mới ghé lại mà ĐIỂM Tâm, nay đã chấm thêm một chấm là bụng đã no rồi, không cần phải ĐIỂM TÂM nữa, ế là phải!"  Ông chủ mới té ngữa ra, bây giờ muốn xóa chấm đó đi thì đã không còn được nữa rồi!
          Sự thật thì Từ Văn Trường chỉ lợi dụng cái tâm lí hiếu kì và hiếu sự của quần chúng để "câu  khách" cho tiệm.  Ai trông thấy chữ Tâm thiếu mất một chấm đều "ngứa ngáy" muốn nói cho chủ quán biết, sẵn đã vào tiệm nên ăn điểm tâm luôn mà thôi! 
           Trở lại với Giả Tá. Chữ TRƯỜNG có nghĩa là DÀI, như Trường Thành, Trường Giang, Trường Sơn... Nhưng khi mượn đọc là TRƯỞNG thì có nghĩa là LỚN như Gia Trưởng, Huynh Trưởng, Trưởng thành....
            Tên của Từ Văn Trường cũng vậy, người Quảng Đông thì đọc là Từ Văn Trường, nhưng người Tiều Châu thì lại đọc thành Từ Văn Trưởng! Lại chuyện của Từ Văn Trưởng đây...
           Một hôm gần Tết, Từ Văn Trường thả bộ ra chợ xem bà con nhóm chợ Tết, gặp một Thầy Đồ là một lão Tú Tài già đang bày hàng viết Liễn. Tính rắn mắt nổi lên muốn ghẹo chơi cho vui, Từ Văn Trường xề tới cất tiếng hỏi :
      - Thưa Thầy, Thầy viết liễn có nghĩa là Liễn gì Thầy cũng viết được hết phải không?  Nghe hỏi lạ, ông đồ già nhướng mắt lên thấy Từ Văn Trường, biết là chàng trai nầy định phá mình đây, bèn trả lời rất tự tin :
      - Dĩ nhiên, cậu muốn viết liễn gì ?
      - Liễn dán chuồng heo!  Sau giây phút sựng lại vì ngạc nhiên, ông đồ bèn ra giá :
      - Một lạng bạc! Từ Văn Trường vui vẻ:
      - Không thành vấn đề, nhưng liễn phải hay và có Ý nghĩa mới được cụ nhé!
        Thường các Lão Tú Tài nầy tiếng Việt ta gọi là TÚ MỀN rất giỏi chữ nghĩa và già giặn kinh nghiệm. Ông đồ bình tĩnh lặng lẽ đưa những nét bút thiệt đẹp như rồng bay phượng múa lên 2 tờ giấy hồng đơn đã rọc sẵn.  Bây giờ tới phiên Từ Văn Trường ngạc nhiên, vì trên 2 tờ giấy hồng đơn mỗi bên  7 chữ, tổng cộng là 14 chữ TRƯỜNG thật đẹp. Biết ông thầy đồ già muốn "chơi" mình, anh ta cũng rất bình tĩnh và lễ phép:
     - Thưa thầy, nhờ thầy đọc và cắt nghĩa dùm ạ!  Ông thầy đồ dõng dạc cất giọng:
     - Trường trường trưởng trưởng trường trường trưởng. Trưởng trưởng trường trường trưởng trưởng trường!  Nuôi heo, anh mong được gì nào? Heo mau dài mau lớn phải không? Thì đây đôi liễn nầy có nghĩa :

                         DÀI DÀI LỚN LỚN DÀI DÀI LỚN,
                         LỚN LỚN DÀI DÀI LỚN LỚN DÀI !

      Chuyên chọc phá thiên hạ, lần nầy bị Tổ trác, liễn dán chuồng heo là câu đối 14 chữ đều là tên của mình cả, lại phải nhăn mặt móc hầu bao trả cho ông thầy đồ một lạng bạc, thế mới đau!

      Cho hay, chuyện đời có lúc "Kiến ăn cá", nhưng cũng lắm khi kiến té xuống nước thì "Cá cũng ăn kiến" như thường!

Đỗ Chiêu Đức
29/1/2022 Đông Bắc Hoa Kỳ

TẾT THA  HƯƠMG 

Tết nhứt gì đâu buồn muốn khóc
Hỏi rằng bè bạn ở nơi đâu
Ngó lui nhìn tới toàn xa lạ
Đất khách Xuân về thấy thảm sầu!

Tết nhứt không mai vàng pháo đỏ
Nhạt nhòa nắng sáng, xám hoàng hôn
Trời xanh én liệng bên kia biển
Có kẻ ngày đêm mãi ngóng trông.

Tết nhứt về khi cây trụi lá
Cành trơ xám xịt đón bão giông
Tuyết rơi gió bấc trời u ám
Buồn lắm! Hồn Xuân chẳng chạm lòng!

