Blog CHIA SẺ VUI BUỒN: Viết, đọc thơ văn là thú vui tao nhã. Xin chép lại nơi đây thơ văn của bè bạn, của tôi và sưu tầm những bài hay của các thi văn sĩ thành danh nổi tiếng, bên cạnh đó là những nhạc khúc, clips, hình ảnh đẹp … để chia sẻ với mọi người cùng tìm chút niềm vui. Anh Tú anhtu010168@yahoo.com.vn
2015/07/03
2015/07/02
Bạn Ta Về
Ta đưa bạn vào chùa đi lễ Phật
Bụt tưởng rằng hành khất phả hơi men
Hai đứa dập đầu rung rinh nền đất
Chắc bề trên cũng động đậy tòa sen.
Rồi chúng ta đến thánh đường xưng tội
Chuông nhà thờ đang thảnh thót ngoài sân
Mong Chúa quên tụi mình, vì… trời tối
Và Cha tha, tội lỗi kẻ phong trần.
Mấy ngày sau về vườn cây Cờ Đỏ
Uống dừa xiêm giải tỏa tấm lòng xa
Rồi cùng đến thăm người em gái nhỏ
Em lấy chồng vừa mới …mấy năm qua.
Buổi chiều qua ta cùng về Cái Tắc
Thăm bạn hiền cùng đơn vị vùng II
Bạn già khú như Xẻo Vong trầm mặc
Uống chung trà rồi lật đật chia tay.
Chắc bạn buồn nhớ thời oanh liệt cũ
Bao nhiêu năm như nước lũ xuôi dòng
Bạn bươn chải cày lưng còm lữ thứ
Ta buồn phiền như bèo phủ trên sông.
Thôi ngồi lại bên hàng hiên mái dột
Đếm cà phê từng giọt đen dịu dàng
Bà chủ quán miệng xả giao cười cợt
Bạn nhìn ta – ta bất chợt – nhìn sang !..
Dương hồng Thủy
30/06/2015
Mối tình của Đặng Thế Phong và các Ca khúc cuối đời
Ðặng Thế Phong – Tài Hoa Bạc Mệnh (1918-1942)
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
(Nguyễn Du)
Suy từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, người tài hoa là người
bạc mệnh, kẻ hồng nhan thường đa truân. Nhìn vào làng nhạc nước ta, nhạc sĩ
Đặng Thế Phong là điển hình rõ nét nhất.
Ðặng Thế Phong sinh năm 1918 tại thành phố Nam Định. Ông là con trai Đặng Hiển Thế, thông phán Sở Trước bạ Nam Định. Thân phụ ông chẳng may mất sớm, gia đình túng thiếu, ông phải bỏ học khi đang theo học năm thứ hai bậc thành chung (deuxième année primaire supérieure, nay là lớp bảy cấp hai phổ thông cơ sở). Vướng vào cái nghiệp văn nghệ từ thủa còn nhỏ nên ông đã lên Hà Nội theo học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (Ecole supérieure de Beanx Arts) với tư cách bàng thính viên (auditeur libre). Đặng Thế Phong đã thực sự lấy nghề nuôi nghiệp: thời gian theo học này, ông đã phải vẽ tranh cho báo Học Sinh (chủ báo là nhà văn Phạm Cao Củng) để có tiền ăn học. Trong một kỳ thi, ông đã vẽ một bức tranh cây cụt, không có một cành nào. Lúc nạp bài, giáo sư Tardieu, thầy dạy ông đã nói rằng có lẽ Đặng Thế Phong không thọ!
Ông đã phiêu du vào Sài Gòn rồi sang Nam Vang vào đầu năm 1941 và mở một lớp dạy nhạc tại kinh đô xứ Chùa Tháp cho đến mùa thu 1941 ông lại trở về Hà Nội.
Cũng giống như Mozart lúc sinh thời, Đặng Thế Phong là một nhạc sĩ rất nghèo, nên cuộc sống của ông chật vật. Ngoài tài làm nhạc, vẽ tranh, ông còn có giọng hát khá hay, tuy chưa được là Ténor nhưng cũng được khán giả hâm mộ. Lần đầu tiên ông lên sân khấu, hát bài Con Thuyền Không Bến tại rạp chiếu bóng Olympia (phố Hàng Da – Hà Nội) vào năm 1940, được hoan nghênh nhiệt liệt. Đặng Thế Phong là một thiên tài, nhưng vẫn không có được cuộc sống sung túc giữa cố đô Thăng Long lúc bấy giờ vì nhạc và tranh dù có hay, có đẹp đến mấy chăng nữa cũng chẳng có mấy ai mua. Thời ấy, chính quyền bảo hộ Pháp có mở một phòng triến lãm tranh tại hội Khai Trí Tiến đức, khu Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Sau lễ khai mạc được ông Đốc Lý thành phố Hà Nội đến cắt băng, người ta thấy những người đến xem tranh phần rất lớn toàn là ông Tây, bà Đầm, còn người Việt thì đúng là lơ thơ tơ liễu buông mành, nhìn kỹ thấy toàn là các quan ta, những công chức cao cấp, giới trí thức, thượng lưu chứ chẳng thấy một dân thường nào!.
Ðặng Thế Phong sinh năm 1918 tại thành phố Nam Định. Ông là con trai Đặng Hiển Thế, thông phán Sở Trước bạ Nam Định. Thân phụ ông chẳng may mất sớm, gia đình túng thiếu, ông phải bỏ học khi đang theo học năm thứ hai bậc thành chung (deuxième année primaire supérieure, nay là lớp bảy cấp hai phổ thông cơ sở). Vướng vào cái nghiệp văn nghệ từ thủa còn nhỏ nên ông đã lên Hà Nội theo học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (Ecole supérieure de Beanx Arts) với tư cách bàng thính viên (auditeur libre). Đặng Thế Phong đã thực sự lấy nghề nuôi nghiệp: thời gian theo học này, ông đã phải vẽ tranh cho báo Học Sinh (chủ báo là nhà văn Phạm Cao Củng) để có tiền ăn học. Trong một kỳ thi, ông đã vẽ một bức tranh cây cụt, không có một cành nào. Lúc nạp bài, giáo sư Tardieu, thầy dạy ông đã nói rằng có lẽ Đặng Thế Phong không thọ!
Ông đã phiêu du vào Sài Gòn rồi sang Nam Vang vào đầu năm 1941 và mở một lớp dạy nhạc tại kinh đô xứ Chùa Tháp cho đến mùa thu 1941 ông lại trở về Hà Nội.
Cũng giống như Mozart lúc sinh thời, Đặng Thế Phong là một nhạc sĩ rất nghèo, nên cuộc sống của ông chật vật. Ngoài tài làm nhạc, vẽ tranh, ông còn có giọng hát khá hay, tuy chưa được là Ténor nhưng cũng được khán giả hâm mộ. Lần đầu tiên ông lên sân khấu, hát bài Con Thuyền Không Bến tại rạp chiếu bóng Olympia (phố Hàng Da – Hà Nội) vào năm 1940, được hoan nghênh nhiệt liệt. Đặng Thế Phong là một thiên tài, nhưng vẫn không có được cuộc sống sung túc giữa cố đô Thăng Long lúc bấy giờ vì nhạc và tranh dù có hay, có đẹp đến mấy chăng nữa cũng chẳng có mấy ai mua. Thời ấy, chính quyền bảo hộ Pháp có mở một phòng triến lãm tranh tại hội Khai Trí Tiến đức, khu Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Sau lễ khai mạc được ông Đốc Lý thành phố Hà Nội đến cắt băng, người ta thấy những người đến xem tranh phần rất lớn toàn là ông Tây, bà Đầm, còn người Việt thì đúng là lơ thơ tơ liễu buông mành, nhìn kỹ thấy toàn là các quan ta, những công chức cao cấp, giới trí thức, thượng lưu chứ chẳng thấy một dân thường nào!.
