Tiếng Huế – một ngoại ngữ
“Người Huế nói chuyện với nhau bằng ngoại ngữ
Huế, người Nam người Bắc đứng ở ngoài nghe, không làm sao chen vào được một
câu” . (Túy Hồng, Áo
Rộng Khăn Vành, Tiếng Sông Hương 1990, t.14) .
Mới nghe qua,
tưởng như đùa, nhưng đem đối chiếu với kinh
nghiệm thực tế qua
giao tiếp thì quả ý kiến ấy không phải là không có lý, tuy hơi cường điệu một
chút. Ai trong người Huế trên bước đường tha hương lại không hơn một lần gây
bối rối cho người đồng hương khác xứ khi đối thoại với rặt giọng sông Hương?
Sau năm 1954, hơn
một triêu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam để tránh hiểm họa Đỏ, đã sống
rải rác khắp mọi miền dưới vĩ tuyến 17. Dù ở đâu, dù mấy chục năm đã trôi qua,
họ vẫn giữ nguyên giọng Bắc, chỉ thay đổi một vài thổ ngữ cho dễ chuyện trò
thông cảm.
Còn Huế mình, khi
tha hương, đa số đều đổi giọng, hoặc Nam
hoặc Bắc; nếu không được khéo léo rặt ròng như Bắc Nam chính cống thì cũng lơ lớ cho
người khác xứ dễ nghe, chứ không còn rặt Huế nữa, ngoại trừ khi nói chuyện
trong gia đình hay với đồng hương Cơm Hến.
Việc không đổi
giọng của đồng bào miền Bắc di cư và việc đổi giọng hay pha giọng của người Huế
tha hương, có người cho rằng đó là dấu hiệu của mặc cảm về giọng nói. Tôi không
nghĩ như thế.
Đồng bào miền Bắc
tha hương vẫn giữ nguyên giọng nói, không phải do mặc cảm tự tôn, tự cho rằng
đó là một giọng nói hay, không việc gì phải đổi. Mặt khác, người Huế tha hương
thường đổi giọng cũng không phải vì mặc cảm giọng nói của mình trọ trẹ khó
nghe. Tất cả chỉ là sự đáp ứng thực tế của cuộc sống, sự thích nghi với hoàn
cảnh.
Việc gì đồng bào
miền Bắc phải đổi giọng khi giọng nói ấy không gây trở ngại nào trong đối
thoại? Tại sao mình cứ khăng khăng giữ nguyên giọng Huế trong giao tiếp, khiến
đồng bào khác xứ không hiểu gì cả, phải tốn công lặp đi lặp lại, giải thích này
nọ, mất thì giờ? Như vậy làm sao dễ cảm thông với nhau cho được? Không đổi hay
đổi, tất cả chỉ là thế. Không mặc cảm, không gượng gạo.
“Thương nhau thương cả đường đi . . .” . Thanh Nam quen với “nhỉ, nhé, hộ, gì cơ, làm sao . . . “ nhưng vì yêu Túy Hồng nên phải ráng
nghe và hiểu “hí, nghe, giúp, cái chi rứa, làm răng . . . “ . Còn người dưng nước lã với nhau, lấy
gì làm áp lực để buộc người ta phải hiểu điều mình nói?
Nói mà người khác
không hiểu hay khó hiểu là một nhược điểm nên tránh trong giao tiếp. Vì vậy, sự
điều chỉnh cho thích ứng với nhu cầu thực tế là sự thích nghi hoàn cảnh một
cách khôn ngoan . Người Tàu tới nơi nào cũng sống được và sống giàu sống mạnh,
là nhờ tinh thần hội nhập thực tế . Tuy vậy, không bao giờ đánh mất bản chất
Trung Hoa của họ . Hòa mà không hùa là thế .