Tết nhứt buồn phận người viễn xứ
Láng giềng giòng họ ở quê nhà
Cháu con nơi khác, ta cô độc
Mồ mả tổ tiên cũng cách xa!

Gởi hết hồn Xuân về cố thổ
Còn chăng trong mộng Tết xa xôi
Thuở thơ ngây dại tình con trẻ
Bên mẹ cùng cha... qua mất rồi!

Anh Tú
Đông Bắc Hoa Kỳ 
Connecticut, 30/1/2010

2022/01/24

 

Ảnh của Roseline Lê Minh

Hãy Vui Lên !


Vạt nắng ấm hẳn là Hạ đến

Én chao nghiêng là dịp : Xuân về

Ướt ao mãi lê thê vào mộng

Bạn phải vui lên chớ  não nề !

 

Cây quanh bạn trơ cành không lá

Lá ham vui bỏ cội bơ vơ

Buồn phiền chi Đông về tiển Hạ

Gió hùa theo mây cũng tôn thờ…

 

Hãy vui lên thời  gian không  ác

Buồn phiền chi phụ bạc lòng ta

Vui Tết bên người dưng kẻ lạ

Cố  cười lên dù tận xứ xa !


Dương hồng Thủy

24/01/2022

Cần Thơ

*Họa bài TẾT THẾ À của Anh Tú:

https://anhtuvaban.blogspot.com/2022/01/blog-post.html


2022/01/21

 


TẾT THẾ À?


Thấy vạt nắng ngờ rằng hạ đến
Én bay qua vội bảo xuân về
Khát khao ước đẩy hồn vào mộng
Hụt hẫng rưng rưng giọt não nề !

Quanh quẩn đây! Cây ngùi trụi lá
Lá đi xa bỏ cội bơ vơ
Từ khi lạnh lấn về xua hạ
Mây đã dạt theo gió thẩn thờ !

Tức tưởi thời gian sao độc ác
Cùng không gian gạt gẫm hồn ta
Tết đến bên trời như kẻ lạ
Hành hạ đời côi lạc nẻo xa !

Anh Tú
January 21, 2022
19 Tháng chạp Tân Sửu
Đông Bắc Hoa Kỳ

2022/01/20


 
ĐÊM NGHE THẰNG BẠN THÂN VỪA CHẾT

(Gởi mầy đọc, hỡi Lê Công Sinh, nếu linh hồn mầy còn ở quanh đây)
Mầy đã đi rồi!
Có thật không Sinh?
Đêm xứ lạ tao buồn thê thiết
muốn đọc mầy nghe một bài thơ mới viết
mầy đâu còn bên đó để nghe thơ!
Bằng hữu bây giờ như những lá khô
cứ lần lượt rũ nhau về cõi khác
Mới nói chuyện hôm qua mà hôm nay đã mất
nên từ lâu tao ngại kể chuyện dông dài.
Nói thật với mầy,
tao đang khóc đây
khóc thằng bạn đã một thời nối khố
tao vẫn biết mỗi người có số
nhưng số mầy sao vắn vậy Sinh?!
Còn biết bao nhiêu chuyện chửa hoàn thành
sao mầy bỏ đi quá vội?
Con cái mầy, đứa chưa 10 tuổi
đứa chưa thành vợ, thành chồng
vợ chồng mầy có mấy lúc được vui chung
có mấy khi “anh, em” ngọt sớt?
Đã xin lỗi vợ mầy chưa
hỡi người chồng hào hoa số một?
Hay nhong nhong cỡi ngựa về trời?
Bạn bè mầy, mỗi đứa một nơi
thảy thảy đều thương mầy quá đỗi
Mầy còn nợ tao những điều chưa kịp nói
ta còn nợ nhau chén tạc, chén thù
Tao còn hẹn mầy một bữa quắc cần câu
nhân chuyến trở về năm tới
Nhưng...mầy đã đi...
đã đi rồi!
đi quá vội!
Bạn bè mầy còn cả lũ, Sinh ơi
những Sáu-gà-tre, Châu-già,Tỉ-sữa, Tuyết-đồi-mồi...
những Tòng-ngủ, Huệ-điên...và bao nhiêu thằng nữa
chúng tao cùng chết điếng đêm nay
đêm nghe mầy gục ngã
Chúng tao nghe như sét nổ trong đầu
Mầy thì thong thả đi rồi, có còn biết tới ai đâu
đâu cần biết những bạn mầy đang đau từng khúc ruột!
Thôi cũng đã xong một kiếp đời ô trược
hãy coi như đã trả nợ trần hoàn
Nơi thế giới an bình, mầy hãy ngủ bình an
Hãy ngủ bình an
ngủ bình an trong lòng Cần Thơ đất Mẹ
Trần Bang Thạch

2022/01/19


 

GƯỢNG  CƯỜI!