Ngoài ra, thời bấy giờ chính quyền Pháp có tổ chức mở phòng
triển lãm là bảo trợ cho các hoạ sĩ Pháp trưng bày tranh của mình còn hoạ sĩ
Việt Nam
thì số người lọt được vào, ta có thể đếm trên đầu ngón tay. Đến nhạc thì nếu có
in, mỗi lần xuất bản cũng chỉ in nhiều nhất là 500 bản, dân chúng chưa yêu
chuộng nhạc cải cách (tân nhạc) nên dù có thực tài thì cũng không thể có được
một cuộc sống sung túc nếu nhờ vào sức lao động nghệ thuật!
Đặng Thế Phong phải chịu một cuộc sống khó khăn, chật vật trong “kiếp con tằm đến thác vẫn còn vương tơ” cho đến đầu năm 1942, ông từ giã cõi đời tại căn gác hẹp ở phố Hàng Đồng Nam Định vì bệnh lao màng (tuberculose péritonique), hưởng dương 24 tuổi, tuổi son trẻ, đầy thơ mộng, sắp bước vào thời xây dựng sự nghiệp (tam thập nhi lập).
Cuộc đời của Đặng Thế Phong thật quá ngắn ngủi nhưng đời sống tinh thần của ông rất phong phú và thi vị. Nhờ thế mà tuy sáng tác chỉ có ba bài: Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu nhưng bài nào cũng trở thành vĩnh cửu, qua hơn nửa thế kỷ vẫn là những bài hay nhất của làng nhạc ViệtNam . Nhạc hứng
chân thành đều phát xuất từ con tim, vì thế mà sáng tác của ông có hồn, đi vào
lòng người và sống mãi! Qua Ðặng Thế Phong, ta chứng minh được văn nghệ tính
phẩm chứ không tính lượng (quý hồ tinh bất quý hồ đa). Con người làm văn nghệ
viết được một câu để đời đã là khó, được một tác phẩm để đời là đáng mãn nguyện
lắm rồi. Với âm nhạc, người chuyên sử dụng một nhạc cụ cho thật điêu luyện được
tôn kính hơn là người biết sử dụng nhiều thứ đàn, chẳng thế nào có được một thứ
thật tuyệt hảo. Về sáng tác cũng vậy, làm cho nhiều, cố nặn cho lắm, thể điệu
nào cũng có bài thì dù viết cả ngàn bài chưa chắc đă có lấy một bài có giá trị
nghệ thuật và vĩnh cửu! Chỉ sáng tác có ba bài thôi, Đặng Thế Phong đã sống mãi
trong lòng mọi người, chắc chắn là hơn người có cả ba trăm bài mà chẳng có một
bài nào để người ta nhớ! Nói đến điều này, điển hình trong làng nhạc nước nhà,
chúng ta nhìn vào ông nhạc sĩ tiền bối Th.O, ông này là một trong số ít người
đi tiên phong trong việc sáng tác tân nhạc. Từ đó cho đến sau này, suốt hơn 40
năm, ông có một tập sáng tác khá đồ sộ, trên dưới 500 bài nhưng cho đến ngày
hôm nay không có lấy một bài nhạc nào đi vào lòng người nếu ta không muốn nói
là sáng tác của ông đã hoàn toàn bị chìm trong quên lãng! Với nghệ thuật nói
chung, âm nhạc nói riêng, muốn thành công là phải có tài năng thiên phú chứ
không thể nhờ vào thời gian, kiên nhẫn, sách vở, trường lớp hay bằng cấp mà đạt
được!
Đặng Thế Phong phải chịu một cuộc sống khó khăn, chật vật trong “kiếp con tằm đến thác vẫn còn vương tơ” cho đến đầu năm 1942, ông từ giã cõi đời tại căn gác hẹp ở phố Hàng Đồng Nam Định vì bệnh lao màng (tuberculose péritonique), hưởng dương 24 tuổi, tuổi son trẻ, đầy thơ mộng, sắp bước vào thời xây dựng sự nghiệp (tam thập nhi lập).
Cuộc đời của Đặng Thế Phong thật quá ngắn ngủi nhưng đời sống tinh thần của ông rất phong phú và thi vị. Nhờ thế mà tuy sáng tác chỉ có ba bài: Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu nhưng bài nào cũng trở thành vĩnh cửu, qua hơn nửa thế kỷ vẫn là những bài hay nhất của làng nhạc Việt
Vì thế chúng tôi dám tôn vinh Đặng Thế Phong là một thiên
tài của làng nhạc Việt, thật không ngoa.
Cuộc đời Đặng Thế Phong đã có được một mối tình thật chung thủy tuyệt đẹp: Khi còn ởNam
Định, Đặng Thế Phong đã đem lòng yêu một thiếu nữ buôn bán ở Chợ Sắt, chợ duy
nhất và lớn nhất của thành phố. Cô này không đẹp nhưng lại rất có duyên. Sau
nhiều ngày đi chơi chợ, Đặng Thế Phong đã lọt vào mắt mỹ nhân. Cặp tình nhân
trai tài, gái đảm đã dìu nhau vào cuộc tình thật trong sáng và cao thượng! Điều
đáng ca ngợi là chàng nhạc sĩ tài hoa họ Đặng không bao giờ đụng chạm đến đồng
tiền của người yêu, dù cho người đẹp, tên Tuyết, nhiều lần khôn khéo bày tỏ
lòng mình muốn giúp chàng. Những buổi chiều trời quang, mây tạnh hay gió mát,
trăng thanh, hai người đều dìu nhau trên những con đường ngoại ô để tâm tình.
Thời bấy giờ, nhiều thanh niên rất ngưỡng mộ Đặng Thế Phong, khi biết mối tình
của cặp Phong – Tuyết, đều mến trọng và tôn kính là một cuộc tình lý tưởng!
Đặc biệt nhất là mấy cô gái phố Hàng Đồng, gia đình rất khá giả tỏ lòng yêu mến Đặng Thế Phong, nhưng ông vẫn một lòng yêu cô Tuyết, dù cô không đẹp bằng mấy cô kia. Có một hôm, mấy cô kia đang đứng nói chuyện với nhau thấy Đặng Thế Phong đi qua, với lối đi có vẻ vội vã. Thấy bóng ông, mấy cô ngưng bặt, rồi chẳng cô ai bảo cô nào, tất cả ánh mắt đều hướng về ông như dán chặt vào người ông vậy. Khi Đặng Thế Phong vừa bước tới ngang chỗ các cô thì một giọng nói đầy hờn dỗi pha thêm mai mỉa, được nói lớn lên, cố ý cho Đặng Thế Phong nghe thấy:
- Mấy chị đứng dịch ra, người ta đi vội kẻo trễ hẹn !
Đặng Thế Phong nghe rõ nhưng coi như điếc, cứ rảo bước như không có gì xảy ra. Đến nơi hẹn, gặp cô Tuyết đã đứng chờ, Đặng Thế Phong kể cho cô nghe vụ vừa bị chọc ghẹo. Cô Tuyết không nói gì mà chỉ tủm tỉm cười với ánh mắt nhìn người yêu, thật là trìu mến. Về nhà, Đặng Thế Phong không nói ra với anh chị em mà thầm thì kể cho ông chú họ, cùng lứa tuổi, là ông Nguyễn Trường Thọ biết thôi . Ngoài ra, ông còn kể cho ông Thọ nghe chuyện cô Tuyết có một chàng thông phán trẻ, đẹp trai, có tiền, có địa vị, làm ở Tòa Đốc Lý thành phố theo đuổi, còn nhờ cả hai người mai mối nhưng cô nhất quyết khước từ , bất chấp cả lời dị nghị của mọi người, nhất là gia đình cố ý gán ghép.