Ai cũng biết Tổng
Thống Ngô Đình Diệm vốn quê Lệ Thủy, Quảng Bình nhưng sinh trưởng ở Huế. Nói
chuyện với người Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, ông nói tiếng Huế nhưng khi nói
trước công chúng, khi đọc diễn văn hay thông điệp, bao giờ ông cũng dùng giọng
Nam. Ông mang mặc cảm giọng Huế trọ trẹ chăng? Hiển nhiên là không.
Trong nước, ông là
người có quyền lực nhất, nhưng không vì quyền lực đó để buộc quốc dân phải nghe
cho được giọng Huế khó nghe của ông. Ông cần được hết thảy người dân của mọi
miền đất nước nghe, hiểu và thông cảm. Đổi giọng, vì thế là một sự cần thiết để
đáp ứng nhu cầu thực tế.
Trong bài viết nói
trên, Túy Hồng có một nhận xét rất đúng: “Giọng Huế không phải là giọng nói trước đám
đông, mà có thể chỉ là một giọng nói trong phòng khách” . Đó cũng là một trong những lý do
trong sự đổi giọng của Tổng Thống Diệm, trong việc giả giọng Bắc của Hoàng Thi
Thơ khi điều khiển các chương trình ca nhạc, của Như Hảo trên đài phát thanh và
truyền hình v.v…
Nói trước đám đông
thì dở nhưng rỉ rả trong phòng khách thì rất dễ lọt tai. Có lẽ cũng vì cái ưu
điểm“giọng nói trong phòng khách” đó nên nhiều chàng trai khác xứ đã lăn
xả vào làm rể xứ Huế chăng ?
Tôi không phải là
một nhà ngữ học . Vì vậy, những điều trình bày ở đây chỉ là những ý kiến rất
thô thiển, có tính cách thường nghiệm của một kẻ bình thường . Đứng trước một
thực tế là giọng Huế khó nghe, tiếng Huế khó hiểu (“ngoại ngữ Huế “) đối với
đồng bào các miền khác, có nên chăng thử đặt câu hỏi tại sao ? Để dễ thông cảm .
Ở đây xin tạm hiểu
“giọng” là nói về thanh âm phát ra từ người nói và “tiếng” dùng để chỉ về ý
nghĩa của chữ dùng . Đôi khi, trong “tiếng” bao gồm luôn cả “giọng”, chẳng hạn
cái tiêu đề tạm dùng ở trên .
Giọng Huế khó nghe
đối với đồng bào khác xứ, phải chăng vì thanh âm do người Huế phát ra thuộc một
âm vực khó nhận ra ? Tôi có cảm tưởng như khi phát âm, người Bắc thiên về giọng
thấp, người Nam
đi giọng cao, còn người Huế thì bình bình .
Phải chăng cái đặc
tính bình thanh này khiến nó trở thành khó nghe ? Điều này xin để bàn tay
chuyên môn của các nhà âm ngữ học can thiệp . Riêng tôi nghĩ rằng nếu miền Bắc
và miền Nam
có giọng nói dễ nghe, họ lại rất khó giả giọng miền khác . Trái lại, nếu âm vực
giọng Huế thuộc loại bình bình, trung tín, khó nhận ra đối với người ngoài, thì
cũng chính nhờ đặc điểm trung tín này đã giúp người Huế có thể giả giọng khắp
mọi miền không mấy khó khăn .
Giọng Bắc, giọng
Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Nam ,
Quảng Ngãi, Saigon . . . người Huế đều giả
được tuốt . Cũng tỉ như nước lã không màu; nước không màu chứa trong ly thủy
tinh trong suốt khó thấy; muốn cho người ta dễ thấy thì pha màu, và muốn pha
màu gì cũng được .
Nghĩ sao nói vậy,
chứ tôi biết rằng ý kiến trên sẽ bị bà con khác xứ chỉnh ngay, vì đã hơn một
lần anh bạn người Nam nói với tôi rằng “Con gái Huế thì thanh tao, nhẹ nhàng, nhưng
tiếng Huế của mấy ông nghe nặng lắm .”
