2016/03/10

Tiếng Huế – một ngoại ngữ

 “Người Huế nói chuyện với nhau bằng ngoại ngữ Huế, người Nam người Bắc đứng ở ngoài nghe, không làm sao chen vào được một câu” . (Túy Hồng, Áo Rộng Khăn Vành, Tiếng Sông Hương 1990, t.14) .Nữ sinh Huế
Nữ sinh Huế
Mới nghe qua, tưởng như đùa, nhưng đem đối chiếu với kinh nghiệm thực tế qua giao tiếp thì quả ý kiến ấy không phải là không có lý, tuy hơi cường điệu một chút. Ai trong người Huế trên bước đường tha hương lại không hơn một lần gây bối rối cho người đồng hương khác xứ khi đối thoại với rặt giọng sông Hương?
Sau năm 1954, hơn một triêu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam để tránh hiểm họa Đỏ, đã sống rải rác khắp mọi miền dưới vĩ tuyến 17. Dù ở đâu, dù mấy chục năm đã trôi qua, họ vẫn giữ nguyên giọng Bắc, chỉ thay đổi một vài thổ ngữ cho dễ chuyện trò thông cảm.
Còn Huế mình, khi tha hương, đa số đều đổi giọng, hoặc Nam hoặc Bắc; nếu không được khéo léo rặt ròng như Bắc Nam chính cống thì cũng lơ lớ cho người khác xứ dễ nghe, chứ không còn rặt Huế nữa, ngoại trừ khi nói chuyện trong gia đình hay với đồng hương Cơm Hến.
Việc không đổi giọng của đồng bào miền Bắc di cư và việc đổi giọng hay pha giọng của người Huế tha hương, có người cho rằng đó là dấu hiệu của mặc cảm về giọng nói. Tôi không nghĩ như thế.
Đồng bào miền Bắc tha hương vẫn giữ nguyên giọng nói, không phải do mặc cảm tự tôn, tự cho rằng đó là một giọng nói hay, không việc gì phải đổi. Mặt khác, người Huế tha hương thường đổi giọng cũng không phải vì mặc cảm giọng nói của mình trọ trẹ khó nghe. Tất cả chỉ là sự đáp ứng thực tế của cuộc sống, sự thích nghi với hoàn cảnh.
Việc gì đồng bào miền Bắc phải đổi giọng khi giọng nói ấy không gây trở ngại nào trong đối thoại? Tại sao mình cứ khăng khăng giữ nguyên giọng Huế trong giao tiếp, khiến đồng bào khác xứ không hiểu gì cả, phải tốn công lặp đi lặp lại, giải thích này nọ, mất thì giờ? Như vậy làm sao dễ cảm thông với nhau cho được? Không đổi hay đổi, tất cả chỉ là thế. Không mặc cảm, không gượng gạo.
“Thương nhau thương cả đường đi . . .” . Thanh Nam quen với “nhỉ, nhé, hộ, gì cơ, làm sao . . . “ nhưng vì yêu Túy Hồng nên phải ráng nghe và hiểu “hí, nghe, giúp, cái chi rứa, làm răng . . . “ . Còn người dưng nước lã với nhau, lấy gì làm áp lực để buộc người ta phải hiểu điều mình nói?