Năm 1940, Đặng Thế Phong phải tạm xa cô Tuyết để lên Bắc Giang ít ngày. Ai đã đến Bắc Giang là biết thị xã này có con sông Thương, một con sông có hai dòng nước, bên đục, bên trong. Kẻ viết bài này, lúc bé học ở Bắc Giang, vào những ngày hè nóng bức, cùng bạn bè ra sông bơi. đứng từ trên cầu ra tháp nước khá cao, nhìn thấy rõ hai dòng nước đục trong rõ rệt !
Ở Bắc Giang, một buổi tối trăng sao vằng vặc, Đặng Thế Phong đã cùng bạn bè thuê thuyền cắm sào rồi cùng nhau chén chú, chén anh hàn huyên mọi chuyện. Đang lúc đang vui thì có người ra đưa cho Đặng Thế Phong một bao thư. Ông ngưng ngay chuyện trò và vào trong khoang, lấy bao diêm ra đốt lửa để coi thư và đây đúng là thư của cô Tuyết, từ thànhNam
gửi lên cho ông. Đọc xong thư, ông có vẻ buồn và suy nghĩ. Bạn bè thắc mắc nên
hỏi, được ông cho biết thư báo tin cô Tuyết nhuốm bệnh cả tuần rồi và nhớ ông
lung lắm nên có lẽ ông phải về Nam
Định gấp! Chính đêm này, lúc đêm sắp tàn, Đặng Thế Phong thao thức không sao
chợp mắt được, đã ngồi dậy sáng tác được tác phẩm Con Thuyền Không Bến buồn não
ruột:
Cuộc đời Đặng Thế Phong đã có được một mối tình thật chung thủy tuyệt đẹp: Khi còn ở
Đặc biệt nhất là mấy cô gái phố Hàng Đồng, gia đình rất khá giả tỏ lòng yêu mến Đặng Thế Phong, nhưng ông vẫn một lòng yêu cô Tuyết, dù cô không đẹp bằng mấy cô kia. Có một hôm, mấy cô kia đang đứng nói chuyện với nhau thấy Đặng Thế Phong đi qua, với lối đi có vẻ vội vã. Thấy bóng ông, mấy cô ngưng bặt, rồi chẳng cô ai bảo cô nào, tất cả ánh mắt đều hướng về ông như dán chặt vào người ông vậy. Khi Đặng Thế Phong vừa bước tới ngang chỗ các cô thì một giọng nói đầy hờn dỗi pha thêm mai mỉa, được nói lớn lên, cố ý cho Đặng Thế Phong nghe thấy:
- Mấy chị đứng dịch ra, người ta đi vội kẻo trễ hẹn !
Đặng Thế Phong nghe rõ nhưng coi như điếc, cứ rảo bước như không có gì xảy ra. Đến nơi hẹn, gặp cô Tuyết đã đứng chờ, Đặng Thế Phong kể cho cô nghe vụ vừa bị chọc ghẹo. Cô Tuyết không nói gì mà chỉ tủm tỉm cười với ánh mắt nhìn người yêu, thật là trìu mến. Về nhà, Đặng Thế Phong không nói ra với anh chị em mà thầm thì kể cho ông chú họ, cùng lứa tuổi, là ông Nguyễn Trường Thọ biết thôi . Ngoài ra, ông còn kể cho ông Thọ nghe chuyện cô Tuyết có một chàng thông phán trẻ, đẹp trai, có tiền, có địa vị, làm ở Tòa Đốc Lý thành phố theo đuổi, còn nhờ cả hai người mai mối nhưng cô nhất quyết khước từ , bất chấp cả lời dị nghị của mọi người, nhất là gia đình cố ý gán ghép.
Năm 1940, Đặng Thế Phong phải tạm xa cô Tuyết để lên Bắc Giang ít ngày. Ai đã đến Bắc Giang là biết thị xã này có con sông Thương, một con sông có hai dòng nước, bên đục, bên trong. Kẻ viết bài này, lúc bé học ở Bắc Giang, vào những ngày hè nóng bức, cùng bạn bè ra sông bơi. đứng từ trên cầu ra tháp nước khá cao, nhìn thấy rõ hai dòng nước đục trong rõ rệt !
Ở Bắc Giang, một buổi tối trăng sao vằng vặc, Đặng Thế Phong đã cùng bạn bè thuê thuyền cắm sào rồi cùng nhau chén chú, chén anh hàn huyên mọi chuyện. Đang lúc đang vui thì có người ra đưa cho Đặng Thế Phong một bao thư. Ông ngưng ngay chuyện trò và vào trong khoang, lấy bao diêm ra đốt lửa để coi thư và đây đúng là thư của cô Tuyết, từ thành
Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi giòng
Như nhớ thương ai trùng tơ lòng…
.. Lướt theo chiều gió
Một con thuyền theo trăng trong
Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng
Biết đâu bờ bến?
Thuyền ơi thuyền trôi nơi nao
Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu?…
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi giòng
Như nhớ thương ai trùng tơ lòng…
.. Lướt theo chiều gió
Một con thuyền theo trăng trong
Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng
Biết đâu bờ bến?
Thuyền ơi thuyền trôi nơi nao
Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu?…
Cô Tuyết cũng đáp lại lòng tri kỷ : “Là một người đàn bà tầm thường như em mà đã làm cho anh có được một bài hát thì với em đó là một vinh dự, một hạnh phúc thật cao sang, không phải ai ở trên đời cũng có được! Tình anh trao cho em thật trọn vẹn, thật bất diệt, chắc chắn không bao giờ hình ảnh anh bị phai mờ trong tim trong óc em được, bây giờ và mãi mãi..” Đến lúc ấy chị Hằng mới ló mặt ra dịu dàng nhìn xuống trần thế và chứng giám hai người yêu nhau đang đứng sát bên nhau sau khi đã uống cạn lời nói của nhau. Sau hôm ấy, Đặng Thế Phong mới cho phổ biến rất hạn chế trong đám thanh niên tỉnh nhà bài Con Thuyền Không Bến, được mọi người yêu chuộng nên rất nhiều người biết đến.
Chính vì thế mà có một người ở Hà Nội mới mời Đặng Thế Phong lên Hà Nội để hát tại rạp chiếu bóng
Hát xong, khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Sau một thời gian ở Bắc Giang, ông nhuốm bệnh. Vì lúc đó
bệnh lao là nan y nên ông dấu mọi người, ai biết đều sợ bị lây nhiễm, không
hiểu sao cô Tuyết biết được. Cô Tuyết rất tế nhị và khôn khéo hỏi Đặng Thế
Phong :
- Sao dạo này em thấy anh gầy và xanh lắm? Anh có bệnh gì không mà em thấy sút lắm? Anh đi nhà thương khám và thuốc men , cho khoẻ để mình còn tính đến tương lai !