Người Huế phát âm
không phân biệt dấu hỏi dấu ngã; không phân biệt có “g” với không “g”, “c” với
“t” . Nếu từ Quảng Nam trở vào người ta khó phân biệt “b” và “p”, đến nỗi khi
đánh vần thường hỏi nhau “bê bò hay pê phở” và ngay cả đến những bậc khoa bảng
tiếng Tây như gió cũng có lúc nói âm “pê phở” chưa chỉnh, thì ở Huế, tại vùng
quê và ngay đối với lớp người già sống tại thành phố, người ta không phân biệt
âm “gi”, “d” và “nh” . “Người già” và “người nhà” đều được nói giống nhau .
Sau khi làm xong
cái nhà, tôi nói chuyện với ông chú già: “Mặc dù cháu tính khá kỹ, vậy mà cuối cùng
cũng phải mượn thêm của bạn bè mới đủ, vì số chi phí vượt quá mức dự trù” .
Ông cụ thản nhiên
đáp: “Cháu không nghe à, ôn mệ mình từ xưa nay đã nói là làm già (đồng hóa làm nhà và làm già, nghĩa là
làm đôi ra, làm nhiều hơn) chớ có nói làm non mô; mà đã làm già thì hụt
tiền thôi .”
Trộn lẫn giữa âm
thanh và ý nghĩa quả thật là một lối chơi chữ rặt kiểu Huế, các bạn khác miền e
khó mà thưởng thức .
Tôi không biết
chắc khi một người ngoại quốc học tiếng Việt, cái khó nhất đối với họ là gì ?
Cách phát âm với năm thanh (sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã và không dấu) bằng trắc
khác nhau, nghe như điệu hát chăng ? Văn phạm chăng ? . . .
Riêng đối với
người Việt, có lẽ việc đánh dấu hỏi, ngã cho đúng cũng đã là một vấn đề . Hồi
còn học tiểu học, thầy dạy lớp Nhất đã truyền cho lũ nhóc đệ tử chúng tôi một
bí quyết để viết hỏi ngã cho đúng, với “câu thần chú “:
“Anh Huyền ngã nặng, hỏi con dao có sắc không
?”
Ý thầy muốn chúng
tôi phải nhớ rằng trong một từ kép, hễ chữ nào đi với chữ có dấu huyền hay dấunặngthì đánh dấu ngã; còn chữ nào đi với chữ có
dấu sắc hay không dấu thì đánh dấu hỏi, trừ một vài ngoại lệ phải
thuộc lòng . Chẳng hạn:
– Nghĩ ngợi / nghỉ ngơi
– Sừng sững, sửng sốt
Thần chú như thế
kể cũng linh nghiệm thật, nhưng khi viết chính tả cũng phải tốn công suy nghĩ,
hơi . . . mệt . Tôi vái trời khi đi thi tiểu học được gặp một thầy giáo hay cô
giáo người Bắc, vì tôi nghiệm ra rằng người Bắc phát âm dấu hỏi dấu ngã rất
đúng . Ấy là nhờ gần gũi với một ông Hà Nội đang tán bà chị tôi .
Cho đến bây giờ
vẫn thế, bộ óc tôi ghi nhận rằng khi phát âm dấu ngã thì người Bắc nói nghe như
dấu sắc (nghĩ ngợi . . . nghí ngợi) và
dấu hỏi nghe như dấu nặng (nghỉ ngơi . . . nghị ngơi) .
Giả giọng Bắc mà
không biết qui luật này sẽ đánh dấu hỏi ngã sai bét và lòi đuôi “giả cầy” ngay
. Một ông nhạc sĩ nọ gốc miền
Trung, thường nói giọng Bắc trên TV, trước 75 có lần bị báo chí diễu
là “người nói giọng Bắc hay nhất nước” cũng chỉ vì không để ý điều đó .