 

Em chào Xuân mắt long lanh

Vòng tay âu yếm gởi anh chút tình

Không đành quay mặt làm thinh

Gượng cười khơi lửa lung linh đêm tàn.

 

Nơi đây bão tuyết vừa tan

Quê nhà hoa nở ngập tràn niềm vui

Nhớ nhung chen lấn ngậm ngùi

Gượng cười đôi nụ chôn vùi bâng khuâng!

 

Anh Tú

January 19, 2022

17 Tháng chạp, Tân Sửu

 Chương Trình Văn Học Nghệ Thuật Đài Phát Thanh Saigon-Dallas

TƯỞNG NIỆM HOÀNG SA

19-01-1974

Xem ảnh nguồn

Xướng Ngôn Viên (XNV)- Kính thưa quý thính giả, hôm nay là ngày 19-01-2022. Cách nay đúng 48 năm – ngày 19-01-1974 – Trung cộng đã ngang nhiên đưa một lực lượng Hải Quân rất hùng hậu tiến vào hải phận thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) để tiến chiếm Hoàng Sa.

Để kỷ niệm ngày đau thương của lịch sử và dân tộc, hôm nay, chương trình Văn Học Nghệ Thuật thực hiện cuộc phỏng vấn một nhân vật nữ đã có rất nhiều gắn bó với đại gia đình Hải Quân VNCH trong hơn nửa thế kỷ qua.

Chúng tôi muốn đề cập đến nhà văn Điệp Mỹ Linh.

Kính thưa quý vị, trước khi trở thành tác giả của nhiều tác phẩm được xuất bản, Điệp Mỹ Linh từng tháp tùng nhiều đơn vị tác chiến của Hải Quân VNCH trong những cuộc hành quân hỗn hợp trên sông rạch tại Vùng IV Sông Ngòi, để viết tường thuật. Một trong những tác phẩm của Điệp Mỹ Linh được giới sử học lưu ý là cuốn tài liệu lịch sử rất quan trọng viết về chuyến ra khơi cuối cùng của Hải Quân VNCH, năm 1975.

Vì Điệp Mỹ Linh từng tháp tùng hành quân và cũng là tác giả của cuốn tài liệu Hải Quân VNCH Ra Khơi, 1975, cho nên, hôm nay, chúng tôi mời Điệp Mỹ Linh góp mặt với chúng tôi để cùng thực hiện phần Tưởng Niệm Hoàng Sa, ngày 19-01-1974.

Chào cô Điệp Mỹ Linh.

Điệp Mỹ Linh (ĐML)- ĐML xin trân trọng kính chào quý thính giả, kính chào Ban Giám Đốc Đài Phát Thanh Saigon Dallas, chào cô Phượng Vi và chào cô Như Tuyền.

XNV.- Thưa cô, hôm nay đúng ngày 19 tháng Giêng, kỷ niệm trận Hải Chiến Hoàng Sa. Trận Hải Chiến Hoàng Sa đã được Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại “đưa” vào Hồi Ký "Can Trường Trong Chiến Bại" do chính Phó Đề Đốc viết. Theo cô, với cuộc chiến đẫm máu và nước măt như thế, và cô đã có viết hàng loạt những trận đánh oai hùng của Hải Quân VNCH, xin cô cho biết ý kiến và nhận xét của cô về trận Hải Chiến Hoàng Sa?


ĐML.- Kính thưa quý thính giả và thưa cô, thái độ của tôi đã được thể hiện rõ nét trong bài phản biện nhà báo Bill Hayton – làm việc cho BBC – khi Bill Hayton có những nhận xét sai lạc, thiếu kiểm chứng, không công bằng đối với trận Hải Chiến hào hùng của Hải Quân VNCH. 


Link: https://www.diepmylinh.com/gop-y-voi-bill-hayton

XNV.- Xin cô trình bày sơ lượt về trận Hải Chiến Hoàng Sa để quý thính giả am tường.

ĐML.- Theo Hồi Ký của Hải Quân đại tá Hà Văn Ngạc – sĩ quan chỉ huy chiến thuật trận hải chiến Hoàng Sa và cũng là sĩ quan đã trực tiếp ra lệnh cho Hải Đoàn Đặc Nhiệm của Hải Quân VNCH tại Hoàng Sa “khai hỏa”, để khởi đầu cuộc Hải Chiến Hoàng Sa – thì: 

 

Ngày 11/01/1974, Ngoại trưởng Trung cộng tuyên bố về chủ quyền của Trung cộng trên các quần đảo Hoàng sa và Trường Sa.

 

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao VNCH bác bỏ luận cứ của Trung cộng và tái xác nhận chủ quyền của VNCH trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

 

Ngày 16/01/1974, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc tuyên bố chủ quyền của VNCH trên 2 quần đảo Hoàng sa và Trường Sa.