Nói mà người khác không hiểu hay khó hiểu là một nhược điểm nên tránh trong giao tiếp. Vì vậy, sự điều chỉnh cho thích ứng với nhu cầu thực tế là sự thích nghi hoàn cảnh một cách khôn ngoan . Người Tàu tới nơi nào cũng sống được và sống giàu sống mạnh, là nhờ tinh thần hội nhập thực tế . Tuy vậy, không bao giờ đánh mất bản chất Trung Hoa của họ . Hòa mà không hùa là thế .
Ai cũng biết Tổng Thống Ngô Đình Diệm vốn quê Lệ Thủy, Quảng Bình nhưng sinh trưởng ở Huế. Nói chuyện với người Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, ông nói tiếng Huế nhưng khi nói trước công chúng, khi đọc diễn văn hay thông điệp, bao giờ ông cũng dùng giọng Nam. Ông mang mặc cảm giọng Huế trọ trẹ chăng? Hiển nhiên là không.
Trong nước, ông là người có quyền lực nhất, nhưng không vì quyền lực đó để buộc quốc dân phải nghe cho được giọng Huế khó nghe của ông. Ông cần được hết thảy người dân của mọi miền đất nước nghe, hiểu và thông cảm. Đổi giọng, vì thế là một sự cần thiết để đáp ứng nhu cầu thực tế.
Nữ sinh Huế
Nữ sinh Huế
Trong bài viết nói trên, Túy Hồng có một nhận xét rất đúng: “Giọng Huế không phải là giọng nói trước đám đông, mà có thể chỉ là một giọng nói trong phòng khách” . Đó cũng là một trong những lý do trong sự đổi giọng của Tổng Thống Diệm, trong việc giả giọng Bắc của Hoàng Thi Thơ khi điều khiển các chương trình ca nhạc, của Như Hảo trên đài phát thanh và truyền hình v.v…
Nói trước đám đông thì dở nhưng rỉ rả trong phòng khách thì rất dễ lọt tai. Có lẽ cũng vì cái ưu điểm“giọng nói trong phòng khách” đó nên nhiều chàng trai khác xứ đã lăn xả vào làm rể xứ Huế chăng ?
Tôi không phải là một nhà ngữ học . Vì vậy, những điều trình bày ở đây chỉ là những ý kiến rất thô thiển, có tính cách thường nghiệm của một kẻ bình thường . Đứng trước một thực tế là giọng Huế khó nghe, tiếng Huế khó hiểu (“ngoại ngữ Huế “) đối với đồng bào các miền khác, có nên chăng thử đặt câu hỏi tại sao ? Để dễ thông cảm .
Ở đây xin tạm hiểu “giọng” là nói về thanh âm phát ra từ người nói và “tiếng” dùng để chỉ về ý nghĩa của chữ dùng . Đôi khi, trong “tiếng” bao gồm luôn cả “giọng”, chẳng hạn cái tiêu đề tạm dùng ở trên .
Giọng Huế khó nghe đối với đồng bào khác xứ, phải chăng vì thanh âm do người Huế phát ra thuộc một âm vực khó nhận ra ? Tôi có cảm tưởng như khi phát âm, người Bắc thiên về giọng thấp, người Nam đi giọng cao, còn người Huế thì bình bình .
Phải chăng cái đặc tính bình thanh này khiến nó trở thành khó nghe ? Điều này xin để bàn tay chuyên môn của các nhà âm ngữ học can thiệp . Riêng tôi nghĩ rằng nếu miền Bắc và miền Nam có giọng nói dễ nghe, họ lại rất khó giả giọng miền khác . Trái lại, nếu âm vực giọng Huế thuộc loại bình bình, trung tín, khó nhận ra đối với người ngoài, thì cũng chính nhờ đặc điểm trung tín này đã giúp người Huế có thể giả giọng khắp mọi miền không mấy khó khăn .