Ông ậm ừ cho qua. Từ đó cô Tuyết âm thầm tìm mọi cách để giúp người yêu trong lúc nhà nghèo bệnh trọng. Đặng Thế Phong cũng đến nhà thương để khám bệnh. Sau khi dò hỏi, biết bệnh của ông, cô Tuyết nhân quen với một số y sĩ (médecin indochinois) làm ở nhà thương, mua thuốc rồi nhờ ông ta nhận là thuốc của nhà thương ông lấy cho Đặng Thế Phong. Thuốc bệnh lao lúc ấy vừa hiếm lại vừa đắt, cô Tuyết không những không ngại tốn kém, mà còn thường xuyên gặp Phong để săn sóc một cách kín đáo, kể cả không sợ bị lây. Về phần Đặng Thế Phong thì ông không hề biết thuốc là của cô Tuyết mua cho mình. Trong các cuộc ao đẹp của văn nghệ sĩ nước nhà, có hai nữ lưu đáng để người đời ca tụng : cô Tuyết biết người yêu bị bệnh nan y, rất dễ lây, Mộng Cầm biết Hàn Mặc Tử bị bệnh phong cùi, vừa ghê sợ vừa dễ lây thế mà hai ngườí đã có tình yêu chân thật, chung thủy, không những không sợ mà còn hết lòng chăm sóc,thuốc men cho đến ngày tử biệt! Thật hiếm hoi và cao quý vô cùng
Mùa xuân năm 1941, cô Tuyết cùng Phong từ Nam Định lên Hà Nội để tiễn chân và tạm biệt Đặng Thế Phong vào Sài Gòn (rồi đi Nam Vang). Ở kinh đô xứ Chùa Tháp, ở Hòn Ngọc Viễn đông một thời gian thấy cuộc sống cũng không được thoải mái như ý mong muốn, Đặng Thế Phong trở về Hà Nội. Về lần này, Đặng Thế Phong không vềNam Định mà
thuê một căn gác hẹp tường cây, mái lá ở làng trồng hoa Ngọc Hà, vùng ngoại ô
thành phố Hà Nội. Đặng Thế Phong ở chung với chú là ông Nguyễn Trường Thọ. Bệnh
tình Đặng Thế Phong tái phát ngày một nặng vì người bị bệnh này phải mua thuốc
men đầy đủ, phải nghỉ ngơi và ăn uống tẩm bổ tối đa mà những điều phải ắt có và
đầy đủ này, với Đặng Thế Phong không thể có được. Chính vì thế mà không tuần
nào là cô Tuyết không lên thăm và lo chữa bệnh cho Đặng Thế Phong.
Tháng Bảy mưa ngâu tầm tã, rả rích suốt ngày này sang ngày nọ, tháng này qua tháng khác, gió lạnh kéo về, nhà thì tường cây, mái lá, lạnh buốt lọt xương, cuộc sống kham khổ khiến bệnh tình Đặng Thế Phong ngày càng trầm trọng. Từng cơn ho làm rũ người, tiếp đến những cơn thổ huyết làm cho Đặng Thế Phong ngày một sút hẳn đi. Một mình trên giường bệnh, Đặng Thế Phong nhớ gia đình thì ít mà nhớ người yêu thì nhiều. Thân xác thì bệnh tật khó qua, tâm trí thì luôn luôn phải vật lộn với trăm ngàn ý nghĩ và hình ảnh cuộc tình tươi đẹp nên bệnh mỗi lúc một tăng.
Còn đâu những cuộc hẹn hò thơ mộng, quên làm sao được những lời thủ thỉ ân tình và hy vọng gì ở những ước vọng được thành đôi chim nhạn tung trời mà bay, tất cả đã được Đặng Thế Phong ngày đêm day dứt, tiếc thương, muốn níu kéo lại thì cũng chẳng còn gì để bám víu!
Đặng Thế Phong đã mang lấy nghiệp vào thân thì đời con tằm đến thác cũng còn vương tơ, tránh sao thoát khỏi cái lưới trời thưa mà khó lọt ấy ? Chính vì lẽ ấy mà Đặng Thế Phong đã thực sự thể hiện được câu các cụ đã dạy cọp chết để da, người ta chết để tiếng, dù cuộc đời ông ngắn ngủi với 24 mùa lá rụng, một cuộc đời ngắn đến nổi đo chửa đầy gang!
Thế rồi, một hôm mưa rơi tầm tã, giọt mưa lộp bộp trên mái lá, thánh thót từng giọt xuống đường, Đặng Thế Phong buồn quá, con tim như thắt lại, máu trào lên để có được một nhạc hứng lai láng, tràn trề khiến ông gượng ngồi dậy viết một hơi điệu nhạc buồn da diết, não nề. Ông viết xong bèn đặt tên cho sáng tác mới ấy là Vạn Cổ Sầu. Chập tối ông Thọ về có thêm dăm người bạn đến thăm, Đặng Thế Phong ôm đàn hát cho mọi người nghe. Nét mặt của mọi người nín thở nghe, đều buồn như muốn khóc. Nghe xong, ai nấy đều khen bài hát thật hay, xoáy vào tim vào óc nhưng cái tên bài bi thảm quá, nên sửa lại thì hơn. Chính vì thế mà Đặng Thế Phong, đổi tên là Giọt Mưa Thu.
- Sao dạo này em thấy anh gầy và xanh lắm? Anh có bệnh gì không mà em thấy sút lắm? Anh đi nhà thương khám và thuốc men , cho khoẻ để mình còn tính đến tương lai !
Ông ậm ừ cho qua. Từ đó cô Tuyết âm thầm tìm mọi cách để giúp người yêu trong lúc nhà nghèo bệnh trọng. Đặng Thế Phong cũng đến nhà thương để khám bệnh. Sau khi dò hỏi, biết bệnh của ông, cô Tuyết nhân quen với một số y sĩ (médecin indochinois) làm ở nhà thương, mua thuốc rồi nhờ ông ta nhận là thuốc của nhà thương ông lấy cho Đặng Thế Phong. Thuốc bệnh lao lúc ấy vừa hiếm lại vừa đắt, cô Tuyết không những không ngại tốn kém, mà còn thường xuyên gặp Phong để săn sóc một cách kín đáo, kể cả không sợ bị lây. Về phần Đặng Thế Phong thì ông không hề biết thuốc là của cô Tuyết mua cho mình. Trong các cuộc ao đẹp của văn nghệ sĩ nước nhà, có hai nữ lưu đáng để người đời ca tụng : cô Tuyết biết người yêu bị bệnh nan y, rất dễ lây, Mộng Cầm biết Hàn Mặc Tử bị bệnh phong cùi, vừa ghê sợ vừa dễ lây thế mà hai ngườí đã có tình yêu chân thật, chung thủy, không những không sợ mà còn hết lòng chăm sóc,thuốc men cho đến ngày tử biệt! Thật hiếm hoi và cao quý vô cùng
Mùa xuân năm 1941, cô Tuyết cùng Phong từ Nam Định lên Hà Nội để tiễn chân và tạm biệt Đặng Thế Phong vào Sài Gòn (rồi đi Nam Vang). Ở kinh đô xứ Chùa Tháp, ở Hòn Ngọc Viễn đông một thời gian thấy cuộc sống cũng không được thoải mái như ý mong muốn, Đặng Thế Phong trở về Hà Nội. Về lần này, Đặng Thế Phong không về
Tháng Bảy mưa ngâu tầm tã, rả rích suốt ngày này sang ngày nọ, tháng này qua tháng khác, gió lạnh kéo về, nhà thì tường cây, mái lá, lạnh buốt lọt xương, cuộc sống kham khổ khiến bệnh tình Đặng Thế Phong ngày càng trầm trọng. Từng cơn ho làm rũ người, tiếp đến những cơn thổ huyết làm cho Đặng Thế Phong ngày một sút hẳn đi. Một mình trên giường bệnh, Đặng Thế Phong nhớ gia đình thì ít mà nhớ người yêu thì nhiều. Thân xác thì bệnh tật khó qua, tâm trí thì luôn luôn phải vật lộn với trăm ngàn ý nghĩ và hình ảnh cuộc tình tươi đẹp nên bệnh mỗi lúc một tăng.