 

Ngày 17/01/1974, từ Saigon, tôi – từ đây, xin hiểu đại danh từ “tôi” là Hải Quân đại tá Hà Văn Ngạc – đến Đà Nẵng lúc 9:00 giờ sáng. Khi đến Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải tôi được biết Tuần Dương Hạm Trần Bình Trong, HQ5, với biệt đội Hải Kích, cũng sẽ đến Đà Nẵng vào tối nay.

 

Tối 17-01-1974, khoảng 9:00 giờ, HQ5 rời Đà Nẵng, hải hành ra Hoàng Sa. Hạm trưởng HQ5 là Hải Quân trung tá Phạm Trọng Quỳnh. Tôi chỉ huy Hải Đoàn Đặc Nhiệm từ HQ5.

 

Ngày 18/01/1974, khoảng 9 giờ sáng, HQ5 và HQ10 đến gần Hoàng Sa.. 

 

Xế trưa, cả 4 chiến hạm (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: HQ4, HQ5, HQ10 và HQ16)  tập trung trong vùng quần đảo Hoàng Sa.

 

Hải Đoàn Đặc Nhiệm được thành hình.

 

Nhóm chiến binh thuộc HQ16 và HQ4 đổ bộ và trương quốc kỳ VNCH trên các đảo Cam Tuyền (Robert), Vĩnh Lạc (Money) và Duy Mộng (Drummond). 

 

Từ phía Nam đảo Hoàng Sa, Hải Đoàn Đặc Nhiệm tiến về đảo Quang Hòa theo thứ tự: HQ4, HQ5 HQ16 và HQ10.

 

Khi Hải Đoàn Đặc Nhiệm tiến về đảo Quang Hòa thì hai chiến hạm Trung cộng loại Kronstadt, số hiệu 271 và 274 vận chuyển chặn hướng đi của Hải Đoàn Đặc Nhiệm. Hải Đoàn Đăc Nhiệm vẫn giữ nguyên tốc độ, trong khi hai chiến hạm khác, nhỏ hơn mang số 389 và 396 của Trung cộng vẫn nằm nguyên vị trí sát bờ bắc đảo Quang Hòa.

 

Chiếc Kronstadt 271 dùng quang hiệu chuyển công điện: “These islands belong to the People Republic of China since Ming dynasty STOP Nobody can deny”. Hải Đoàn Đặc Nhiệm đáp bằng quang hiệu: “Please leave our territorial water immediately.”

 

Ngày 18-01-1974, khoảng 8 giờ tối, HQ16 chuyển phái đoàn Công Binh, do thiếu tá Hồng hướng dẵn, sang HQ 5 bằng xuồng. Phái đoàn Công Binh  cùng ông Kosh – thuộc cơ quan DAO Hoa Kỳ tại Đà Nẵng – vào gặp tôi.

 

10 giờ tối, tôi nói chuyện bằng vô tuyến với bốn Hạm Trưởng để thông báo tình hình quân sự rất phức tạp trong vùng, yêu cầu bốn vị chuẩn bị chiến hạm và huy động tinh thần nhân viên, sẵn sàng chiến đấu.

 

11 giờ tối, lệnh hành quân từ Vùng I Duyên Hải được chuyển mã hóa trên băng tần SSB – single side band – ghi rõ: “Tái chiếm một cách ôn hòa đảo Quang Hòa”.

 

Nhận được lệnh hành quân, tôi chia Hải Đoàn thành hai Phân Đoàn Đặc Nhiệm:

 

*.- Phân Đoàn Đặc Nhiệm I gồm HQ4 và HQ5 do Hạm trưởng Khu trục hạm HQ4 chỉ huy;

 

*.- Phân Đoàn Đặc Nhiệm II gồm HQ16 và HQ10 do Hạm trưởng HQ16 chỉ huy.

 

Diễn Tiến Trận Hải Chiến ngày 19-01-1974

 

Ngày 19-01-1974, lúc 6 giờ sáng, Phân Đoàn Đặc Nhiệm I có mặt tại Tây Nam đảo Quang Hòa. Biệt đội Hải Kích – do Hải Quân đại úy Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy – được chỉ thị: Không được nổ súng và lên bờ yêu cầu toán quân của Trung cộng rời đảo. Trong biệt đội này có Hải Kích Đỗ Văn Long.

 

Biệt đội Hải Kích tiến vào đảo bằng 2 xuồng cao su, Hải Kích Đỗ Văn Long là người đầu tiên vừa nổ súng vừa tiến vào đảo. Hải Kích Đỗ Văn Long bị Trung cộng tử bờ bắn ra, tử thương ngay tại bãi biển! Trung úy Lê Văn Đơn – xuất thân từ Bộ Binh – tiến vào để thâu hồi tử thi của Hải Kích Đỗ Văn Long cũng bị Trung cộng bắn, tử thương. Tử thi vị sĩ quan này được thâu hồi ngay.