Giọng Bắc, giọng Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Saigon . . . người Huế đều giả được tuốt . Cũng tỉ như nước lã không màu; nước không màu chứa trong ly thủy tinh trong suốt khó thấy; muốn cho người ta dễ thấy thì pha màu, và muốn pha màu gì cũng được .
Nghĩ sao nói vậy, chứ tôi biết rằng ý kiến trên sẽ bị bà con khác xứ chỉnh ngay, vì đã hơn một lần anh bạn người Nam nói với tôi rằng “Con gái Huế thì thanh tao, nhẹ nhàng, nhưng tiếng Huế của mấy ông nghe nặng lắm .”
Người Huế phát âm không phân biệt dấu hỏi dấu ngã; không phân biệt có “g” với không “g”, “c” với “t” . Nếu từ Quảng Nam trở vào người ta khó phân biệt “b” và “p”, đến nỗi khi đánh vần thường hỏi nhau “bê bò hay pê phở” và ngay cả đến những bậc khoa bảng tiếng Tây như gió cũng có lúc nói âm “pê phở” chưa chỉnh, thì ở Huế, tại vùng quê và ngay đối với lớp người già sống tại thành phố, người ta không phân biệt âm “gi”, “d” và “nh” . “Người già” và “người nhà” đều được nói giống nhau .
Sau khi làm xong cái nhà, tôi nói chuyện với ông chú già: “Mặc dù cháu tính khá kỹ, vậy mà cuối cùng cũng phải mượn thêm của bạn bè mới đủ, vì số chi phí vượt quá mức dự trù” .
Ông cụ thản nhiên đáp: “Cháu không nghe à, ôn mệ mình từ xưa nay đã nói là làm già (đồng hóa làm nhà và làm già, nghĩa là làm đôi ra, làm nhiều hơn) chớ có nói làm non mô; mà đã làm già thì hụt tiền thôi .”
Trộn lẫn giữa âm thanh và ý nghĩa quả thật là một lối chơi chữ rặt kiểu Huế, các bạn khác miền e khó mà thưởng thức .
Tôi không biết chắc khi một người ngoại quốc học tiếng Việt, cái khó nhất đối với họ là gì ? Cách phát âm với năm thanh (sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã và không dấu) bằng trắc khác nhau, nghe như điệu hát chăng ? Văn phạm chăng ? . . .
Riêng đối với người Việt, có lẽ việc đánh dấu hỏi, ngã cho đúng cũng đã là một vấn đề . Hồi còn học tiểu học, thầy dạy lớp Nhất đã truyền cho lũ nhóc đệ tử chúng tôi một bí quyết để viết hỏi ngã cho đúng, với “câu thần chú “:
“Anh Huyền ngã nặng, hỏi con dao có sắc không ?”
Ý thầy muốn chúng tôi phải nhớ rằng trong một từ kép, hễ chữ nào đi với chữ có dấu huyền hay dấunặngthì đánh dấu ngã; còn chữ nào đi với chữ có dấu sắc hay không dấu thì đánh dấu hỏi, trừ một vài ngoại lệ phải thuộc lòng . Chẳng hạn:
– Nghĩ ngợi / nghỉ ngơi
– Sừng sững, sửng sốt