Còn đâu những cuộc hẹn hò thơ mộng, quên làm sao được những lời thủ thỉ ân tình và hy vọng gì ở những ước vọng được thành đôi chim nhạn tung trời mà bay, tất cả đã được Đặng Thế Phong ngày đêm day dứt, tiếc thương, muốn níu kéo lại thì cũng chẳng còn gì để bám víu!
Đặng Thế Phong đã mang lấy nghiệp vào thân thì đời con tằm đến thác cũng còn vương tơ, tránh sao thoát khỏi cái lưới trời thưa mà khó lọt ấy ? Chính vì lẽ ấy mà Đặng Thế Phong đã thực sự thể hiện được câu các cụ đã dạy cọp chết để da, người ta chết để tiếng, dù cuộc đời ông ngắn ngủi với 24 mùa lá rụng, một cuộc đời ngắn đến nổi đo chửa đầy gang!
Thế rồi, một hôm mưa rơi tầm tã, giọt mưa lộp bộp trên mái lá, thánh thót từng giọt xuống đường, Đặng Thế Phong buồn quá, con tim như thắt lại, máu trào lên để có được một nhạc hứng lai láng, tràn trề khiến ông gượng ngồi dậy viết một hơi điệu nhạc buồn da diết, não nề. Ông viết xong bèn đặt tên cho sáng tác mới ấy là Vạn Cổ Sầu. Chập tối ông Thọ về có thêm dăm người bạn đến thăm, Đặng Thế Phong ôm đàn hát cho mọi người nghe. Nét mặt của mọi người nín thở nghe, đều buồn như muốn khóc. Nghe xong, ai nấy đều khen bài hát thật hay, xoáy vào tim vào óc nhưng cái tên bài bi thảm quá, nên sửa lại thì hơn. Chính vì thế mà Đặng Thế Phong, đổi tên là Giọt Mưa Thu.
Có lẽ đây là cái điềm báo trước, là lời di chúc tạ từ nên
Đặng Thế Phong lấy mưa ngâu, mùa mưa là giòng nước mắt tuôn chảy lênh láng của
Chức Nữ với Ngưu Lang để ví cuộc tình Phong – Tuyết cũng phải cùng chung số
phận phũ phàng giống vậy chăng ? Đến một ngày cuối năm 1941, biết mình khó qua
khỏi lưỡi hái của tử thần, Đặng Thế Phong mới ngỏ ý trở về Nam Định để được
chết tại quê nhà và muốn ông Thọ dìu ông về.
Về nhà, lần này cô Tuyết đích thân đến hàng ngày để chăm sóc, thuốc men cho Đặng Thế Phong, không ngại mệt mỏi và không sợ nguy hiểm đến bản thân mình. Những người quen biết đến thăm, thấy cảnh ấy đều mũi lòng và khâm phục lẫn mến thương cuộc tình cao quý, chung thủy của cặp Phong -Tuyết.
Không biết có phải là tại thần giao cách cảm hay không mà một hôm, nhạc sĩ Bùi Công Kỳ đột nhiên từ Hà Nội về Nam Định thăm Đặng Thế Phong lại vừa đúng lúc Đặng Thế Phong sắp lìa đời. Trên giường bệnh, phút lâm chung, không nói gì được với nhau, Bùi Công Kỳ ôm đàn hát cho Đặng Thế Phong nghe một lần chót bài Giọt Mưa Thu. Giọng hát Bùi Công Kỳ vừa dứt thì mọi người nhìn thấy Đặng Thế Phong mở cặp mắt nhìn như ngỏ lời chào vĩnh biệt rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng.
Một vì sao Bắc Đẩu của làng nhạc ViệtNam , vừa ló dạng trên bầu trời đã
vụt tắt gây niềm xúc động mãnh liệt và niềm thương tiếc vô bờ trong lòng mọi
người ! Trong tang lễ, nam nữ thanh niên của thành Nam đã lũ lượt kéo nhau đi , chật
cả phố phường để tiễn đưa Đặng nhạc sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng với rất nhiều
cặp mắt rưng rưng lệ ! Cô Tuyết xin phép và được cả hai gia đình cho, mặc đại
tang, đúng như một người vợ trong tang lễ chồng, thật là cảm động.
Năm 1960, tại Phú Nhuận, tôi được tiếp một thiếu phụ chưa hề quen biết. Sau lời chào hỏi, bà tự giới thiệu tên là Tuyết, ngườiNam
Định, di cư vào Nam
hiện ở Ban Mê Thuột. Nhân lần vô tình đọc trên báo Tự Do, thấy quảng cáo trước
cuốn Nhạc Sĩ Danh Tiếng Hiện Đại (tập II) của tôi sắp xuất bản, viết về năm
nhạc sĩ trong đó có Đặng Thế Phong, nên bà về gặp tôi để xin tôi cho bà mượn
hình của cố nhạc sĩ, chụp lại để về thờ. Trước kia, bà đã có nhưng lúc sắp di
cư tấm ảnh đó bị thất lạc, kiếm mãi không sao thấy. Tôi vội lấy ảnh đưa ngay.
Cậu cháu đi theo bà mang ngay ra tiệm hình ở đầu hẻm chụp gấp lấy ngay, xong
trở vào gửi trả lại tôi. Trong lúc cậu cháu đi chụp hình, tôi có hỏi bà về
chuyện tình tươi đẹp như bài thơ, trong sáng như trăng mười sáu thì bà Tuyết
xác nhận những điều tôi biết là đúng và còn bổ sung cho tôi thêm ít nhiều chi
tiết. Bà cũng không quên nói lên điều thắc mắc là tại sao tôi biết rõ thế ? Tôi
nói thật ngay là được ông chú Nguyễn Trường Thọ cho tôi mượn ảnh, kể rành rẽ
cuộc đời ái tình của Đặng Thế Phong cho tôi nghe. Bà cười và nói:
- Chú Thọ tuy là chú nhưng cùng tuổi với anh Phong, nên hai người vừa là chú cháu vừa có tính bạn bè, nên trong gia đình chỉ có chú Thọ là được anh Phong tâm sự mà thôi. Thảo nào ông biết quá rõ, quá đúng và quá đủ !
Sau lời cám ơn và trước khi ra về, bà Tuyết còn nói với tôi câu cuối cùng, đến nay đã 35 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ :
- Cho đến ngày hôm nay, và mãi mãi về sau, tôi tôn thờ anh Phong và đời tôi luôn luôn thương nhớ anh ấy với tất cả cái gì trân trọng nhất.
Viết ra những giòng trên đây, tôi xin được phép coi là nén hương lòng, suy tôn một bậc đàn anh khả kính và khả ái. Tuy anh đã ra người thiên cổ hơn nửa thế kỷ rồi nhưng những Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu vẫn là những vì sao tinh tú sáng rực trên bầu trời ca nhạc. Thể xác anh có thể trở về hư không nhưng tinh anh vẫn còn lại muôn đời với giang sơn gấm vóc này. Cuộc đời con người ta, sinh ký, tử quy đó là luật muôn đời của tạo hoá. Nhưng khi sống cho ra sống, lúc về được qua Khải Hoàn Môn, khi cất ba tiếng khóc chào đời, mọi người hân hoan cười mừng đón ta, khi nhoẻn miệng cười để lìa đời, mọi người thương tiếc khóc ta, thế mới thật là sống, mới đáng sống ! Anh đã vĩnh viễn ra đi nhưng tất cả những thế hệ hậu sinh, dù chưa được biết anh, khi hát những bài hát bất hủ của anh để lại, đều tưởng nhớ đến anh, một thiên tài mà ta có thể nói anh là một MOZART của ViệtNam ,
với tất cả tấm lòng kính mến trang trọng nhất !