Cách đây non 30
năm, lần đầu tiên khi đọc một cuốn truyện (không nhớ tên) của một văn sĩ người
Bắc (không nhớ bút hiệu) đến đoạn đối thoại của một nhân vật nữ người Huế, tôi
vừa cười thích thú , vưa giận . Thích thú, vì tác giả viết rất có duyên . Giận
là giận mấy ông thợ nhà in sắp chữ (tôi đinh ninh thế) .
Ai đời “Thôi em về hí”, lại sắp chữ thành “Thôi, em về hỉ” .
. . Chữ “hí” của người ta viết với dấu sắc, nghe
dịu dàng êm ái như rứa, đem sửa lại thành “hỉ” với dấu hỏi, nghe lãng xẹt, vô duyên
như ăn cơm
hến thiếu ruốc .
Trong lời nói
thường nhật của người Huế, HÍ là một từ đệm, đóng vai trò như NHÉ hay NHỈ tiếng
Bắc và NHA tiếng Nam . . . Tôi cứ thầm cằn nhằn và giải thích như thế với mấy
ông ấn công vô danh; mãi sau mới có dịp biết rằng mình đã nghĩ oan cho họ . Hầu
như trong các truyện có dính líu đến ngôn ngữ của xứ Huế, chữ HÍ đệm ở cuối câu
đều được nghe và viết thành HỈ .
Khi người Huế phát
âm những chữ thuộc về dấu sắc, người Bắc và người Nam đều nghe thành dấu hỏi hoặc dấu
nặng . Đó là lý do HÍ biến thành HỈ . Điều đáng nói là sai lầm này cũng hiện
diện trong những tác phẩm do chính người Huế viết ra . Lỗi ở ấn công chăng ?
Nếu không, đó là điều khó hiểu .
Trong bài “Tôi Không Yêu Tiếng Huế” (Tiếng Sông Hương 1990), tác giả Phàm Phu đã viết rất dí dỏm về những trở ngại
do giọng Huế và tiếng Huế gây ra trên chốn giang hồ, vì người khác xứ nghe dấu
khác đi .
Một thiếu nữ Hà
Thành khi nghe một thanh niên Huế ngỏ lời: “Cô cho tôi xin một cái bóng (tấm hình) của cô để làm kỷ niệm . . .” đã ngơ ngác hỏi lại “Thưa, anh bảo cái bọng gì cơ ạ ?” (t. 45) .
Một ông người Huế
khi vào hội tứ sắc đã hỏi làng “Hôm nay tui biết tui hên nên muốn đánh lớn .
Mấy bà có chịu hai cắc (một
lệnh) không ?” Câu
nói này đã làm cho một bà người Nam
giận dữ bỏ chơi, vì nghe lầm dấu sắc ra dấu nặng, tưởng ông kia ăn nói xí xọn
(t. 46) .
Thời gian ở tù
Cộng Sản trong trại “cải tạo”, được sống gần gũi với anh em người Quảng Nam,
tôi mới biết giọng Huế đã được nghe như thế nào . Buổi tối, trong khi chờ tới
giờ ngủ, anh em thường tụ tập chơi cờ hoặc kể chuyện vui cho đỡ buồn . Có lần
một anh bảo tôi: “Đố anh nói to và đúng câu ‘Đem vở vô
buồng, học đủ rồi ra ‘ “ .
Dĩ nhiên là tôi
đáp ứng ngay, dõng dạc, rõ ràng . Câu nói vừa dứt, lập tức tiếng vỗ tay và
tiếng cười khoái trá nổi lên . Có cả tiếng hô “hay, hay ! nói tiếp đi” . Tôi ngơ ngác không hiểu, vì không
tin rằng câu nói đơn giản đó lại có hiệu lực chọc cười đến thế . Ông bạn ăn
chung mâm vừa cười vừa cắt nghĩa “Tụi tui nghe người Huế nói dấu hỏi thành dấu
nặng cả, nên mới phịa ra câu đó để chọc anh đó” . À ra thế !
Giọng Huế tuy khó
nghe với người khác xứ nhưng rất dễ chỉnh: trong lúc nói chuyện, chỉ cần đổi
“tông” lơ lớ đi một chút là người nghe thoải mái ngay . Tiếng Huế mới là cả vấn
đề, bởi vì khi nói đến giọng là chỉ mới đề cập tới hình thức, còn đi vào tiếng
là đi vào nội dung, đi vào đời sống văn hóa .
Ngôn ngữ chẳng qua
là qui ước về âm thanh do con người phát ra . Vì vậy, cùng một âm thanh phát ra
giống nhau nhưng do qui ước khác nhau nên mỗi dân tộc hiểu theo một nghĩa riêng
.
Tác giả Phàm Phu
(TSH 90, đã dẫn) kể rằng trong một lần dạo phố Bangkok, thấy cô người Thái cực
kỳ xinh đẹp, bèn chụp ảnh để kỷ niệm . Vừa đưa máy ảnh lên nhắm, vừa hỏi ý kiến
ông bạn đồng hương làm hướng đạo: “Chụp hí ?” (Chụp nhé ?) thì mỹ nhân hoảng hốt bỏ
chạy, còn tác giả bị bạn mắng như tát nước là ăn nói thô tục đối với phụ nữ
ngoại quốc . Lý do là trong tiếng Thái “chụp” có nghĩa là “hôn”, còn“hí” là “cái ấy” của
phụ nữ .
Hai tiếng Huế vô
tội đã trở thành ngôn ngữ sàm sỡ ở Bangkok
. Hồi còn ở tù “cải tạo” tại trại Tiên Lãnh (Quảng Nam ), tôi và một anh bạn đã làm cho
mấy phụ nữ Kàtu bỏ chạy trong cơn mưa .
Sau một ngày vất
vả đốn cây rồi đốt thành than, tổ chúng tôi bốn người quảy bốn gánh than đầy ắp
về trại . Nửa đường, trời đổ mưa, bèn ghé vào một cái chòi trong rẫy lúa bỏ
hoang để tạm núp mưa, cho than khỏi ướt .
Một lát, thấy có
bốn năm phụ nữ Thượng, người Kàtu, từ phía suối lúp xúp chạy về chòi chúng tôi, ý hẳn
cũng để đụt mưa . “Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm . . .”,
sợ mấy phụ nữ sẽ bị trợt té trên con đường dốc dẫn vào lều đã trở thành trơn
trợt, anh bạn và tôi la lên “Coi chừng té ! Té !” .
Kỳ lạ, câu nói vừa
dứt thì nghe mấy người đàn bà đó ré lên chí chóe gì đó và đổi hướng không chạy
vào lều nữa . Trong tổ, có anh bạn gốc Trà Mi (quận miền núi ở Quảng Nam ) nhẩn nha
giải thích “Nói như mấy ông thì cho vàng tụi hắn cũng không vô núp mưa . ‘Té
‘, tiếng Kàtu có nghĩa là đ.., biết chưa ? Lần sau gặp tụi đàn bà con gái ở đây
đừng có nói bậy như vậy nữa, coi chừng có ngày ăn rựa” . Hú vía !
Giữa các dân tộc,
qui ước thanh âm khác nhau dẫn đến ý nghĩa khác nhau đã đành, mà ngay trong
cùng một nước ngôn ngữ cũng thay đổi theo địa phương . Cùng một từ, mỗi miền có
thể hiểu một nghĩa khác nhau . Cùng chỉ một vật hay một việc, mỗi miền có một
lối gọi khác nhau .
Chẳng hạn chữ “đồ” cũng có ý nghĩa khác nhau giữa hai
miền Bắc Nam
. Trong khi miền Nam ,
miền Trung dùng chữ đồ một cách hồn nhiên để chỉ về đồ vật thì người Bắc lại
dùng nó để chỉ bộ phận sinh dục của phái nữ . Vì vậy, khi thấy ba ông bạn cùng
chụp chung một tấm hình (chữ Hán gọi là đồ) với một cô đầm, ông nào ngó cũng
chễm chệ, phong lưu, Tú Xương đã ỡm ờ vịnh ngay:
Ba bác chung nhau một cái đồ
. . .