Thần chú như thế kể cũng linh nghiệm thật, nhưng khi viết chính tả cũng phải tốn công suy nghĩ, hơi . . . mệt . Tôi vái trời khi đi thi tiểu học được gặp một thầy giáo hay cô giáo người Bắc, vì tôi nghiệm ra rằng người Bắc phát âm dấu hỏi dấu ngã rất đúng . Ấy là nhờ gần gũi với một ông Hà Nội đang tán bà chị tôi .
Cho đến bây giờ vẫn thế, bộ óc tôi ghi nhận rằng khi phát âm dấu ngã thì người Bắc nói nghe như dấu sắc (nghĩ ngợi . . . nghí ngợi) và dấu hỏi nghe như dấu nặng (nghỉ ngơi . . . nghị ngơi) .
Giả giọng Bắc mà không biết qui luật này sẽ đánh dấu hỏi ngã sai bét và lòi đuôi “giả cầy” ngay . Một ông nhạc sĩ nọ gốc miền Trung, thường nói giọng Bắc trên TV, trước 75 có lần bị báo chí diễu là “người nói giọng Bắc hay nhất nước” cũng chỉ vì không để ý điều đó .
Cách đây non 30 năm, lần đầu tiên khi đọc một cuốn truyện (không nhớ tên) của một văn sĩ người Bắc (không nhớ bút hiệu) đến đoạn đối thoại của một nhân vật nữ người Huế, tôi vừa cười thích thú , vưa giận . Thích thú, vì tác giả viết rất có duyên . Giận là giận mấy ông thợ nhà in sắp chữ (tôi đinh ninh thế) .
Ai đời “Thôi em về hí”, lại sắp chữ thành “Thôi, em về hỉ” . . . Chữ “hí” của người ta viết với dấu sắc, nghe dịu dàng êm ái như rứa, đem sửa lại thành “hỉ” với dấu hỏi, nghe lãng xẹt, vô duyên như ăn cơm hến thiếu ruốc .
Cô gái Huế bên hồ sen
Cô gái Huế bên hồ sen
Trong lời nói thường nhật của người Huế, HÍ là một từ đệm, đóng vai trò như NHÉ hay NHỈ tiếng Bắc và NHA tiếng Nam . . . Tôi cứ thầm cằn nhằn và giải thích như thế với mấy ông ấn công vô danh; mãi sau mới có dịp biết rằng mình đã nghĩ oan cho họ . Hầu như trong các truyện có dính líu đến ngôn ngữ của xứ Huế, chữ HÍ đệm ở cuối câu đều được nghe và viết thành HỈ .
Khi người Huế phát âm những chữ thuộc về dấu sắc, người Bắc và người Nam đều nghe thành dấu hỏi hoặc dấu nặng . Đó là lý do HÍ biến thành HỈ . Điều đáng nói là sai lầm này cũng hiện diện trong những tác phẩm do chính người Huế viết ra . Lỗi ở ấn công chăng ? Nếu không, đó là điều khó hiểu .
Trong bài “Tôi Không Yêu Tiếng Huế” (Tiếng Sông Hương 1990), tác giả Phàm Phu đã viết rất dí dỏm về những trở ngại do giọng Huế và tiếng Huế gây ra trên chốn giang hồ, vì người khác xứ nghe dấu khác đi .
Một thiếu nữ Hà Thành khi nghe một thanh niên Huế ngỏ lời: “Cô cho tôi xin một cái bóng (tấm hình) của cô để làm kỷ niệm . . .” đã ngơ ngác hỏi lại “Thưa, anh bảo cái bọng gì cơ ạ ?” (t. 45) .
Một ông người Huế khi vào hội tứ sắc đã hỏi làng “Hôm nay tui biết tui hên nên muốn đánh lớn . Mấy bà có chịu hai cắc (một lệnh) không ?” Câu nói này đã làm cho một bà người Nam giận dữ bỏ chơi, vì nghe lầm dấu sắc ra dấu nặng, tưởng ông kia ăn nói xí xọn (t. 46) .
Thời gian ở tù Cộng Sản trong trại “cải tạo”, được sống gần gũi với anh em người Quảng Nam, tôi mới biết giọng Huế đã được nghe như thế nào . Buổi tối, trong khi chờ tới giờ ngủ, anh em thường tụ tập chơi cờ hoặc kể chuyện vui cho đỡ buồn . Có lần một anh bảo tôi: “Đố anh nói to và đúng câu ‘Đem vở vô buồng, học đủ rồi ra ‘  .