Tôi cả tin rằng, dưới suối vàng. anh cũng có thể mỉm cười mãn nguyện. Hiển linh, anh về chứng giám và nhận cho nén tâm nhang này.
Về nhà, lần này cô Tuyết đích thân đến hàng ngày để chăm sóc, thuốc men cho Đặng Thế Phong, không ngại mệt mỏi và không sợ nguy hiểm đến bản thân mình. Những người quen biết đến thăm, thấy cảnh ấy đều mũi lòng và khâm phục lẫn mến thương cuộc tình cao quý, chung thủy của cặp Phong -Tuyết.
Không biết có phải là tại thần giao cách cảm hay không mà một hôm, nhạc sĩ Bùi Công Kỳ đột nhiên từ Hà Nội về Nam Định thăm Đặng Thế Phong lại vừa đúng lúc Đặng Thế Phong sắp lìa đời. Trên giường bệnh, phút lâm chung, không nói gì được với nhau, Bùi Công Kỳ ôm đàn hát cho Đặng Thế Phong nghe một lần chót bài Giọt Mưa Thu. Giọng hát Bùi Công Kỳ vừa dứt thì mọi người nhìn thấy Đặng Thế Phong mở cặp mắt nhìn như ngỏ lời chào vĩnh biệt rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng.
Một vì sao Bắc Đẩu của làng nhạc Việt
Năm 1960, tại Phú Nhuận, tôi được tiếp một thiếu phụ chưa hề quen biết. Sau lời chào hỏi, bà tự giới thiệu tên là Tuyết, người
- Chú Thọ tuy là chú nhưng cùng tuổi với anh Phong, nên hai người vừa là chú cháu vừa có tính bạn bè, nên trong gia đình chỉ có chú Thọ là được anh Phong tâm sự mà thôi. Thảo nào ông biết quá rõ, quá đúng và quá đủ !
Sau lời cám ơn và trước khi ra về, bà Tuyết còn nói với tôi câu cuối cùng, đến nay đã 35 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ :
- Cho đến ngày hôm nay, và mãi mãi về sau, tôi tôn thờ anh Phong và đời tôi luôn luôn thương nhớ anh ấy với tất cả cái gì trân trọng nhất.
Viết ra những giòng trên đây, tôi xin được phép coi là nén hương lòng, suy tôn một bậc đàn anh khả kính và khả ái. Tuy anh đã ra người thiên cổ hơn nửa thế kỷ rồi nhưng những Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu vẫn là những vì sao tinh tú sáng rực trên bầu trời ca nhạc. Thể xác anh có thể trở về hư không nhưng tinh anh vẫn còn lại muôn đời với giang sơn gấm vóc này. Cuộc đời con người ta, sinh ký, tử quy đó là luật muôn đời của tạo hoá. Nhưng khi sống cho ra sống, lúc về được qua Khải Hoàn Môn, khi cất ba tiếng khóc chào đời, mọi người hân hoan cười mừng đón ta, khi nhoẻn miệng cười để lìa đời, mọi người thương tiếc khóc ta, thế mới thật là sống, mới đáng sống ! Anh đã vĩnh viễn ra đi nhưng tất cả những thế hệ hậu sinh, dù chưa được biết anh, khi hát những bài hát bất hủ của anh để lại, đều tưởng nhớ đến anh, một thiên tài mà ta có thể nói anh là một MOZART của Việt
Tôi cả tin rằng, dưới suối vàng. anh cũng có thể mỉm cười mãn nguyện. Hiển linh, anh về chứng giám và nhận cho nén tâm nhang này.
Lê Hoàng Long
Nguồn:
http://vanthonhactrieuchau.blogspot.com/2015/01/moi-tinh-cua-ang-phong-va-cac-ca-khuc.html
2015/06/30
Bạn Ta Về
Ta đưa bạn vào chùa đi lễ Phật
Bụt tưởng rằng hành khất phả hơi men
Hai đứa dập đầu rung rinh nền đất
Chắc bề trên cũng động đậy tòa sen.
Rồi chúng ta đến thánh đường xưng tội
Chuông nhà thờ đang thảnh thót ngoài sân
Mong Chúa quên tụi mình, vì… trời tối
Và Cha tha, tội lỗi kẻ phong trần.
Mấy ngày sau về vườn cây Cờ Đỏ
Uống dừa xiêm giải tỏa tấm lòng xa
Rồi cùng đến thăm người em gái nhỏ
Em lấy chồng vừa mới …mấy năm qua.
Rồi chiều qua ta cùng về Cái Tắc
Thăm bạn hiền cùng đơn vị vùng II
Bạn già khú như Xẻo Vong trầm mặc
Uống chung trà rồi lật đật chia tay.
Chắc bạn buồn nhớ thời oanh liệt cũ
Bao nhiêu năm như nước lũ xuôi dòng
Bạn bươn chải cày lưng còm lữ thứ
Ta buồn phiền như bèo phủ trên sông.
Thôi ngồi lại bên hàng hiên mái dột
Đếm cà phê từng giọt đen dịu dàng
Bà chủ quán miệng xả giao cười cợt
Bạn nhìn ta – ta bất chợt – nhìn sang !..
Dương hồng Thủy
(30/06/2015)
THẾ LÀ ...
Thế là
bảy mươi năm rồi
từ khi nước lớn ngày rằm tháng năm
màu son phù sa cuồn cuộn chảy vào con sông nhỏ An Lương.
Thế là
bảy mươi mùa hè trôi qua vùng trời đằm thắm.
Thế là
bảy mươi năm Thượng Đế ân sủng ban cho tôi rồi nỡ lòng lấy lại một tình ngun ngút yêu thương.
Thế là
bảy mươi năm qua có nhiều năm tôi "như lầm lũi đi trong trí nhớ" từng bước chập chờn bên dòng sông con, quê mùa nhưng sâu rộng tợ đại dương.
Thế là
bảy mươi năm rồi
từ khi nước lớn ngày rằm tháng năm
màu son phù sa cuồn cuộn chảy vào con sông nhỏ An Lương.
Thế là
bảy mươi mùa hè trôi qua vùng trời đằm thắm.
Thế là
bảy mươi năm Thượng Đế ân sủng ban cho tôi rồi nỡ lòng lấy lại một tình ngun ngút yêu thương.
Thế là
bảy mươi năm qua có nhiều năm tôi "như lầm lũi đi trong trí nhớ" từng bước chập chờn bên dòng sông con, quê mùa nhưng sâu rộng tợ đại dương.
Thế là
bảy mươi năm gặm nhấm,
dẫu không là mỗi ngày, sự xót xa vì thiếu thốn một điều vĩ đại trong đời.
Và hôm nay chân vẫn còn bước nơi xa cách dòng sông cũ nửa vòng trái đất, lạc lõng những bước chơi vơi!
Và hôm nay chân vẫn còn bước nơi xa cách dòng sông cũ nửa vòng trái đất, lạc lõng những bước chơi vơi!
Chơi vơi tự hỏi còn bao lần được nói thêm “Thế là bảy mươi …(mốt) (hai) (ba)” ?
Cha ơi!
Thế là bảy mươi năm rồi từ Cha bỏ con đi xa !
Anh Tú
June 30, 2015
Cha ơi!
Thế là bảy mươi năm rồi từ Cha bỏ con đi xa !
Anh Tú
June 30, 2015
2015/06/27
Bửa trưa về êm ả nước đẩy đưa
Cùng nhau đi mò tôm, xúc hến
Mình có nhau
Đâu cần biết những ngày mưa
Anh vẫn nhớ
Anh vẫn nhớ
Mái nhà xiêu vẹo
Run rẩy nghiêng tháng tám buổi triều cường
Che thân phận, những mảnh đời cơ cực
Năm tháng qua rồi
Sao cái lạnh mãi còn vương?
Anh vẫn nhớ
Anh vẫn nhớ
Con đường mù bụi đỏ
Hàng chuối non vàng đốm lá ven đường
Gió chiều về ngược đường xe đạp chạy
Tóc em trôi từng sợi nhớ sợi thương
Anh vẫn nhớ
Anh vẫn nhớ
Cánh diều chiều no gió
Lả lơi bay trong xanh thẳm nền trời
Sao bình yên,sao nhẹ nhàng, thanh thản quá!
Có cái gì còn lắng đọng trong Tôi ?
Anh vẫn nhớ
Tiếng gà gọi sáng
Tia nắng hồng soi kẻ lá rung rinh
Tiếng chim hót rơi trên cành mận trắng
Anh đưa tay đón từng giọt bình minh
Anh vẫn nhớ
Anh vẫn nhớ
Con đường ươm vàng bông hoàng hậu
Chiều bâng quơ
Nắng đậu cháy hồn ai
Chút rạo rực ùa theo làn gió thoảng nụ hôn xưa còn đọng lại bờ môi
Nguyễn Văn In
21/5/15
2015/06/26
Theo Anh Về Quê*
Theo anh về viếng miền đồng nội
Thơm ngát hương quê mỗi tấc đường
Thoang thoảng tình anh theo gió mát
Trao tim em vị ngọt yêu thương.
Đường đất lượn ven con rạch nhỏ
Hai lề cỏ dại mượt mà tươi
Cầu tre lắc lẻo năm ba chiếc
Chào đón gót hoa… kẽo kẹt cười.
Vườn tược nhà anh đang héo hắt
Ảnh Trương Phú |
Thơm ngát hương quê mỗi tấc đường
Thoang thoảng tình anh theo gió mát
Trao tim em vị ngọt yêu thương.
Đường đất lượn ven con rạch nhỏ
Hai lề cỏ dại mượt mà tươi
Cầu tre lắc lẻo năm ba chiếc
Chào đón gót hoa… kẽo kẹt cười.
Vườn tược nhà anh đang héo hắt
Cần người chăm sóc để
xanh tươi
Em xin tình nguyện làm
thôn nữ
Để tháng ngày trôi
vang tiếng cười.
Anh Tú
6/26/15
*Thương quá một vùng đất đầy ắp tình tự quê hương với những kỷ niệm ngọt ngào về ông bà cha mẹ bạn bè và những người từ nơi khác đến viếng rồi tình nguyện ở lại.
2015/06/25
2015/06/23
Tìm Đâu?
Bạn thân,
Mình biết bạn vẫn còn đau. Làm sao giúp bạn đây? An ủi bạn cũng thế: tiếp tục nhớ thương...Càng nhớ càng đau. Chả lẽ cứ mãi thế này. Thôi thì mình làm cho bạn đau, đau thêm cho mau hết "nỗi đau". Để khi "nỗi đau" hết, bạn mới tiếp tục sống bình thường quảng đời còn lại mà thượng đế biếu bạn.Trong ý đó tặng bạn bài thơ nôm na sau đây:
Mình biết bạn vẫn còn đau. Làm sao giúp bạn đây? An ủi bạn cũng thế: tiếp tục nhớ thương...Càng nhớ càng đau. Chả lẽ cứ mãi thế này. Thôi thì mình làm cho bạn đau, đau thêm cho mau hết "nỗi đau". Để khi "nỗi đau" hết, bạn mới tiếp tục sống bình thường quảng đời còn lại mà thượng đế biếu bạn.Trong ý đó tặng bạn bài thơ nôm na sau đây:
Tìm Đâu?
Tìm đâu
những buổi hẹn
hò
Xinê picnic để dò lòng
nhau
Gởi trao lời nói ngọt
ngào
Đuôi mắt liếc xéo làm
xao lòng này
Tìm đâu
len lén nắm tay
Tỏ lòng tha thiết đắm
say men tình
Mừng khi em vẫn làm
thinh
Ngồi im …làm bộ ngắm
nhìn trời cao
Tìm đâu
năm tháng bên
nhau
Đấp xây hạnh phúc muôn
màu ái ân
Em ngã anh đưa tay
nâng
Anh buồn em vội bâng
khuâng chia cùng
Âm dương là nỗi hãi hùng
Không còn hy vọng
trùng phùng nữa đâu
Gục đầu gặm nhấm khổ đau
Nước mắt đã cạn mà sao
còn sầu?
Anh Tú
22/6/2015
2015/06/21
Thềm Bâng Khuâng*
Sương đêm còn bám lá cành
Nắng mai chiếu rực
long lanh hạt vàng
Vài con bướm nhỏ lướt
sang
Vườn hoa cỏ dại nhẹ nhàng
cánh bay.
Loay hoay với phút giây ngày
Tháng năm thế kỷ lung
lay cõi lòng
Bạn bè xa vắng càng đông
Riêng mình ngất ngưởng ngóng mong sáng, chiều.
Vật vờ giấc ngủ tịch liêu
Đếm từng tíc tắc nghe đìu hiu đêm
Hết rồi thuở mộng êm đềm
Hương thừa đọng vết... thơm“Thềm
Bâng Khuâng”!
Anh Tú
Father Day 21/6/2015
*Hoạ Bên Thềm Bâng Khuâng của Yên Dạ Thảo:
http://anhtuvaban.blogspot.com/2015/06/ben-them-bang-khuang-liu-lo-chim-hot.html
http://anhtuvaban.blogspot.com/2015/06/ben-them-bang-khuang-liu-lo-chim-hot.html
Bên Thềm Bâng Khuâng
Líu lo chim hót trên cành
Vườn xanh, cỏ biếc, long lanh nắng vàng
Giao mùa gió ấm thổi sang
Sáng xuân êm ả, nhẹ nhàng mây bay...
Tháng Năm gợi nhớ chuỗi ngày
Đầu xuân viễn xứ buồn lay vào lòng
Đi trên phố lạ người đông
Hồn nghe trống vắng, mênh mông đường chiều!
Ai đan mây tím cô liêu
Rót sương lên lá cho đìu hiu đê
Ai mang thương nhớ êm đềm
Gởi hương gió nhặt sang thềm bâng khuâng!
Yên Dạ Thảo
16/05/2015
Vườn xanh, cỏ biếc, long lanh nắng vàng
Giao mùa gió ấm thổi sang
Sáng xuân êm ả, nhẹ nhàng mây bay...
Tháng Năm gợi nhớ chuỗi ngày
Đầu xuân viễn xứ buồn lay vào lòng
Đi trên phố lạ người đông
Hồn nghe trống vắng, mênh mông đường chiều!
Ai đan mây tím cô liêu
Rót sương lên lá cho đìu hiu đê
Ai mang thương nhớ êm đềm
Gởi hương gió nhặt sang thềm bâng khuâng!
Yên Dạ Thảo
16/05/2015
Lặng Buồn*
Mưa trong nắng, tháng
năm âm
Rây không ướt đất mà
thâm tình đầy
Bóng Cha trên đỉnh cao
dày
Lòng Mẹ sâu rộng tràn
đầy biển Đông.
Mưa thành dòng
Gió rung mây
Chớp giật
Lá bay!
Đau đầu cây, gốc cỏ,
hoa rơi chưa kịp nở…
Đêm ngồi lặng
Khói hương lay
Chợt trong khoé mắt
nồng cay bỗng nhiều!
Phong Tâm
20.6.2015
*Cảm tác từ Mưa Lâm Râm của Anh Tú:
Mưa Hà Tiên?
Ảnh: Nguyễn Lệ Thủy |
Anh còn nhớ khi mưa đầu mùa đến
Em dịu dàng trong chiếc nón che mưa
Giọt mưa mong manh mang bao trìu mến
Mưa mải đi cho anh nhớ chuyện xưa..
Giờ Paris sương mù mưa không đến
Anh mải tìm dù giọt nước công viên !!
Vườn Lục Xâm nước phun mây giăng tím
Mắt anh mờ vì nước hay mưa Hà Tiên ??!!
Trần Văn Mãnh
Paris matin 19/06/2015
2015/06/19
Mưa Lâm Râm
Mưa lâm râm sáng tối lê thê
Hoa xuân muộn tả tơi từng cánh
Mây xám màn che nắng não nề.
Cơn gió giật cây run lá rẩy
Cơn gió giật cây run lá rẩy
Mưa miên man ướt đẫm hồn tôi
Mù xa dĩ vãng quay về lại
Ngày ấy tuổi thơ sớm cúc côi.
Âm lịch tháng năm rằm nước nhảy
Trăng tròn mà ánh sáng nhòa soi
Cha đi lặng lẽ về miền lạnh
Cha đi lặng lẽ về miền lạnh
Mẹ tủi đau buồn kiếp lẻ loi.
Thái Sơn nơi chốn nào không biết
Chỉ biết công cha tợ Thái Sơn
Nước chảy từ nguồn là nghĩa mẹ
Muôn đời phụ mẫu đại công ơn.
Anh Tú
Nhân Father Day
21/6/2015
21/6/2015
2015/06/18
Hạ Về
Ta gửi cho em một cành
phượng tím,
để báo tin mùa xuân đã
ra đi.
Mái trường yêu bao
tháng ngày nhộn nhịp,
chừ bạn bè sắp sửa nói
chia ly.
Thôi hãy tạm quên
những chồng sách vở,
để đón nắng hè rực rỡ
muôn phương.
Tận hưởng đi em tuổi
ngọc thiên đường.
Ta ngơ ngẩn tiếc
thương hồn thơ dại!
Hồ Thị Kim Hoàn
Mùa hạ 1997
Mùa hạ 1997
2015/06/15
Những Bài Thơ Xướng Họa theo "hiệu ứng dây chuyền"
Từ một bài thơ Anh Vẫn Là Anh...?của Yên Dạ Thảo,
( xin xem lại tại:
như là bài khởi xướng, chúng tôi ba người gồm Anh Tú, Nguyễn Phúc Hậu và Phan Lương có những bài xướng/họa/cảm tác với nhau, xin chia sẻ sau đây:
-1-
CHẲNG LÀ TÔI CỦA THUỞ NÀO
(Họa từ Anh Vẫn Là Anh...? /YDT)
Tôi chẳng là tôi của thuở nào
Tựa mùa thu úa đón đông sầu
Như ngày xuân cuối vào hè chết
Nghe tiếng ve buồn khóc thuở nao!
Tôi chẳng là tôi những lúc xưa
Nay hay héo hắt lúc nhìn mưa
Chập chờn giấc ngủ đêm quạnh quẽ
Thơ thẩn thả hồn theo gió thưa!
Như ngày xuân cuối vào hè chết
Nghe tiếng ve buồn khóc thuở nao!
Tôi chẳng là tôi những lúc xưa
Nay hay héo hắt lúc nhìn mưa
Chập chờn giấc ngủ đêm quạnh quẽ
Thơ thẩn thả hồn theo gió thưa!
Anh Tú
June 15, 2012
June 15, 2012
TÔI VẪN LÀ TÔI
(Cảm tác từ Chẳng Là Tôi Của Thuở Nào/Anh Tú)
Tôi vẫn là tôi của thuở nào
Sáu lăm bảy chục có là bao.
Thời gian vô cảm không dừng lại
Tôi vẫn song hành cứ bước theo.
Nắm giữ chuỗi ngày dài hạnh phúc
Xua đi sầu khổ lẫn thương đau.
Vui với gió trăng niềm bất tận
Sáu lăm bảy chục có là bao.
Thời gian vô cảm không dừng lại
Tôi vẫn song hành cứ bước theo.
Nắm giữ chuỗi ngày dài hạnh phúc
Xua đi sầu khổ lẫn thương đau.
Vui với gió trăng niềm bất tận
Mặc cho ngày tháng có qua mau.
Nguyễn Phúc Hậu
14/6/2015
14/6/2015
TÔI CHƯA NGỘ ĐẠO
Mừng cho người bạn của ngày nào
Đạt đạo sống đời vui xiết bao
Vẫn biết hữu sinh thì hữu diệt
Buồn chi sống chết vốn cùng theo
Nhưng người tựa thể như dòng nước
Ròng lớn so cùng vui với đau
Khi thẩn thơ như khi hạnh phúc
Theo ngày bình thản lại trôi mau.
Đạt đạo sống đời vui xiết bao
Vẫn biết hữu sinh thì hữu diệt
Buồn chi sống chết vốn cùng theo
Nhưng người tựa thể như dòng nước
Ròng lớn so cùng vui với đau
Khi thẩn thơ như khi hạnh phúc
Theo ngày bình thản lại trôi mau.
Anh Tú
15/6/2015
TÔI CHẲNG LÀ TÔI
Tôi chẳng là tôi của năm xưa
Thường hay mơ mộng lúc nhìn mưa
Ghét căm cơn gió lùa mưa ướt
Mái tóc mây buồn chải lược thưa.
Tôi chính là tôi của bây giờ
Thường hay mơ mộng lúc nhìn mưa
Ghét căm cơn gió lùa mưa ướt
Mái tóc mây buồn chải lược thưa.
Tôi chính là tôi của bây giờ
Chẳng còn rong ruổi với mộng mơ
Giả từ trường lớp , hè trong mắt.
Nỗi buồn đan sợi dệt vần thơ
Phan Lương
14/6/2015
Giả từ trường lớp , hè trong mắt.
Nỗi buồn đan sợi dệt vần thơ
Phan Lương
14/6/2015
-5-
VẪN LÀ …
Em vẫn là em của lúc xưa
Đã từng thơ thẩn với cơn mưa
Lo người có nhớ như em nhớ
Chuyện của lứa đôi ? Chớ thớt thưa.
Em chính là em của bấy giờ
Đã từng thơ thẩn với cơn mưa
Lo người có nhớ như em nhớ
Chuyện của lứa đôi ? Chớ thớt thưa.
Em chính là em của bấy giờ
Vẫn còn thao thức những cơn mơ
Mơ về ngày tới cùng hạnh phúc
Gởi gấm tâm tình trong ý thơ.
Anh Tú
15/6/2015
-6-
Đạo Tiên đạo Phật lẫn đạo đời
Đắc được đạo nào cũng tốt thôi.
Vận thế sánh cùng dòng nước chảy
Có khi ròng lớn tựa buồn vui.
Có buồn mơi biết vui là trọng
Trân quí yêu thương trọn kiếp người
Thương ghét vui buồn cùng thống khổ
Chỉ là tạp niệm của lòng tôi.
Nguyễn Phúc Hậu
16/06/2015
Mơ về ngày tới cùng hạnh phúc
Gởi gấm tâm tình trong ý thơ.
Anh Tú
15/6/2015
-6-
Đắc Đạo ?
Đạo Tiên đạo Phật lẫn đạo đời
Đắc được đạo nào cũng tốt thôi.
Vận thế sánh cùng dòng nước chảy
Có khi ròng lớn tựa buồn vui.
Có buồn mơi biết vui là trọng
Trân quí yêu thương trọn kiếp người
Thương ghét vui buồn cùng thống khổ
Chỉ là tạp niệm của lòng tôi.
Nguyễn Phúc Hậu
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)