Thôi đừng chê nhỏ lại cười to !
Cùng chỉ một vật
dùng để chứa thức ăn, ở Bắc gọi là bát, Huế gọi là đọi, Nam gọi là tô . Cùng chỉ động tác rơi xuống đất vì
mất thăng bằng, người Bắc gọi là ngã, Huế gọi là bổ, Nam gọi là té .
Sự đa dạng trong
ngôn ngữ của một dân tộc là điều tự nhiên; bao giờ trong cái chung cũng có cái
riêng và thấp thoáng trong cái riêng là hình ảnh cái chung .
Hình như địa lý và
lịch sử đã kết hợp với nhau để tạo nên cho Huế một môi trường dễ làm nảy sinh
nhiều thổ âm và thổ ngữ hơn các miền khác, đến độ có người đã nói là có thể sưu
tập thành một tiểu tự điển tiếng Huế .
Trong TSH 93, qua
bài “Thử nói về ảnh hưởng cung đình trong phong
cách Huế”, tôi đã có dịp khái quát về ảnh hưởng của ngôn ngữ cung
đình trong ngôn ngữ
Huế . Điều đáng nêu lên ở đây là: tại sao tiếng Bắc, tiếng Nam không gây
trở ngại khi giao tiếp như tiếng Huế ? Ngoài giọng Huế khó nghe, như đã nói ở
trên, phải chăng vì tiếng Huế quá đặc thù ? Phải chăng vì ngôn ngữ Huế ít được
phổ biến ? Hay vì tiếng Huế khúc mắc khó hiểu ? Thiết nghĩ có lẽ do tất cả .
Người khác xứ có
thể dễ dàng quen thuộc với “răng, ri, mô, tê, rứa, hè, hí” vì tính cách phổ thông của chúng,
nhưng quả tình khó mà thông cảm với những lối nói đặc thù khác .
Tôi có anh bạn
người Nam ,
sống ở Huế khá lâu . Trong một buổi trà dư tửu hậu, anh tuyên bố rằng “Bây giờ người Huế nói cách chi tui cũng hiểu” . Nghe vậy, một anh bạn khác liền hỏi
ngay: “Thiệt hả ? Rứa thì anh có biết vụ hai đứa con ông Bảy bựa qua
ngầy lộn rồi lôi giau từ trong chờn ra trữa cươi đập chắc, một đứa bể mỏ, một
đứa u trốt. Mạ hắn can không được, đứng trữa cươi la làng như quạ quạ bẻ bắp” .
Anh bạn người Nam ngẩn tò te,
chịu thua . Đây là chìa khóa mật mã:
– Bựa qua: hôm
qua
– Lôi giau: lôi
nhau
– Ngầy lộn: gây
gỗ
– Chắc: với
nhau
– Chờn: giường
– Trữa cươi: giữa
sân
– Bể mỏ: vỡ
mồm, dập miệng
– U trốt: u
đầu
Mới chỉ có một câu
nói ngắn như vậy mà cần phải giải thích đến tám chữ mới làm cho người ngoài
hiểu được, và thực ra, đó mới chỉ là những chữ nặng về hình thức hơn ý nghĩa .
Nếu đi vào ý nghĩa
thì sự khúc mắc càng thể hiện rõ rệt hơn . Thành ngữ “tào lao xịt bộp” là một thành ngữ phổ thông ở Huế, dùng
để chỉ lời nói hay việc làm không đâu vào đâu, không có chủ đích, không ý
nghĩa, kiểu “nghe qua rồi bỏ” .
Trong một cuộc
tiếp kiến Toàn Quyền Đông Dương, Đoan Huy Hoàng Thái Hậu (mẹ vua Bảo Đại) đã
làm cho một vi quan lúng túng khi phải thông dịch câu nói rặt Huế của bà “Tôi tra rồi, ăn nói tào lao xịt bộp . . .”(Nguyễn
Đặng, TSH 93), chỉ vì ông không phải là người Huế .
“La ngầy” hay “ngầy” có
nghĩa là “la rầy” nhưng “ngầy lộn” lại có nghĩa là “gây gỗ” với nhau . “Mụ nớ” có
nghĩa là “người đàn bà kia” (không có ý kính trọng) nhưng khi một người đàn ông
được gọi là “Mụ”hay“Mệ”,
có nghĩa ông ta là người trong hoàng tộc .
Có một thực tế mà
dường như ít ai để ý . Ấy là kể từ ngày chữ quốc ngữ trở thành văn tự chính
thức, thay thế cho chữ Hán thì lối viết theo cách phát âm của người Bắc là lối
viết chính thức của nước ta .
Thực vậy, từ giấy
tờ hành chánh cho đến tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học . . . phổ biến qua
hình thức văn tự, hầu như tất cả đều được viết theo cách phát âm này . Ngoại
trừ một Hồ Biểu Chánh của hồi đầu thế kỷ và sau này có thêm Sơn Nam, Bình
Nguyên Lộc và hiện nay Hồ Trường An, là viết văn theo rặt giọng Nam, còn tất
cả, bất cứ người cầm bút thuộc lãnh vực nào, xuất thân từ địa phương nào, đều
viết theo phong thái âm giọng miền Bắc .
Bình Nguyên Lộc
viết tiểu thuyết theo giọng Nam
nhưng khi viết “Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc
Việt Nam ”,
một tác phẩm biên khảo, cũng viết theo cách phát âm miền Bắc . Số học giả, thi
sĩ, văn sĩ người Huế trong nền văn chương quốc ngữ đông biết mấy, thế nhưng
không vì vậy mà “răng, ri, mô, tê, rứa, ni, nớ
. . .” được chính
thức đi vào văn học như “sao, thế này, đâu, kia, vậy,
này, ấy . . .”
Tiếng Việt theo
cách phát âm miền Bắc hầu như đã trở thành lối viết chính thức, có lẽ do truyền
thống lập quốc và Nam
Tiến .
Trong âm nhạc, ta
cũng thấy hiện tượng tương tự . Khi hát tân nhạc, tất cả ca sĩ đều phát âm theo
giọng Bắc, bất kể người miền nào . Nhiều danh hề đã chọc cười khán giả một cách
thành công khi thỉnh thoảng hát tân nhạc theo giọng Nam . Ban AVT nhờ có Vân Sơn đệm
giọng Huế mà trở thành hài hước có duyên .
Từ thập niên 60,
một số nhà văn nữ người Huế quả có đưa tiếng Huế vào tác phẩm nhưng cũng chỉ có
tính cách mắm muối thêm duyên, kiểu như Vân Sơn đệm giọng Huế trong AVT chứ
chưa tạo được sắc thái địa phương như Hồ Biểu Chánh hay Hồ Trường An .
Giọng Bắc, giọng Nam dễ nghe, đó là lý do tại sao đồng bào miền
Bắc, miền Nam
không gặp trở ngại với người khác xứ . Trái lại, bên cạnh giọng nói thuộc về
một âm vực khó nghe, người Huế lại nói và viết không giống nhau . Thêm vào đó,
Huế lại quá phong phú thổ âm, thổ ngữ, cả về số lượng cũng như ý nghĩa .
Tất cả những cái
đó đã biến tiếng Huế trở thành “ngoại ngữ” ! Muốn hiểu rành “ngoại ngữ” đó, chỉ
có cách hãy sống với Huế . Ai không tin, thử hỏi mấy ông rể Huế, biết ngay .
Võ Hương An
(Đặc San Tiếng Sông Hương, 1994)
(Võ Hương An)
Cựu Thanh tra Giám Sát Viện Quân Khu I /VNCH
Cựu Tù nhân Chính trị Quảng Nam-Đà Nẵng)