Dĩ nhiên là tôi đáp ứng ngay, dõng dạc, rõ ràng . Câu nói vừa dứt, lập tức tiếng vỗ tay và tiếng cười khoái trá nổi lên . Có cả tiếng hô “hay, hay ! nói tiếp đi” . Tôi ngơ ngác không hiểu, vì không tin rằng câu nói đơn giản đó lại có hiệu lực chọc cười đến thế . Ông bạn ăn chung mâm vừa cười vừa cắt nghĩa “Tụi tui nghe người Huế nói dấu hỏi thành dấu nặng cả, nên mới phịa ra câu đó để chọc anh đó” . À ra thế !
Giọng Huế tuy khó nghe với người khác xứ nhưng rất dễ chỉnh: trong lúc nói chuyện, chỉ cần đổi “tông” lơ lớ đi một chút là người nghe thoải mái ngay . Tiếng Huế mới là cả vấn đề, bởi vì khi nói đến giọng là chỉ mới đề cập tới hình thức, còn đi vào tiếng là đi vào nội dung, đi vào đời sống văn hóa .
Ngôn ngữ chẳng qua là qui ước về âm thanh do con người phát ra . Vì vậy, cùng một âm thanh phát ra giống nhau nhưng do qui ước khác nhau nên mỗi dân tộc hiểu theo một nghĩa riêng .
Tác giả Phàm Phu (TSH 90, đã dẫn) kể rằng trong một lần dạo phố Bangkok, thấy cô người Thái cực kỳ xinh đẹp, bèn chụp ảnh để kỷ niệm . Vừa đưa máy ảnh lên nhắm, vừa hỏi ý kiến ông bạn đồng hương làm hướng đạo: “Chụp hí ?” (Chụp nhé ?) thì mỹ nhân hoảng hốt bỏ chạy, còn tác giả bị bạn mắng như tát nước là ăn nói thô tục đối với phụ nữ ngoại quốc . Lý do là trong tiếng Thái “chụp” có nghĩa là “hôn”, còn“hí”  “cái ấy” của phụ nữ .
Hai tiếng Huế vô tội đã trở thành ngôn ngữ sàm sỡ ở Bangkok . Hồi còn ở tù “cải tạo” tại trại Tiên Lãnh (Quảng Nam), tôi và một anh bạn đã làm cho mấy phụ nữ Kàtu bỏ chạy trong cơn mưa .
Sau một ngày vất vả đốn cây rồi đốt thành than, tổ chúng tôi bốn người quảy bốn gánh than đầy ắp về trại . Nửa đường, trời đổ mưa, bèn ghé vào một cái chòi trong rẫy lúa bỏ hoang để tạm núp mưa, cho than khỏi ướt .
Một lát, thấy có bốn năm phụ nữ Thượng, người Kàtu, từ phía suối lúp xúp chạy về chòi chúng tôi, ý hẳn cũng để đụt mưa . “Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm . . .”, sợ mấy phụ nữ sẽ bị trợt té trên con đường dốc dẫn vào lều đã trở thành trơn trợt, anh bạn và tôi la lên “Coi chừng té ! Té !” .
Kỳ lạ, câu nói vừa dứt thì nghe mấy người đàn bà đó ré lên chí chóe gì đó và đổi hướng không chạy vào lều nữa . Trong tổ, có anh bạn gốc Trà Mi (quận miền núi ở Quảng Nam) nhẩn nha giải thích “Nói như mấy ông thì cho vàng tụi hắn cũng không vô núp mưa . ‘Té ‘, tiếng Kàtu có nghĩa là đ.., biết chưa ? Lần sau gặp tụi đàn bà con gái ở đây đừng có nói bậy như vậy nữa, coi chừng có ngày ăn rựa” . Hú vía !
Giữa các dân tộc, qui ước thanh âm khác nhau dẫn đến ý nghĩa khác nhau đã đành, mà ngay trong cùng một nước ngôn ngữ cũng thay đổi theo địa phương . Cùng một từ, mỗi miền có thể hiểu một nghĩa khác nhau . Cùng chỉ một vật hay một việc, mỗi miền có một lối gọi khác nhau .
Chẳng hạn chữ “đồ” cũng có ý nghĩa khác nhau giữa hai miền Bắc Nam . Trong khi miền Nam, miền Trung dùng chữ đồ một cách hồn nhiên để chỉ về đồ vật thì người Bắc lại dùng nó để chỉ bộ phận sinh dục của phái nữ . Vì vậy, khi thấy ba ông bạn cùng chụp chung một tấm hình (chữ Hán gọi là đồ) với một cô đầm, ông nào ngó cũng chễm chệ, phong lưu, Tú Xương đã ỡm ờ vịnh ngay:
Ba bác chung nhau một cái đồ