 

9 giờ 30 sáng 19-01-1974, đích thân Tư Lệnh Hải Quân VNCH hay Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải ra lệnh “khai hỏa”, bằng bạch văn, cho Hải Đoàn Đặc Nhiệm.

 

10 giờ sáng 19-01-1974, biệt đội Hải Kích trở về HQ5 với trung úy Lê Văn Đơn tử thương. Trong khi đó, tôi chỉ thị mỗi chiến hạm tấn công một chiến hạm địch, và bám sát địch trong tầm hải pháo 40 ly.

 

10 giờ 24 sáng 19-01-1974, lệnh khai hỏa được ban hành. 

 

Chiếc Kronstadt 271 bị trúng đạn, vận chuyển rất chậm, trở thành mục tiêu của HQ5.

 

Hỏa lực của Kronstadt 271 không gây thiệt hại nhiều cho HQ5; nhưng có thể đã gây thiệt hại nặng cho HQ10 nằm về phía Bắc.

 

HQ4 nằm về phía Tây Nam của HQ5 đặt mục tiêu là Kronstadt 274 nằm về phía Bắc. Nhưng chẳng may, HQ4 bị trở ngại tác xạ ngay từ phút đầu tiên; tuy nhiên HQ4 vẫn phải tiếp tục bám sát Krondstadt 274, cho nên, HQ4 bị thiệt hại nặng bởi hỏa lực của Kronstadt 274.

 

10:39 sáng 19-01-1974, HQ16 báo cáo hầm máy bị trúng đạn, chiến hạm  bị nghiêng, khả năng vận chuyển giảm sút, buộc phải lui ra khỏi vòng chiến; cũng không còn liên lạc được với HQ10; không biết rõ tình trạng và chỉ thấy nhân viên HQ10 đang đào thoát.

 

Tôi ra lệnh cho HQ4 lui ra khỏi vòng chiến ngay; và  HQ5 yểm trợ cho HQ4  tiến ra xa.

 

Chiếc Kronstadt 274 của Tung cộng tấn công HQ5 với mục đich tiếp cứu chiếc Krondstadt 271 đang bị tê liệt.

HQ5 bị trúng đạn. Sĩ quan trưởng khẩu 127 ly tử thương và hải pháo bất khiển dụng.  Máy siêu tần số SSB không còn liên lạc được. Khẩu hải pháo 40 ly đơn phía tả hạm cũng bị hư hại. 

 

11 giờ 25 sáng 19-01-1974, cách xa khoảng 8 đến 10 hải lý, xuất hiện một chiến hạm của Trung cộng, được trang bị mỗi bên một dàn phóng kép hỏa tiễn loại hải hải (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: đây là loại khinh tốc đĩnh Komar) đang tiến vào vùng giao tranh với tốc độ cao. Tôi cho lệnh  HQ4 và HQ5 ra khỏi vùng Hoàng Sa, tiến hướng đông nam về phía Subic Bay.

 

1 giờ trưa 19-01-1974, HQ4 và HQ5 đã cách Hoàng Sa chừng 10 hải lý. Tư Lệnh Hải Quân đích thân ra lệnh cho HQ4 và HQ5 phải trở lại Hoàng Sa và đánh chìm chiến hạm của Trung cộng – nếu cần. Lệnh được thi hành ngay. Từ HQ5, tôi được thông báo HQ16 được HQ6 hộ tống về Căn Cứ Hải Quân Đà Nẵng.

 

2 giờ 30 chiều 19-01-1974, khi HQ4 và HQ5 trở lại Hoàng Sa. Khi còn  cách đảo Hoàng Sa chừng 1 giờ rưỡi hải hành thì HQ4 và HQ5 nhận được phản lệnh, trở về Đà Nẵng.

 

7 giờ sáng ngày 20-01-1974, HQ4 và HQ5 về tới Căn Cứ Hải Quân Đà Nẵng an toàn. HQ16 đã về bến trước đó không lâu...

 

XNV.- Thưa cô, với trận chiến thư hùng này, không thể nào chỉ với khoảng thời gian ngắn như thế này mà nói hết được. Thường thường các quân binh chủng khác của Quân Lực VNCH có những trận đánh hào hùng trên rừng, ở giới đầu chiến tuyến như Khe Sanh, Hạ Lào, cổ thành Quảng Trị v...v...nhưng với Hải Quân, thì, ngoài việc phòng thủ, bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa, cô có thể cho biết sự tham gia của Hải Quân VNCH trong những trận chiến khác của Quân Lực VNCH hay không ạ?

 

ĐML.- Kính thưa quý thính giả và thưa cô, sự tổ chức của Hải Quân VNCH – về hành quân – gồm có hai lực lượng chính yếu: Hành Quân Lưu Động Sông và Hành Quân Lưu Động Biển. Trận Hải Chiến Hoàng Sa do Lực Lượng Lưu Động Biển chủ động. Lực Lượng Hành Quân Lưu Động Sông chỉ huy những đại đơn vị tác chiến của Hải Quân hoạt động trên sông, như: Giang Đoàn Xung Phong, Lực Lượng Thuỷ Bộ (danh xưng khác là Lực Lượng Đặc Nhiệm 211), Lực Lượng Tuần Thám (còn được gọi là Lực Lượng Đặc Nhiệm 212), Lực Lượng Trung Ương (danh xưng khác là Lực Lượng Đặc Nhiệm 214), Giang Đoàn Ngăn Chận, Giang Đoàn Tuần Giang.

 

Hoạt động của những đơn vị tác chiến Hải Quân khác, tôi không biết thỉ tôi không nói. Tôi chỉ xin nói qua về những đơn vị mà ông Minh đã phục vụ và tôi đã tháp tùng hành quân, được không ạ?

 

XNV.- Vâng, mời cô.

 

ĐML.- Thời lượng đã được ấn định, tôi chỉ xin tóm tắt. Khi ông Minh chỉ huy Duyên Đoàn 26, hậu cứ tại đảo Bình Ba, Cam Ranh, Duyên Đoàn 26 có nhiều đụng độ với Việt cộng tại bán đảo Vĩnh Hy, cố vấn Mỹ của Vùng II Duyên Hải bị thương. Trong những cuộc tuần tiểu, Duyên Đoàn 26, hai lần, bắt được hai ghe của Việt cộng, bên trên ngụy trang ghe câu; nhưng bên dưới chứa rất nhiều vũ khí nặng.

 

Khi ông Minh chỉ huy Giang Đoàn 30 Xung Phong, hậu cứ tại Thị Nghè, Saigon, có nhiều đụng độ với Việt cộng trong các chiến dịch dài hạng, gọi là Hành Quân Tam Giác Sắt.

 

Giang Đoàn 30 Xung Phong tham dự cuộc Hành Quân Tam Giác Sắt thứ II, khởi động ngày 09 tháng 01 năm 1967.

Lực lượng Hải-Quân sau đây được đặt dưới sự chỉ huy của – sĩ quan thâm niên hiện diện – Hải-Quân Đại Úy Hồ Quang Minh:

 

  • Giang Đoàn 30 Xung Phong, Chỉ Huy Trưởng là Hải-Quân Đại Úy Hồ Quang Minh.

  • 10 chiến đỉnh và một sĩ quan do Giang Đoàn 24 Xung Phong tăng phái

  • 8 giang đỉnh và một sĩ quan do Đại Đội Tuần Giang tăng phái  

 

Các đơn vị Hoa-Kỳ tham chiến:

 

  • Một Lữ Đoàn của Sư Đoàn 1

  • Một Lữ Đoàn của Sư Đoàn 25

  • Lữ Đoàn 173 Nhảy Dù

  • Thiết Đoàn 11

  • Với sự tham dự của pháo đài bay B-52. (1)

 

Bằng sự quyền biến và liều lĩnh đầy mưu lược của một sĩ quan ngành chỉ huy, ông Minh đã chuyển đơn vị Hải-Quân từ thế thủ sang thế công và đem chiến thắng vẻ vang về cho quân bạn và Giang Đoàn 30 Xung Phong.

 

Sau chiến thắng Hành Quân Tam Giác Sắt II, đích thân Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu viếng thăm, ủy lạo và gắn huy chương cho binh sĩ. Riêng ông Minh được gắn Bảo Quốc Huân Chương với nhành dương liễu và được Đài Phát Thanh Quân Đội phõng vấn. Từ đó ông Minh được tặng danh xưng “Người Hùng Tam Giác Sắt”.

 

Năm 1968, Giang Đoàn 30 Xung Phong giữ an ninh dài hạn cho vùng Bình Điền/Chợ Lớn. Chính trong thời điểm này tôi mới thấy được sự “can cường rất dã man” của csVN!

 

XNV.- Cô vui lòng nói rõ hơn.

 

ĐML.- Sau khi bị csVN bất ngờ vi phạm Hiệp Định ngưng bắn vào dịp Tết Mậu Thân, sự canh phòng quanh các khu quân sự của VNCH và Hoa Kỳ được tăng viện và trở nên nghiêm nhặt hơn bao giờ hết! CsVN biết rằng khó lòng tấn công các yếu điểm này; cho nên, csVN bắt trẻ em và phụ nữ dàng hàng ngang, đi phía trước – để quân của VNCH và đồng minh không dám bắn – còn Việt cộng và “bộ đội ông Hồ Chí Minh” lom khom đi phía sau. Khi nhóm trẻ em và phụ nữ đến gần các căn cứ quân sự, đồn, bót, “bộ đội ông Hồ” và Việt cộng mới bắn vào mục tiêu! Khi đạn của hai bên “đan” vào nhau thì chỉ có Trời mới có thể che chở cho đám trẻ em và các phụ nữ xấu số đó!

 

Khi thuyên chuyển đến Giang Đoàn 26 Xung Phong, hậu cứ tại Long Xuyên, ông Minh chỉ huy Giang Đoàn 26 Xung Phong và cũng có nhiều đụng độ tại biên giới Việt Miên, sông Trèm Trẹm, sông Cái Lớn, Kinh Ngang, xã Hộ Phòng, quận Gò Quau... Ông Minh bị B40 tại Kinh Ngang.

 

XNV.- Sau đây, chúng tôi xin được đọc một đoạn văn của nhà văn Điệp Mỹ Linh phản biện nhà báo Bill Hayton – làm việc cho đìa BBC – về bài nhận định thiếu trung thực của Bill Hayton.

 

Góp Ý Với Bill Hayton về Trận Hải Chiến Hoàng Sa, 19-01-1974

 

... Bất ngờ, được website truclamyentu chuyển đến một bài dịch từ bài viết của ông Bill Hayton, tôi nhận thấy có vài điều tôi muốn viết để góp ý. 

 

Tôi nghĩ, khi đề cập đến một trận chiến – chứ không phải viết lịch sử – người ta thường nhìn vào tinh thần chiến đấu của người lính tham gia trận chiến đó và phản ứng thức thời, thích nghi của cấp chỉ huy của trận chiến đó. Còn nếu chỉ nhìn cuộc chiến đó bằng kế hoạch hành quân và những “tai nạn” – như Bill Hayton đã nêu ra trong bài của ông ấy – khi khói lửa ngập trời mà không hề đề cập đến tinh thần của binh sĩ thì đó là một cách nhìn thiếu công bằng.

 

Tôi được hiểu rằng: Kế hoạch hoặc phương án hành quân và lệnh hành quân lúc nào cũng được bảo mật; sĩ quan thuộc cấp có thể biết một vài phần nhưng hạ sĩ quan và lính thì không được phép biết. Vì lẽ đó, những Người Lính VNCH đã tham chiến trận Hải Chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 01 năm 1974 – cả Địa Phương Quân/Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến – khi trở về đất liền được chào đón như những vị anh hùng là hoàn toàn hợp lý; bởi vì, Người Lính chỉ biết tuân lệnh, xã thân vào trận chiến vì tinh thần yêu nước, muốn bảo vệ quê hương chứ Người Lính không thể lựa chọn và cũng không cần biết ai phát họa phương án hoặc kế hoạch hành quân; phương án hoặc kế hoạch hành quân đó tốt hay xấu, có lợi hay bất lợi; phương án hoặc kế hoạch hành quân đó là một thảm họa hay là một khúc khải hoàn ca!

 

Cả thế giới đều biết, trận Hải Chiến giữa Hải-Quân VNCH và Hải Quân Trung cộng là một cuộc chiến không cân sức, như là "châu chấu đá xe". Thế mà Hải Quân VNCH vẫn chấp nhận chiến đấu để quân cướp Trung cộng biết rằng VNCH là chủ của Hoàng Sa – nghĩa là Hải-Quân VNCH cũng như Chính Phủ VNCH tự "rước" thảm họa (chữ của người nào dịch bài báo của Bill Hayton). Đó là tinh thần dũng cảm của Quân Lực VNCH, tác giả và mọi người – nhất là người Việt Nam – cần phải ghi nhận một cách trân trọng và nêu cao...

 

... Bill Hayton viết rằng: “…chính quyền Sài Gòn phải tham chiến với một nền kinh tế hầu như bị tê liệt…” 

 

Đúng! 

 

Vào thời điểm Hải Chiến Hoàng Sa, Chính Phủ VNCH với nền kinh tế hầu như bị tê liệt (chữ của Bill Hayton) và Người Lính VNCH chiến đấu trong điều kiện cạn kiệt vũ khí (chữ của Điệp Mỹ Linh); vì Hoa Kỳ không còn viện trợ vũ khí cho miền Nam Việt Nam nữa! Thế mà Chính Quyền VNCH và Người Lính VNCH vẫn “…Thù nước lấy máu đào đem báo…” (lời ca bài Quốc Ca VNCH). Tư cách như vậy, tác phong như vậy và tinh thần yêu nước như vậy phải được ghi nhận một cách công bằng và trang trọng, thưa ông Bill Hayton!...

 

XNV.- Thưa cô khi viết đoạn văn này cảm giác của cô như thế nào?

 

ĐML.- Tôi rất tức giận.

 

XNV.- Là phu nhân của một sĩ quan cao câp Hải Quân, xin cô cho biết tâm sự khi chứng kiến những trận thư hùng của hải quán và cô có cảm tưởng gì về người lính Hải Quân nói riêng, và người lính VNCH nói chung?

 

ĐML.- Kính thưa quý thính giả và thưa cô, để trả lời câu hỏi của cô, tôi xin trích một phần trong bài Nỗi Niềm của Người Vợ Lính. Đoạn ấy như thế này: “Từ ngày trở thành vợ của một ‘ông Hải Quân’ và được tháp tùng những cuộc hành quân hỗn hợp với các quân, binh chủng bạn, tâm nguyện của tôi là: Viết về những chiến tích có thật, sự dũng cảm có thật và những anh hùng có thật trong cuộc chiến giữa người Lính VNCH và người lính của đảng cộng sản Việt Nam (csVN) ... 

 

...Năm 1974, Hải Quân VNCH cùng một số Địa Phương Quân, Người Nhái, Thủy Quân Lục Chiến, v.v… đã chống lại sự xâm lăng của Trung cộng tại Hoàng Sa. Tôi rất hãnh diện về sự kiện đó; vì trong đời tôi, Hải Chiến Hoàng Sa là cuộc chiến đầu tiên mà người Lính VNCH cùng thời đại với tôi đã hiên ngang chiến đấu chống lại sự xâm lược của ngoại xâm Trung cộng – kẻ thù truyền kiếp của người Việt Nam yêu nước – vào vùng lãnh hải của miền Nam Việt Nam.

Sau khi niềm hãnh diện trong tôi lắng xuống, bình tâm trở lại, bản tính ngay thẳng trong tôi bừng lên và tôi nhận ra, trong tim tôi, tất cả quân nhân Quân Lực VNCH đều có cùng một vị thế rất đặc biệt và bình đẳng. Bất cứ một người Lính của quân binh chủng nào bị thương hoặc tử trận, lòng tôi cũng ngậm ngùi và biết ơn. Lòng biết ơn của tôi đối với Thương Binh VNCH được thể hiện một cách trực tiếp và âm thầm – với sự hỗ trợ của các con tôi – trong mấy mươi năm qua. Lý do tôi viết nhiều về Hải Quân VNCH không phải tôi thiên vị Hải Quân VNCH mà chỉ vì tôi không biết, không hiểu nhiều về các quân binh chủng khác thuộc Quân Lực VNCH...

 

XNV.- Tiếp theo,mời quý vị theo dõi một đoạn văn khác của nhà văn ĐML:  Xin trích một đoạn trong bài Người Lính Mỹ: “... Đối với tôi, cảnh lửa đạn trên sông hoặc dọc bờ sông, vào ban đêm, mang nặng tính chất hào hùng và bi thảm. Nhưng, hình ảnh và tiếng hát nghẹn ngào của Hải Quân đại úy Ashmore nơi mũi chiếc Command vào một đêm trăng, trên sông Cái Lớn, lại cho tôi hiểu thế nào là thương nhớ, thế nào là cô đơn, thế nào là bơ vơ, lạc lõng của một người lính chiến phải xa quê hương cả nửa vòng trái đất!

 

Gần nửa thế kỷ qua, không thể nào tôi nhớ được tựa đề của ca khúc mà Ashmore thường hát trên những dòng sông nhuộm máu. Nhưng giọng hát đầy u uẩn và bóng dáng đơn độc của Ashmore nơi mũi chiếc Command thì mãi hoài đọng lại trong hồn tôi!...”

 

XNV.- Thưa cô, với cuốn “Hải Quân Ra Khơi” cô đã gởi những tâm tình gì trong đó cho nguời Việt và đặc biệt như giới trẻ tụi cháu?

 

ĐML.- Kính thưa quý thính giả và thưa cô, Hải Quân VNCH Ra Khơi, 1975 là một cuốn tài liệu lịch sử, nhiều nhân chứng còn sống. Tôi quan niệm, khi viết truyện, tác giả có thể gửi gấm tâm tình của tác giả vào truyện; nhưng khi viết tài liệu thì chỉ có sự thật mà thôi.

 

XNV.- nhân ngày tưởng niệm Hoàng Sa và 74 tử sĩ của Hải Quân VNCH xin cầu nguyện Quốc Tổ linh thiêng phù trợ cho đất nước Việt Nam thoát khỏi ách cộng sản và đòi lại được Hoàng Sa, Trường Sa. Mời cô gửi lời tạm biệt thính giả trước khi kết thúc chương trình.

 

ĐML.- ĐML xin trân trọng cảm ơn quý thính giả đã lắng nghe; kính chào Ban Giám Đốc Saigon Dallas Radio và chào hai cô xướng ngôn viên duyên dáng.

 

XNV.- Chào. Nhạc đệm kết thúc với bài Hải Quân Hành Khúc (chiến sĩ hải quân ra khơi....Ra khơi sóng vương dạt dào, lênh đênh nhấp nhô thân tàu....)