. . .

Thôi đừng chê nhỏ lại cười to !
Cùng chỉ một vật dùng để chứa thức ăn, ở Bắc gọi là bát, Huế gọi là đọi, Nam gọi là  . Cùng chỉ động tác rơi xuống đất vì mất thăng bằng, người Bắc gọi là ngã, Huế gọi là bổ, Nam gọi là  .
Sự đa dạng trong ngôn ngữ của một dân tộc là điều tự nhiên; bao giờ trong cái chung cũng có cái riêng và thấp thoáng trong cái riêng là hình ảnh cái chung .
Hình như địa lý và lịch sử đã kết hợp với nhau để tạo nên cho Huế một môi trường dễ làm nảy sinh nhiều thổ âm và thổ ngữ hơn các miền khác, đến độ có người đã nói là có thể sưu tập thành một tiểu tự điển tiếng Huế .
Trong TSH 93, qua bài “Thử nói về ảnh hưởng cung đình trong phong cách Huế”, tôi đã có dịp khái quát về ảnh hưởng của ngôn ngữ cung đình trong ngôn ngữ Huế . Điều đáng nêu lên ở đây là: tại sao tiếng Bắc, tiếng Nam không gây trở ngại khi giao tiếp như tiếng Huế ? Ngoài giọng Huế khó nghe, như đã nói ở trên, phải chăng vì tiếng Huế quá đặc thù ? Phải chăng vì ngôn ngữ Huế ít được phổ biến ? Hay vì tiếng Huế khúc mắc khó hiểu ? Thiết nghĩ có lẽ do tất cả .
Người khác xứ có thể dễ dàng quen thuộc với “răng, ri, mô, tê, rứa, hè, hí” vì tính cách phổ thông của chúng, nhưng quả tình khó mà thông cảm với những lối nói đặc thù khác .
Tôi có anh bạn người Nam, sống ở Huế khá lâu . Trong một buổi trà dư tửu hậu, anh tuyên bố rằng “Bây giờ người Huế nói cách chi tui cũng hiểu” . Nghe vậy, một anh bạn khác liền hỏi ngay: “Thiệt hả ? Rứa thì anh có biết vụ hai đứa con ông Bảy bựa qua ngầy lộn rồi lôi giau từ trong chờn ra trữa cươi đập chắc, một đứa bể mỏ, một đứa u trốt. Mạ hắn can không được, đứng trữa cươi la làng như quạ quạ bẻ bắp” .
Anh bạn người Nam ngẩn tò te, chịu thua . Đây là chìa khóa mật mã:
 Bựa qua: hôm qua

 Lôi giau: lôi nhau

 Ngầy lộn: gây gỗ
 Chắc: với nhau
 Chờn: giường
 Trữa cươi: giữa sân
 Bể mỏ: vỡ mồm, dập miệng
 U trốt: u đầu

Mới chỉ có một câu nói ngắn như vậy mà cần phải giải thích đến tám chữ mới làm cho người ngoài hiểu được, và thực ra, đó mới chỉ là những chữ nặng về hình thức hơn ý nghĩa .
Nếu đi vào ý nghĩa thì sự khúc mắc càng thể hiện rõ rệt hơn . Thành ngữ “tào lao xịt bộp” là một thành ngữ phổ thông ở Huế, dùng để chỉ lời nói hay việc làm không đâu vào đâu, không có chủ đích, không ý nghĩa, kiểu “nghe qua rồi bỏ” .
Trong một cuộc tiếp kiến Toàn Quyền Đông Dương, Đoan Huy Hoàng Thái Hậu (mẹ vua Bảo Đại) đã làm cho một vi quan lúng túng khi phải thông dịch câu nói rặt Huế của bà “Tôi tra rồi, ăn nói tào lao xịt bộp . . .”(Nguyễn Đặng, TSH 93), chỉ vì ông không phải là người Huế .
“La ngầy” hay “ngầy” có nghĩa là “la rầy” nhưng “ngầy lộn” lại có nghĩa là “gây gỗ” với nhau . “Mụ nớ” có nghĩa là “người đàn bà kia” (không có ý kính trọng) nhưng khi một người đàn ông được gọi là “Mụ”hay“Mệ”, có nghĩa ông ta là người trong hoàng tộc .
Có một thực tế mà dường như ít ai để ý . Ấy là kể từ ngày chữ quốc ngữ trở thành văn tự chính thức, thay thế cho chữ Hán thì lối viết theo cách phát âm của người Bắc là lối viết chính thức của nước ta .
Thực vậy, từ giấy tờ hành chánh cho đến tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học . . . phổ biến qua hình thức văn tự, hầu như tất cả đều được viết theo cách phát âm này . Ngoại trừ một Hồ Biểu Chánh của hồi đầu thế kỷ và sau này có thêm Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc và hiện nay Hồ Trường An, là viết văn theo rặt giọng Nam, còn tất cả, bất cứ người cầm bút thuộc lãnh vực nào, xuất thân từ địa phương nào, đều viết theo phong thái âm giọng miền Bắc .
Bình Nguyên Lộc viết tiểu thuyết theo giọng Nam nhưng khi viết “Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam, một tác phẩm biên khảo, cũng viết theo cách phát âm miền Bắc . Số học giả, thi sĩ, văn sĩ người Huế trong nền văn chương quốc ngữ đông biết mấy, thế nhưng không vì vậy mà “răng, ri, mô, tê, rứa, ni, nớ . . .” được chính thức đi vào văn học như “sao, thế này, đâu, kia, vậy, này, ấy . . .”
Tiếng Việt theo cách phát âm miền Bắc hầu như đã trở thành lối viết chính thức, có lẽ do truyền thống lập quốc và Nam Tiến .
Trong âm nhạc, ta cũng thấy hiện tượng tương tự . Khi hát tân nhạc, tất cả ca sĩ đều phát âm theo giọng Bắc, bất kể người miền nào . Nhiều danh hề đã chọc cười khán giả một cách thành công khi thỉnh thoảng hát tân nhạc theo giọng Nam . Ban AVT nhờ có Vân Sơn đệm giọng Huế mà trở thành hài hước có duyên .
Từ thập niên 60, một số nhà văn nữ người Huế quả có đưa tiếng Huế vào tác phẩm nhưng cũng chỉ có tính cách mắm muối thêm duyên, kiểu như Vân Sơn đệm giọng Huế trong AVT chứ chưa tạo được sắc thái địa phương như Hồ Biểu Chánh hay Hồ Trường An .
Giọng Bắc, giọng Nam dễ nghe, đó là lý do tại sao đồng bào miền Bắc, miền Nam không gặp trở ngại với người khác xứ . Trái lại, bên cạnh giọng nói thuộc về một âm vực khó nghe, người Huế lại nói và viết không giống nhau . Thêm vào đó, Huế lại quá phong phú thổ âm, thổ ngữ, cả về số lượng cũng như ý nghĩa .
Tất cả những cái đó đã biến tiếng Huế trở thành “ngoại ngữ” ! Muốn hiểu rành “ngoại ngữ” đó, chỉ có cách hãy sống với Huế . Ai không tin, thử hỏi mấy ông rể Huế, biết ngay .

Võ Hương An

(Đặc San Tiếng Sông Hương, 1994)


(Võ Hương An)

Cựu Thanh tra Giám Sát Viện Quân Khu I /VNCH
Cựu Tù nhân Chính trị Quảng Nam-Đà Nẵng)

Không có nhận xét nào: