2016/03/10

Tiếng Huế – một ngoại ngữ

 “Người Huế nói chuyện với nhau bằng ngoại ngữ Huế, người Nam người Bắc đứng ở ngoài nghe, không làm sao chen vào được một câu” . (Túy Hồng, Áo Rộng Khăn Vành, Tiếng Sông Hương 1990, t.14) .Nữ sinh Huế
Nữ sinh Huế
Mới nghe qua, tưởng như đùa, nhưng đem đối chiếu với kinh nghiệm thực tế qua giao tiếp thì quả ý kiến ấy không phải là không có lý, tuy hơi cường điệu một chút. Ai trong người Huế trên bước đường tha hương lại không hơn một lần gây bối rối cho người đồng hương khác xứ khi đối thoại với rặt giọng sông Hương?
Sau năm 1954, hơn một triêu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam để tránh hiểm họa Đỏ, đã sống rải rác khắp mọi miền dưới vĩ tuyến 17. Dù ở đâu, dù mấy chục năm đã trôi qua, họ vẫn giữ nguyên giọng Bắc, chỉ thay đổi một vài thổ ngữ cho dễ chuyện trò thông cảm.
Còn Huế mình, khi tha hương, đa số đều đổi giọng, hoặc Nam hoặc Bắc; nếu không được khéo léo rặt ròng như Bắc Nam chính cống thì cũng lơ lớ cho người khác xứ dễ nghe, chứ không còn rặt Huế nữa, ngoại trừ khi nói chuyện trong gia đình hay với đồng hương Cơm Hến.
Việc không đổi giọng của đồng bào miền Bắc di cư và việc đổi giọng hay pha giọng của người Huế tha hương, có người cho rằng đó là dấu hiệu của mặc cảm về giọng nói. Tôi không nghĩ như thế.
Đồng bào miền Bắc tha hương vẫn giữ nguyên giọng nói, không phải do mặc cảm tự tôn, tự cho rằng đó là một giọng nói hay, không việc gì phải đổi. Mặt khác, người Huế tha hương thường đổi giọng cũng không phải vì mặc cảm giọng nói của mình trọ trẹ khó nghe. Tất cả chỉ là sự đáp ứng thực tế của cuộc sống, sự thích nghi với hoàn cảnh.
Việc gì đồng bào miền Bắc phải đổi giọng khi giọng nói ấy không gây trở ngại nào trong đối thoại? Tại sao mình cứ khăng khăng giữ nguyên giọng Huế trong giao tiếp, khiến đồng bào khác xứ không hiểu gì cả, phải tốn công lặp đi lặp lại, giải thích này nọ, mất thì giờ? Như vậy làm sao dễ cảm thông với nhau cho được? Không đổi hay đổi, tất cả chỉ là thế. Không mặc cảm, không gượng gạo.
“Thương nhau thương cả đường đi . . .” . Thanh Nam quen với “nhỉ, nhé, hộ, gì cơ, làm sao . . . “ nhưng vì yêu Túy Hồng nên phải ráng nghe và hiểu “hí, nghe, giúp, cái chi rứa, làm răng . . . “ . Còn người dưng nước lã với nhau, lấy gì làm áp lực để buộc người ta phải hiểu điều mình nói?
Nói mà người khác không hiểu hay khó hiểu là một nhược điểm nên tránh trong giao tiếp. Vì vậy, sự điều chỉnh cho thích ứng với nhu cầu thực tế là sự thích nghi hoàn cảnh một cách khôn ngoan . Người Tàu tới nơi nào cũng sống được và sống giàu sống mạnh, là nhờ tinh thần hội nhập thực tế . Tuy vậy, không bao giờ đánh mất bản chất Trung Hoa của họ . Hòa mà không hùa là thế .
Ai cũng biết Tổng Thống Ngô Đình Diệm vốn quê Lệ Thủy, Quảng Bình nhưng sinh trưởng ở Huế. Nói chuyện với người Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, ông nói tiếng Huế nhưng khi nói trước công chúng, khi đọc diễn văn hay thông điệp, bao giờ ông cũng dùng giọng Nam. Ông mang mặc cảm giọng Huế trọ trẹ chăng? Hiển nhiên là không.
Trong nước, ông là người có quyền lực nhất, nhưng không vì quyền lực đó để buộc quốc dân phải nghe cho được giọng Huế khó nghe của ông. Ông cần được hết thảy người dân của mọi miền đất nước nghe, hiểu và thông cảm. Đổi giọng, vì thế là một sự cần thiết để đáp ứng nhu cầu thực tế.
Nữ sinh Huế
Nữ sinh Huế
Trong bài viết nói trên, Túy Hồng có một nhận xét rất đúng: “Giọng Huế không phải là giọng nói trước đám đông, mà có thể chỉ là một giọng nói trong phòng khách” . Đó cũng là một trong những lý do trong sự đổi giọng của Tổng Thống Diệm, trong việc giả giọng Bắc của Hoàng Thi Thơ khi điều khiển các chương trình ca nhạc, của Như Hảo trên đài phát thanh và truyền hình v.v…
Nói trước đám đông thì dở nhưng rỉ rả trong phòng khách thì rất dễ lọt tai. Có lẽ cũng vì cái ưu điểm“giọng nói trong phòng khách” đó nên nhiều chàng trai khác xứ đã lăn xả vào làm rể xứ Huế chăng ?
Tôi không phải là một nhà ngữ học . Vì vậy, những điều trình bày ở đây chỉ là những ý kiến rất thô thiển, có tính cách thường nghiệm của một kẻ bình thường . Đứng trước một thực tế là giọng Huế khó nghe, tiếng Huế khó hiểu (“ngoại ngữ Huế “) đối với đồng bào các miền khác, có nên chăng thử đặt câu hỏi tại sao ? Để dễ thông cảm .
Ở đây xin tạm hiểu “giọng” là nói về thanh âm phát ra từ người nói và “tiếng” dùng để chỉ về ý nghĩa của chữ dùng . Đôi khi, trong “tiếng” bao gồm luôn cả “giọng”, chẳng hạn cái tiêu đề tạm dùng ở trên .
Giọng Huế khó nghe đối với đồng bào khác xứ, phải chăng vì thanh âm do người Huế phát ra thuộc một âm vực khó nhận ra ? Tôi có cảm tưởng như khi phát âm, người Bắc thiên về giọng thấp, người Nam đi giọng cao, còn người Huế thì bình bình .
Phải chăng cái đặc tính bình thanh này khiến nó trở thành khó nghe ? Điều này xin để bàn tay chuyên môn của các nhà âm ngữ học can thiệp . Riêng tôi nghĩ rằng nếu miền Bắc và miền Nam có giọng nói dễ nghe, họ lại rất khó giả giọng miền khác . Trái lại, nếu âm vực giọng Huế thuộc loại bình bình, trung tín, khó nhận ra đối với người ngoài, thì cũng chính nhờ đặc điểm trung tín này đã giúp người Huế có thể giả giọng khắp mọi miền không mấy khó khăn .
Giọng Bắc, giọng Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Saigon . . . người Huế đều giả được tuốt . Cũng tỉ như nước lã không màu; nước không màu chứa trong ly thủy tinh trong suốt khó thấy; muốn cho người ta dễ thấy thì pha màu, và muốn pha màu gì cũng được .
Nghĩ sao nói vậy, chứ tôi biết rằng ý kiến trên sẽ bị bà con khác xứ chỉnh ngay, vì đã hơn một lần anh bạn người Nam nói với tôi rằng “Con gái Huế thì thanh tao, nhẹ nhàng, nhưng tiếng Huế của mấy ông nghe nặng lắm .”
Người Huế phát âm không phân biệt dấu hỏi dấu ngã; không phân biệt có “g” với không “g”, “c” với “t” . Nếu từ Quảng Nam trở vào người ta khó phân biệt “b” và “p”, đến nỗi khi đánh vần thường hỏi nhau “bê bò hay pê phở” và ngay cả đến những bậc khoa bảng tiếng Tây như gió cũng có lúc nói âm “pê phở” chưa chỉnh, thì ở Huế, tại vùng quê và ngay đối với lớp người già sống tại thành phố, người ta không phân biệt âm “gi”, “d” và “nh” . “Người già” và “người nhà” đều được nói giống nhau .
Sau khi làm xong cái nhà, tôi nói chuyện với ông chú già: “Mặc dù cháu tính khá kỹ, vậy mà cuối cùng cũng phải mượn thêm của bạn bè mới đủ, vì số chi phí vượt quá mức dự trù” .
Ông cụ thản nhiên đáp: “Cháu không nghe à, ôn mệ mình từ xưa nay đã nói là làm già (đồng hóa làm nhà và làm già, nghĩa là làm đôi ra, làm nhiều hơn) chớ có nói làm non mô; mà đã làm già thì hụt tiền thôi .”
Trộn lẫn giữa âm thanh và ý nghĩa quả thật là một lối chơi chữ rặt kiểu Huế, các bạn khác miền e khó mà thưởng thức .
Tôi không biết chắc khi một người ngoại quốc học tiếng Việt, cái khó nhất đối với họ là gì ? Cách phát âm với năm thanh (sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã và không dấu) bằng trắc khác nhau, nghe như điệu hát chăng ? Văn phạm chăng ? . . .
Riêng đối với người Việt, có lẽ việc đánh dấu hỏi, ngã cho đúng cũng đã là một vấn đề . Hồi còn học tiểu học, thầy dạy lớp Nhất đã truyền cho lũ nhóc đệ tử chúng tôi một bí quyết để viết hỏi ngã cho đúng, với “câu thần chú “:
“Anh Huyền ngã nặng, hỏi con dao có sắc không ?”
Ý thầy muốn chúng tôi phải nhớ rằng trong một từ kép, hễ chữ nào đi với chữ có dấu huyền hay dấunặngthì đánh dấu ngã; còn chữ nào đi với chữ có dấu sắc hay không dấu thì đánh dấu hỏi, trừ một vài ngoại lệ phải thuộc lòng . Chẳng hạn:
– Nghĩ ngợi / nghỉ ngơi
– Sừng sững, sửng sốt

Thần chú như thế kể cũng linh nghiệm thật, nhưng khi viết chính tả cũng phải tốn công suy nghĩ, hơi . . . mệt . Tôi vái trời khi đi thi tiểu học được gặp một thầy giáo hay cô giáo người Bắc, vì tôi nghiệm ra rằng người Bắc phát âm dấu hỏi dấu ngã rất đúng . Ấy là nhờ gần gũi với một ông Hà Nội đang tán bà chị tôi .
Cho đến bây giờ vẫn thế, bộ óc tôi ghi nhận rằng khi phát âm dấu ngã thì người Bắc nói nghe như dấu sắc (nghĩ ngợi . . . nghí ngợi) và dấu hỏi nghe như dấu nặng (nghỉ ngơi . . . nghị ngơi) .
Giả giọng Bắc mà không biết qui luật này sẽ đánh dấu hỏi ngã sai bét và lòi đuôi “giả cầy” ngay . Một ông nhạc sĩ nọ gốc miền Trung, thường nói giọng Bắc trên TV, trước 75 có lần bị báo chí diễu là “người nói giọng Bắc hay nhất nước” cũng chỉ vì không để ý điều đó .
Cách đây non 30 năm, lần đầu tiên khi đọc một cuốn truyện (không nhớ tên) của một văn sĩ người Bắc (không nhớ bút hiệu) đến đoạn đối thoại của một nhân vật nữ người Huế, tôi vừa cười thích thú , vưa giận . Thích thú, vì tác giả viết rất có duyên . Giận là giận mấy ông thợ nhà in sắp chữ (tôi đinh ninh thế) .
Ai đời “Thôi em về hí”, lại sắp chữ thành “Thôi, em về hỉ” . . . Chữ “hí” của người ta viết với dấu sắc, nghe dịu dàng êm ái như rứa, đem sửa lại thành “hỉ” với dấu hỏi, nghe lãng xẹt, vô duyên như ăn cơm hến thiếu ruốc .
Cô gái Huế bên hồ sen
Cô gái Huế bên hồ sen
Trong lời nói thường nhật của người Huế, HÍ là một từ đệm, đóng vai trò như NHÉ hay NHỈ tiếng Bắc và NHA tiếng Nam . . . Tôi cứ thầm cằn nhằn và giải thích như thế với mấy ông ấn công vô danh; mãi sau mới có dịp biết rằng mình đã nghĩ oan cho họ . Hầu như trong các truyện có dính líu đến ngôn ngữ của xứ Huế, chữ HÍ đệm ở cuối câu đều được nghe và viết thành HỈ .
Khi người Huế phát âm những chữ thuộc về dấu sắc, người Bắc và người Nam đều nghe thành dấu hỏi hoặc dấu nặng . Đó là lý do HÍ biến thành HỈ . Điều đáng nói là sai lầm này cũng hiện diện trong những tác phẩm do chính người Huế viết ra . Lỗi ở ấn công chăng ? Nếu không, đó là điều khó hiểu .
Trong bài “Tôi Không Yêu Tiếng Huế” (Tiếng Sông Hương 1990), tác giả Phàm Phu đã viết rất dí dỏm về những trở ngại do giọng Huế và tiếng Huế gây ra trên chốn giang hồ, vì người khác xứ nghe dấu khác đi .
Một thiếu nữ Hà Thành khi nghe một thanh niên Huế ngỏ lời: “Cô cho tôi xin một cái bóng (tấm hình) của cô để làm kỷ niệm . . .” đã ngơ ngác hỏi lại “Thưa, anh bảo cái bọng gì cơ ạ ?” (t. 45) .
Một ông người Huế khi vào hội tứ sắc đã hỏi làng “Hôm nay tui biết tui hên nên muốn đánh lớn . Mấy bà có chịu hai cắc (một lệnh) không ?” Câu nói này đã làm cho một bà người Nam giận dữ bỏ chơi, vì nghe lầm dấu sắc ra dấu nặng, tưởng ông kia ăn nói xí xọn (t. 46) .
Thời gian ở tù Cộng Sản trong trại “cải tạo”, được sống gần gũi với anh em người Quảng Nam, tôi mới biết giọng Huế đã được nghe như thế nào . Buổi tối, trong khi chờ tới giờ ngủ, anh em thường tụ tập chơi cờ hoặc kể chuyện vui cho đỡ buồn . Có lần một anh bảo tôi: “Đố anh nói to và đúng câu ‘Đem vở vô buồng, học đủ rồi ra ‘  .
Dĩ nhiên là tôi đáp ứng ngay, dõng dạc, rõ ràng . Câu nói vừa dứt, lập tức tiếng vỗ tay và tiếng cười khoái trá nổi lên . Có cả tiếng hô “hay, hay ! nói tiếp đi” . Tôi ngơ ngác không hiểu, vì không tin rằng câu nói đơn giản đó lại có hiệu lực chọc cười đến thế . Ông bạn ăn chung mâm vừa cười vừa cắt nghĩa “Tụi tui nghe người Huế nói dấu hỏi thành dấu nặng cả, nên mới phịa ra câu đó để chọc anh đó” . À ra thế !
Giọng Huế tuy khó nghe với người khác xứ nhưng rất dễ chỉnh: trong lúc nói chuyện, chỉ cần đổi “tông” lơ lớ đi một chút là người nghe thoải mái ngay . Tiếng Huế mới là cả vấn đề, bởi vì khi nói đến giọng là chỉ mới đề cập tới hình thức, còn đi vào tiếng là đi vào nội dung, đi vào đời sống văn hóa .
Ngôn ngữ chẳng qua là qui ước về âm thanh do con người phát ra . Vì vậy, cùng một âm thanh phát ra giống nhau nhưng do qui ước khác nhau nên mỗi dân tộc hiểu theo một nghĩa riêng .
Tác giả Phàm Phu (TSH 90, đã dẫn) kể rằng trong một lần dạo phố Bangkok, thấy cô người Thái cực kỳ xinh đẹp, bèn chụp ảnh để kỷ niệm . Vừa đưa máy ảnh lên nhắm, vừa hỏi ý kiến ông bạn đồng hương làm hướng đạo: “Chụp hí ?” (Chụp nhé ?) thì mỹ nhân hoảng hốt bỏ chạy, còn tác giả bị bạn mắng như tát nước là ăn nói thô tục đối với phụ nữ ngoại quốc . Lý do là trong tiếng Thái “chụp” có nghĩa là “hôn”, còn“hí”  “cái ấy” của phụ nữ .
Hai tiếng Huế vô tội đã trở thành ngôn ngữ sàm sỡ ở Bangkok . Hồi còn ở tù “cải tạo” tại trại Tiên Lãnh (Quảng Nam), tôi và một anh bạn đã làm cho mấy phụ nữ Kàtu bỏ chạy trong cơn mưa .
Sau một ngày vất vả đốn cây rồi đốt thành than, tổ chúng tôi bốn người quảy bốn gánh than đầy ắp về trại . Nửa đường, trời đổ mưa, bèn ghé vào một cái chòi trong rẫy lúa bỏ hoang để tạm núp mưa, cho than khỏi ướt .
Một lát, thấy có bốn năm phụ nữ Thượng, người Kàtu, từ phía suối lúp xúp chạy về chòi chúng tôi, ý hẳn cũng để đụt mưa . “Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm . . .”, sợ mấy phụ nữ sẽ bị trợt té trên con đường dốc dẫn vào lều đã trở thành trơn trợt, anh bạn và tôi la lên “Coi chừng té ! Té !” .
Kỳ lạ, câu nói vừa dứt thì nghe mấy người đàn bà đó ré lên chí chóe gì đó và đổi hướng không chạy vào lều nữa . Trong tổ, có anh bạn gốc Trà Mi (quận miền núi ở Quảng Nam) nhẩn nha giải thích “Nói như mấy ông thì cho vàng tụi hắn cũng không vô núp mưa . ‘Té ‘, tiếng Kàtu có nghĩa là đ.., biết chưa ? Lần sau gặp tụi đàn bà con gái ở đây đừng có nói bậy như vậy nữa, coi chừng có ngày ăn rựa” . Hú vía !
Giữa các dân tộc, qui ước thanh âm khác nhau dẫn đến ý nghĩa khác nhau đã đành, mà ngay trong cùng một nước ngôn ngữ cũng thay đổi theo địa phương . Cùng một từ, mỗi miền có thể hiểu một nghĩa khác nhau . Cùng chỉ một vật hay một việc, mỗi miền có một lối gọi khác nhau .
Chẳng hạn chữ “đồ” cũng có ý nghĩa khác nhau giữa hai miền Bắc Nam . Trong khi miền Nam, miền Trung dùng chữ đồ một cách hồn nhiên để chỉ về đồ vật thì người Bắc lại dùng nó để chỉ bộ phận sinh dục của phái nữ . Vì vậy, khi thấy ba ông bạn cùng chụp chung một tấm hình (chữ Hán gọi là đồ) với một cô đầm, ông nào ngó cũng chễm chệ, phong lưu, Tú Xương đã ỡm ờ vịnh ngay:
Ba bác chung nhau một cái đồ

. . .

Thôi đừng chê nhỏ lại cười to !
Cùng chỉ một vật dùng để chứa thức ăn, ở Bắc gọi là bát, Huế gọi là đọi, Nam gọi là  . Cùng chỉ động tác rơi xuống đất vì mất thăng bằng, người Bắc gọi là ngã, Huế gọi là bổ, Nam gọi là  .
Sự đa dạng trong ngôn ngữ của một dân tộc là điều tự nhiên; bao giờ trong cái chung cũng có cái riêng và thấp thoáng trong cái riêng là hình ảnh cái chung .
Hình như địa lý và lịch sử đã kết hợp với nhau để tạo nên cho Huế một môi trường dễ làm nảy sinh nhiều thổ âm và thổ ngữ hơn các miền khác, đến độ có người đã nói là có thể sưu tập thành một tiểu tự điển tiếng Huế .
Trong TSH 93, qua bài “Thử nói về ảnh hưởng cung đình trong phong cách Huế”, tôi đã có dịp khái quát về ảnh hưởng của ngôn ngữ cung đình trong ngôn ngữ Huế . Điều đáng nêu lên ở đây là: tại sao tiếng Bắc, tiếng Nam không gây trở ngại khi giao tiếp như tiếng Huế ? Ngoài giọng Huế khó nghe, như đã nói ở trên, phải chăng vì tiếng Huế quá đặc thù ? Phải chăng vì ngôn ngữ Huế ít được phổ biến ? Hay vì tiếng Huế khúc mắc khó hiểu ? Thiết nghĩ có lẽ do tất cả .
Người khác xứ có thể dễ dàng quen thuộc với “răng, ri, mô, tê, rứa, hè, hí” vì tính cách phổ thông của chúng, nhưng quả tình khó mà thông cảm với những lối nói đặc thù khác .
Tôi có anh bạn người Nam, sống ở Huế khá lâu . Trong một buổi trà dư tửu hậu, anh tuyên bố rằng “Bây giờ người Huế nói cách chi tui cũng hiểu” . Nghe vậy, một anh bạn khác liền hỏi ngay: “Thiệt hả ? Rứa thì anh có biết vụ hai đứa con ông Bảy bựa qua ngầy lộn rồi lôi giau từ trong chờn ra trữa cươi đập chắc, một đứa bể mỏ, một đứa u trốt. Mạ hắn can không được, đứng trữa cươi la làng như quạ quạ bẻ bắp” .
Anh bạn người Nam ngẩn tò te, chịu thua . Đây là chìa khóa mật mã:
 Bựa qua: hôm qua

 Lôi giau: lôi nhau

 Ngầy lộn: gây gỗ
 Chắc: với nhau
 Chờn: giường
 Trữa cươi: giữa sân
 Bể mỏ: vỡ mồm, dập miệng
 U trốt: u đầu

Mới chỉ có một câu nói ngắn như vậy mà cần phải giải thích đến tám chữ mới làm cho người ngoài hiểu được, và thực ra, đó mới chỉ là những chữ nặng về hình thức hơn ý nghĩa .
Nếu đi vào ý nghĩa thì sự khúc mắc càng thể hiện rõ rệt hơn . Thành ngữ “tào lao xịt bộp” là một thành ngữ phổ thông ở Huế, dùng để chỉ lời nói hay việc làm không đâu vào đâu, không có chủ đích, không ý nghĩa, kiểu “nghe qua rồi bỏ” .
Trong một cuộc tiếp kiến Toàn Quyền Đông Dương, Đoan Huy Hoàng Thái Hậu (mẹ vua Bảo Đại) đã làm cho một vi quan lúng túng khi phải thông dịch câu nói rặt Huế của bà “Tôi tra rồi, ăn nói tào lao xịt bộp . . .”(Nguyễn Đặng, TSH 93), chỉ vì ông không phải là người Huế .
“La ngầy” hay “ngầy” có nghĩa là “la rầy” nhưng “ngầy lộn” lại có nghĩa là “gây gỗ” với nhau . “Mụ nớ” có nghĩa là “người đàn bà kia” (không có ý kính trọng) nhưng khi một người đàn ông được gọi là “Mụ”hay“Mệ”, có nghĩa ông ta là người trong hoàng tộc .
Có một thực tế mà dường như ít ai để ý . Ấy là kể từ ngày chữ quốc ngữ trở thành văn tự chính thức, thay thế cho chữ Hán thì lối viết theo cách phát âm của người Bắc là lối viết chính thức của nước ta .
Thực vậy, từ giấy tờ hành chánh cho đến tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học . . . phổ biến qua hình thức văn tự, hầu như tất cả đều được viết theo cách phát âm này . Ngoại trừ một Hồ Biểu Chánh của hồi đầu thế kỷ và sau này có thêm Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc và hiện nay Hồ Trường An, là viết văn theo rặt giọng Nam, còn tất cả, bất cứ người cầm bút thuộc lãnh vực nào, xuất thân từ địa phương nào, đều viết theo phong thái âm giọng miền Bắc .
Bình Nguyên Lộc viết tiểu thuyết theo giọng Nam nhưng khi viết “Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam, một tác phẩm biên khảo, cũng viết theo cách phát âm miền Bắc . Số học giả, thi sĩ, văn sĩ người Huế trong nền văn chương quốc ngữ đông biết mấy, thế nhưng không vì vậy mà “răng, ri, mô, tê, rứa, ni, nớ . . .” được chính thức đi vào văn học như “sao, thế này, đâu, kia, vậy, này, ấy . . .”
Tiếng Việt theo cách phát âm miền Bắc hầu như đã trở thành lối viết chính thức, có lẽ do truyền thống lập quốc và Nam Tiến .
Trong âm nhạc, ta cũng thấy hiện tượng tương tự . Khi hát tân nhạc, tất cả ca sĩ đều phát âm theo giọng Bắc, bất kể người miền nào . Nhiều danh hề đã chọc cười khán giả một cách thành công khi thỉnh thoảng hát tân nhạc theo giọng Nam . Ban AVT nhờ có Vân Sơn đệm giọng Huế mà trở thành hài hước có duyên .
Từ thập niên 60, một số nhà văn nữ người Huế quả có đưa tiếng Huế vào tác phẩm nhưng cũng chỉ có tính cách mắm muối thêm duyên, kiểu như Vân Sơn đệm giọng Huế trong AVT chứ chưa tạo được sắc thái địa phương như Hồ Biểu Chánh hay Hồ Trường An .
Giọng Bắc, giọng Nam dễ nghe, đó là lý do tại sao đồng bào miền Bắc, miền Nam không gặp trở ngại với người khác xứ . Trái lại, bên cạnh giọng nói thuộc về một âm vực khó nghe, người Huế lại nói và viết không giống nhau . Thêm vào đó, Huế lại quá phong phú thổ âm, thổ ngữ, cả về số lượng cũng như ý nghĩa .
Tất cả những cái đó đã biến tiếng Huế trở thành “ngoại ngữ” ! Muốn hiểu rành “ngoại ngữ” đó, chỉ có cách hãy sống với Huế . Ai không tin, thử hỏi mấy ông rể Huế, biết ngay .

Võ Hương An

(Đặc San Tiếng Sông Hương, 1994)


(Võ Hương An)

Cựu Thanh tra Giám Sát Viện Quân Khu I /VNCH
Cựu Tù nhân Chính trị Quảng Nam-Đà Nẵng)

2016/03/08


Cái Đêm Hôm Ấy





Nhớ đêm hôm ấy trăng về
Ánh xuyên kẻ lá vụng về hôn anh
Lòng em nhuộm chút hờn ganh
Sao anh lại để trăng thanh cợt đùa?

Nhớ con đường đất ướt mưa
Cái đêm hôm ấy gió lùa tóc em
Lén hôn má thắm môi mềm
Anh hờn trách gió, cơn ghen nhuốm lòng

Nhớ đêm mây trắng bềnh bồng
Trăng quê chung ngắm, bên song vui hò
“Thò tay mà ngắt ngọn ngò,
Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ" (*)

Nhớ đêm sương phủ đôi bờ
Thắm vai ướt lạnh, mõi chờ gặp nhau
Trách trời hay trách sông sâu
Cái đêm hôm ấy trăng sao nhạt nhòa.

Khúc Giang
(*) Trích Hò Dân Ca

2016/03/07

Thành-kính phân ưu:

Nhà thơ Quang Tuấn
tức
Ông Trần Quang Tuấn
Pháp danh Tâm Quang
Cựu Hiệu Trưởng Trung Học Thủ Đức
Sinh năm 1927, Gò Công, Việt Nam

Từ trần ngày 01- tháng 3- 2016 tại San Jose California, Hoa Kỳ

Nguyện cầu Mười Phương Chư Phật tiếp dẫn Hương Linh người quá cố sớm tiêu diêu Miền Lạc Cảnh

****
THÚ CHƠI THƠ

(Riêng tặng quí bạn yêu thơ)

Đôi dòng tản mạn:


Xin thưa trước với quí bạn, tôi không phải là một học giả hay nhà nghiên cứu, phê bình văn học chi cả mà chỉ là một người bình thường thích văn nghệ, yêu thi ca theo kiểu tài tử nghiệp dư, thế thôi .Như vậy ở đây tôi không có tham vọng bàn sâu rộng về thơ như : định nghĩa thơ là gì, kỷ thuật làm thơ như thế nào, tính nghệ thuật trong thơ ra sao, thơ có bao nhiêu khuynh hướng..v….v.. mà chỉ nói ra những cảm nghĩ, những tâm tình riêng theo quan điểm cá nhân của tôi trong thú chơi thơ mà thôi . Có thể quan điểm của tôi không giống của bạn, nếu khác vậy xin bạn thông cảm cho vì đây chỉ là đôi dòng tản mạn để chia sẻ cảm nghĩ với nhau chớ không phải một bài luận thuyết chi cả.

Để quí bạn dễ theo dõi bài viết, tôi xin chia bài này ra làm ba phần : phần thư nhứt là lý do tại sao tôi yêu thơ, phần thứ hai là thú vui của người đọc thơ hay thưởng thức thơ, phần thứ ba cuối là thú vui của người làm thơ hay của thi sĩ.

I - TẠI SAO TÔI YÊU THƠ?

Trong cuộc sống hằng ngày tôi thường tìm những thú vui để giải trí hầu bù lại những lúc làm việc mệt nhọc hay khi có chuyện lo lắng, buồn phiền Đại khái như : thú đọc sách, thú nghe nhạc, xem truyền hình, đàm đạo với bạn bè, chụp ảnh, du lịch v…v... nhưng đáng kể nhất với tôi là thú chơi thơ . Tại sao vậy ? Vì thú chơi thơ rất thú vị và không hao tốn tiền bạc, sức khỏe .thời giờ chi cả . Lúc nào cũng nằm sẵn trong tầm tay của minh khỏi cần đi tìm đâu xa mà niềm vui thật là vô hạn . Nhưng điều đáng nói hơn cả đối với tôi đó là thú chơi thanh lịch vô cùng ..Từ xưa đến nay, thơ vẫn được người đời nhất là các vị “tao nhân mặc khách“ đề cao là một thú vui tinh thần thật là tao nhã . Tao nhã vì thơ phäi đẹp, không đẹp, không phải là thơ . Chữ Thơ gần như đồng nghĩa với chữ Đẹp. Chẳng hạn trước một cảnh đẹp ta thường buộc miệng kêu : ồ cảnh quá nên thơ ! Hoặc khi nói về tuổi trẻ người ta gọi đó là tuổi thơ mộng nghĩa là tuổi đẹp như thơ, xinh như mộng . Thơ nhất định phải đẹp cho nên điều quan trọng nhất đối với nhà thơ là khi sáng tác phải làm sao nêu lên cái đẹp cái tao nhã của thơ được nhiều chừng nào hay chừng nấy . Đẹp trong ý, trong lời, trong cách dùng chữ, đặt câu, gieo vần .v.. v…sao cho có văn hoa, nghệ thuật . Dù tả tục cũng phải tả sao cho trở thành thanh .. Thí dụ ông Nguyễn Du tả lúc Thúc Sinh nhìn trộm nàng Kiều tắm thì :

Rõ ràng trong ngọc, trắng ngà 
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên .

Thật là tuyệt vời khi bà Hồ Xuân Hương tả một thiếu nữ còn trinh trắng nằm hớ hênh ngủ ngày với hai câu toàn bích :

Hai gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối chửa thông .

Rất thanh chớ tục chỗ nào đâu?

Mặt khác thơ cũng rất tao nhã vì nó không giống như điếu thuốc, tô phở , ly nước ngọt …bất kỳ ai, bất kỳ phàm phu tục tử nào cũng thưởng thức được mà nó chỉ dành riêng cho người có kiến thức tối thiếu nào đó và hơn nữa cũng cần phải có tâm hồn để hiểu ý thơ và rung cảm với người làm thơ
Lẽ dĩ nhiên người ta chỉ yêu thơ là khi nào hiểu được thơ, hay nói ngược lại là khi nào hiểu được thơ người ta mới có thể yêu thơ. Như vậy những người yêu thơ nhất định phải là người có trình độ văn hóa tối thiểu nào đó và phải có tâm hồn để thưởng thức. Vì Thơ kén chọn người thưởng thức như vậy nên người đọc thơ rất thưa thớt . Điển hình nhất là các nhà xuất bản sách rất ngại in sách thơ dù tác giả là người nổi danh chăng nữa , sách thơ vẫn khó bán như thường .
Tôi cũng để ý thấy trong một trăm người tôi quen thì chỉ có vài người yêu thơ hoặc biết làm thơ mà thôi. Bởi vậy tôi không bao giờ dám luận bàn thơ với người không biết gì về thơ vì như vậy tôi sẽ bị hiểu lầm là khoe khoang, sau nữa mình trở nên lố bịch, lạc lỏng, vô duyên vì không phải chỗ để nói như có câu tục ngữ người Anh " Đừng luận kiếm với người không biết múa kiếm cũng như đừng luận thơ với người không hiểu thơ "Trái lại với người đồng điệu yêu thơ thì thao thao nói hoài cũng không hết chuyện.

Những người thưởng thức, yêu thơ là vậy, còn thử hỏi những nhà thơ, những người sáng tác thơ , những thi sĩ là ai ?
Xưa kia giới thi nhân , thi sĩ rất hạn chế chỉ dành cho những kẻ sĩ hay những vị thâm nho, sau đó là một số ít các bậc tu sĩ, thiền sư, hay cao tăng …nghĩa là những người thuộc thành phần trí thức và có địa vị trong xã hội cả . Hầu hết những vị ấy, khi cầm bút đều theo tôn chỉ : dĩ văn tải đạo (lấy văn chở đạo ) nên không không bao giờ lấy thô tục mà truyền bá đạo lý cho thiên hạ như ta dược biết bàng bạc trong lời thơ của cụ Nguyễn công Trứ.
- Phù thế giáo một vài câu thanh nghị . (Giúp dạy đời bằng đôi lời hay, lẽ phải)
- Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ (Một túi thơ đề trăng với sương) Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà (Uống ba chung rượu vui cùng khói sông)
Hoặc
- Chơi cho lịch mới là chơi Chơi cho đài các cho người biết tay:
Tóm lại tôi yêu thơ, lý do trước hết là vì thơ là thú vui tinh thần rất tao nhã không đòi hỏi chi nhiều và rất thú vị vậy..

II.- THÚ VUI CỦA NGƯỜI THƯỞNG THỨC

Bây giờ, chúng ta thử tìm hiểu tại sao thơ được xem là một trong những bộ môn nghệ thuật thật là thú vị? Đâu cần bạn phải là nhà Thơ biết kỷ thuật làm thơ, người nghiên cứu thơ, người tài cao học rộng. chỉ cần bạn biết cảm nhận được cái hay, cái đẹp của thơ thì bạn sẽ yêu thích, say mê thơ cho mà coi . Đọc một bài thơ hay ta cảm thấy thích thú không thua gì nghe một bản nhạc hay, nhìn một bức tranh đẹp mắt, ăn một món ngon miệng, ngửi hương thơm ngào ngạt của bông hoa ….dù thơ chỉ diễn đạt bằng ngôn ngữ nhưng sắc bén, tài tình không thua bất cứ bộ môn nghệ thuật nào khác . Trong thơ người ta co thể tìm thấy nhạc, thấy tranh, thấy màu sắc, hình ảnh nhưng độc đáo hơn nữa là diễn tả được phần vô hình nhưng sâu thẳm nhất bên trong chúng ta đó là trạng thái tình cảm, tâm hồn những vui buồn , sướng khổ một cách ăn hoa, nghệ thuật. Nhạc chỉ cho ta nghe âm thanh, họa chỉ cho ta màu sắc, nhiếp ảnh cho ta hình ảnh, điêu khắc cho ta hình tượng v.. v…nghĩa là phần ngoại hình làm sao so sánh được thơ nói rốt ráo phần tận cùng của nội tâm, hang cùng ngỏ hẻm của tâm tình bằng lời lẽ văn hoa, bằng ý tưởng sâu xa, thơ mộng.v..v vượt hẳn cuộc sống nhàm chán của đời thường. Xin mượn lời nhà thơ Thế Lữ;
Với nàng Thơ tôi có đàn muôn điệu Với nàng Thơ tôi có bút muôn màu Tôi muốn làm nhà nghệ sĩ nhiệm mầu Lấy thanh sắc trần gian làm tài liệu.

Nếu thơ không thú vị thì tai sao có những bài ta cảm thấy quá thích rồi học thuộc lòng. Vì nó có vần, có điệu, lời ít, ý nhiều đọc lên nghe êm tai, thuận miệng khác hẳn bài văn xuôi dù thích thú đến đâu ít được ai nhớ mãi . Hồi học trung học tôi rất thích đọc bài văn xuôi Trằng lên của nhà văn Thạch Lam chứa đầy chất thơ, chất nhạc tôi đọc đi dọc lại mãi không chán và học thuộc lòng . Nhưng giờ đây nhắc lại thì tôi quên mất, bất quá chỉ nhớ man mán vài câu thôi . Trái lại các bài thơ như “Tràng Giang“ của Huy Cận, “Đây mùa thu tới“ của Xuân Diệu, tới nay tôi không quên một chữ và có lẽ còn nhớ mãi suốt đời . Có những bài thơ tưởng chừng như tác giả nói dùm ta những nỗi niềm, những tâm sự thầm kín , những vui buồn, sướng khổ trong cuộc đời mà ta không thể nào nói rốt ráo được như vậy Thí dụ những khi tôi tiếc nuối cái gì quí báu đã mất, hoặc muốn cái gì được trường cữu trong đời này mà không được rồi đâm ra buồn chán thì hai câu thơ ngắn ngủi này của Lamartine an ủi tôi rất nhiều:

Le temps passe (Thời gian rồi trôi qua)
Tout s’efface (Tất cả đều xóa nhòa)

Có những câu thơ thật ngắn mà dạy khôn tôi rất nhiều không khác gì một bài học luân lý thật dài
Thí dụ như hai câu thơ trong Truyện Kiều:

Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.


Phần đông những người tuổi trung niên Việt Nam đều không quên bài “Qua Đèo Ngang“ của Bà Huyện Thanh Quan“ hay bài ca dao "Công Cha Như Núi Thái Sơn" Thử hỏi nếu không ưa thích thì làm gì nhớ dai như vậy được. Tôi có một anh bạn yêu thơ thật là quá sức tưởng tượng. Anh ta thuộc lòng từ đầu chí cuối Truyện Kiều Muốn nghe đoạn nào thì anh đọc vanh vách cho nghe không sai sót một chữ nào cả dễ dàng như lấy đồ trong túi . . Có những bài thơ tôi thích quá, cảm thấy nó hay vô cùng mà biểu cho biết rõ chỗ hay như thế nào thì tôi cũng xin chịu « giơ tay đầu hàng » . Bất quá tôi chỉ giải thích được phần kỷ thuật như cách dùng chữ, gieo vần, nhạc tính v..v…sơ sơ vậy thôi . Tôi nghĩ : muốn hiểu được cái hay của thơ thì nên lấy cái tâm đễ cảm nhiều hơn là lấy cái trí để hiểu vì thơ nặng phần tình cảm hơn là lý luận. Thơ triết lý nhiều quá, lý luận nhiều quá tôi tin rằng nó sẽ làm chết mất chất thơ nên khó truyền cảm cho người đọc. Tôi xin đơn cử một thí dụ về cảm xúc của tôi với bài Tống Biệt của thi sĩ Tản Đà . Sau khi đọc, tôi cảm thấy xao xuyến, lâng lâng kỳ lạ có cái gì đó buồn man mác trong hồn như đang quay về quá khứ xa xưa nào đó ở cõi Thiên Thai mà tôi chưa hề biết bao giờ.Từng chữ, từng câu bàng bạc tính hoài cổ làm tôi ngây ngất say sưa khó giải thích được . Mặt khác ngoài việc không nên lấy lý trí để hiểu ta cũng không nên dùng tinh thần khoa học mà suy nghiệm, cân đo thơ như vật chất. Chẳng hạn như có một anh bạn tôi trình độ học vấn rất cao vậy mà sau khi đọc câu thơ này

Ngày về ngửa mặt hôn non nước 

lại hỏi tôi một câu thật ngớ ngẩn: non nước chớ đâu phải người ta mà làm sao anh hôn được? Tôi trả lời: “Trời đất quỉ thần ơi , tại sao khi nói đến Việt Nam ta lại gọi Mẹ Việt Nam? Ở đây người ta nhân cách hóa non nước như người thân yêu nên mới ghé môi hôn. Đọc thơ phải lấy cái tình để hội nhập chớ không nên dùng cái lý để phân tách bao giờ … "Có ai phân chất được mùi hương?"
Có khi chỉ cần vài câu thơ giản dị thôi cũng đủ làm ta thích thú, nhớ đời vì đó là những câu thơ nhập thần nói đúng tâm lý, tình cảm chúng ta một cách quá tài tình: dù qua thời gian bao lâu hay bất cứ nơi nào trên thế gian này cũng đều đúng cả. Thí dụ mấy câu thơ tình dưới đây:

Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy 
Nghìn năm hồ dễ mấy ai quên . (Thế Lữ) 

hoặc: 

Đời hết vui khi đã vẹn câu thề 
Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở  (Hồ Dzếnh)

Riêng trường họp đặc biệt của tôi thì hai câu thơ sau đây của Cụ Nguyễn Du đã thấm thía tận đáy lòng và rung cảm từng chân lông, kẽ tóc của tôi mặc dù lời thơ rất giản dị bình thường:

Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?


Trước kia vợ chồng tôi đọc đã thấy hay nhưng có giới hạn nào thôi. Giờ đây vợ tôi đã qua đời lâu rồi nhưng càng đọc tôi càng thấy nó hay không thể tưởng tượng. Chữ đôi ta thiết tưởng ngoài người yêu ra tôi cũng có thể nói với quê hương yêu dấu, với người bạn thân thương hay bất cứ sự vật nào ở trong trái tim tôi, đều không sai chút nào . Như vậy thâm ý của tác giả là khuyên ta hãy xem quí trọng những gì ta đang trìu mến, đang ấp ủ trong tim vì một mai nó sẽ không còn nữa . Không còn có nhau để nhớ, để thương, không còn có nhau để sẻ, để chia, không còn có nhau để nhận để cho, không còn có nhau để giận , để hờn chăng nữa. Thật vậy giờ đây mỗi lần đọc lai hai câu thơ này tôi đều bùi ngùi nhớ đến người vợ hiền và rất tiếc nuối thời gian xưa kia sống bên nhau . Than ôi nay đã thành sương khói còn biết tìm đâu nữa ? Còn gặp nhau họa chăng trong giấc chiêm bao mơ màng.
Nhà thơ đã nói dùm tôi một cách thâm thúy ô cùng những điều tôi muốn nói mà không đủ lời để nói. Các bạn ơi ! thơ tuyệt vời như vậy, làm sao mình khỏi thích thú, say mê ? Cái hay, cái đẹp, cái thú vị cuả thơ đôi với thưởng thức, người đọc là như vậy, thử hỏi còn đối với người làm thơ, người sáng tác thơ thì thú vui của họ như thế nào?


III. - THÚ VUI CỦA NGƯỜI SÁNG TÁC.

Nếu thú vui người đọc thơ có một thì thú vui người làm thơ phải gấp mười .Bạn nên nhớ rằng : có nhiều người tài cao học rông, có nhiều người yêu thơ, thuộc lòng nhiều thơ cũng như có nhiều nhà phê bình thơ, nghiên cứu thơ rất giỏi …nhưng lạ lùng thay họ không làm được bài thơ nào cả cho cam nguyên nhân chỉ vì họ không có tâm hồn thơ để sáng tác thế thôi ! Nêu bạn có nguồn cảm hứng để làm thơ nghĩa là có hồn thơ thì đó là một đặc ân của tạo hóa ban cho bạn đó, không dễ gì có đâu ! vì hồn thơ do bẩm sinh mà có chứ không phải do học hỏi mà có như câu chữ nho : “ Sinh nhi tri chi” chứ không phải “Học nhi tri chi”.
( Nghĩa là : Sinh ra là biết, chứ không do học mà biết) Khi ta có nguồn thi hứng nghĩa là khi thơ nhập hồn rồi thì cảm thấy lâng lâng bay bổng như lạc vào thế giới kỳ diệu nào . Hồn ta có thể nhập vào hồn sông núi,, cỏ cây vạn vật, Từ tuổi bảy mươi có thể trở về tuổi mười bảy để nói chuyện tình yêu Từ con người phàm tục ta có thể chấp cánh theo Lưu Nguyễn lạc vào cõi Thiên thai Do đó Ông Quách Tấn nói lúc có cảm hứng nghĩa là lúc hồn thơ nhập giống như người ta lên Đồng, quả không sai! . Hồn thơ cũng như tình yêu đâu biết tuổi tác và cũng không cần đếm xỉa gì tới không gian ,thời gian.

Nếu là thi nhân bạn sẽ thấy tâm hồn mình mở rộng ra để giao hòa với thiên nhiên và cỏ cây vạn vật .

Tôi chỉ là cây kim bé nhỏ 
Mà vạn vật là muôn đá nam châm (Xuân Diệu)

Bạn sẽ nhìn đời không phải thuần bằng con mắt mà còn bằng cả trái tim . Lòng bạn cũng như sợi dây tơ đồng, một cơn gió chạm nhẹ vào cũng đủ ngân nga lên bao âm thanh trầm bỗng . Bạn muốn nhập vào lòng tha nhân để chia sẻ sướng khổ, vui buồn với họ như Thế Lữ viết :

Khi phấn đấu cũng như hồi mơ tưởng 
Tôi yêu đời cùng với cảnh lầm than 
Cảnh thương tâm, ghê gớm hay dịu dàng 
Cảnh rực rỡ ái ân hay dữ dội.

Còn riêng đối với cá nhân tôi những lúc sầu muộn vì lòng người đổi thay hay tình đời đen bạc hay thất bại trong cuộc đời thì không gì an ủi bằng vào cõi thơ để tìm Nàng Thơ bày giải nỗi lòng như tôi đã viết:

Nàng có phải biển hồ chan chứa lệ?
Cho thuyền tình cập bến trút sầu thương
Hay dòng suối ngọt ngào đời dâu bể?
Cho thi nhân tuôn hết nỗi đoạn trường.

Nàng Thơ đối với tôi giống như người bạn tốt, một người Chị hiền bao giờ cũng đem niềm vui và an ủi cho tôi . Ủy mị hay lãng mạn là tại con người chớ đâu phải tại nàng Thơ mà vu oan cho Nàng, thật tội nghiệp thơ quá!
Tôi khuyên bạn cũng nên bắt chước các nhà thơ mà thử một phen làm quen với Thơ, coi nào . Cầm viết lên đi ! viết tào lao vài câu rồi tìm cách ghép đại vần ra sao cũng được cả , bạn sẽ thấy hả hê , khoan khoái . Dù hay dù dở cũng là tiếng lòng của mình, dù dài dù ngắn, bạn cũng đã làm được một việc gọi là sáng tác.
Làm xong một bài thơ tưởng như sanh được một đứa con dù lành lặn hay tật nguyền, dù hay dù dở, nó vẫn do tim óc của mình nặn ra để nâng niu, yêu mến . Sau này ta chết đi nếu không lưu lại được gì với đời thì ít ra thơ vẫn còn đó với cháu con với những tâm tư, cảm nghĩ của ta lúc sinh thời, khi thân xác ta đã thành cát bụi và tên tuổi ta chìm mất trong quên lãng thời gian. Với tôi, làm thơ rất vui vì đó là việc làm tùy hứng để giải trí, không có gì ràng buộc mà cũng không nhằm mục đích cao xa gì cả . Giống như tôi đang thở thì cứ thở mà không biết mình thở . Như con chim ngứa cổ thì cứ hát . Con cò có cánh thì cứ bay . Con cá có kỳ thì cứ lội, thế thôi ! Miễn sao giải bày tâm tư, nỗi lòng của mình thành bải thơ mới mãn nguyện . Nói gì khi tìm được một lời hay, một ý đẹp, một chữ đắc địa để gieo vần ….thì cảm thấy sung sướng còn hơn trúng số độc đắc nữa. Làm thơ là làm một công việc nghệ thuật mà nghệ thuật thì không biết đâu là tột đỉnh cho nên người nghệ sĩ say sưa đi tìm mãi, tìm hoài trong thú vui vô hạn không bao giờ chán. Tôi cũng có cảm tưởng làm thơ giống như người đầu bếp làm thức ăn không phải riêng cho mình mà cho nhiều người khác cùng ăn; nếu người khác khen ngon miệng thì còn sướng hơn mình ngon miệng bội phần Còn một thú vui độc đáo nữa nên kể đó là thú giao lưu, xướng họa thơ giữa những người chơi thơ. Do đó những người đồng điệu thường tạo dịp họp mặt xướng họa ngâm nga và hàn huyên tâm sự với nhau .Hơn ai hết người thơ với người thơ dễ thông cảm và quí mến nhau vô cùng vì dó là những người “ đồng hội đồng thuyền.” với nhau.

Nhớ Ông Chu manh Trinh khi viết về Cụ Nguyễn Du đã nói một câu rất thâm thúy “Ta vốn giòng nòi tình, thương người đồng điệu”
Nhìn lại ngày nay phong trào chơi thơ càng lúc càng phổ biến, bành trướng.
Riêng ở Việt Nam không những có CLB thơ ở thành phố, ở Quận mà còn có một số ở các Phường nhỏ nữa Những buổi họp mặt sinh hoạt thơ thật là vui: ngoài nội bộ ra người ta mời các CLB bạn ở địa phương khác đến tham dự. Họ trao đổi nhau thi phẩm và mọi người đều được luân phiên đưa bài mình để nghệ sĩ chuyên môn luân phiên ngâm trên diễn đàn, sân khấu cho mọi người nghe với tiếng đàn, tiếng sáo đệm theo. Nhưng tôi vẫn thích họp bạn thơ tại nhà riêng của mình hơn ở CLB vì nơi đây quá đông người sư tập trung để nghe dễ bị phân tán. Mời một số ít bạn thơ thật tâm đắc khoảng chừng 10 người trở lại thôi vừa xướng họa vừa ca ngâm vừa hàn huyên tâm sự bên dĩa bánh, chung trà thì thật là vui thơ và ấm áp tình bạn vô cùng..

Ta cũng cần nên nhớ rằng Thơ vốn là thú vui tịnh, chớ không phải thú vui động như Nhạc nên giữa nơi đông người như tiệc cưới, liên hoan, lễ lộc…v. v …đem thơ ra ngâm thì không thích họp với môi trường và không khí bằng trổi nhạc bao giờ. Nghe nói : các Cụ ngày xưa mỗi lần họp mặt giao lưu , xướng họa còn mặc áo dài khăn đóng và đốt trầm hương cho tăng vẻ nghiêm trang buổi vui Thơ.

Để kết thúc xin gởi tặng quí bạn yêu thơ những cảm nghĩ của tôi về Thơ khi sáng tác như sau.

TÔI LÀM THƠ

Tôi làm thơ như con tằm dệt kén
Rút ruột dâu xanh mướt nhả vàng tơ!
Gom cảm hứng vui buồn tim thai nghén
Làm tơ tình tôi dệt mấy vần thơ .

Tôi làm thơ hồn nhiên như chim hót!
Ngứa cổ thì cất tiếng véo von chơi
Dù mưa gió hay trời trong nắng tốt
Vẫn liú lo tiếng hót mến yêu đời

Tôi làm thơ như trăng vàng gối sóng
Xé đêm đen lấp lánh giữa dòng sâu .
Chán thực tế phũ phàng tôi gối mộng
Quên khổ đau, thương khó giữa bể sầu!

Tôi làm thơ như Mẹ ru con ngủ
Giữa trưa hè thánh thót tiếng ca dao
Lời mộc mạc mà tình quê ấp ủ
Cho con yêu tiếng Việt rất ngọt ngào.

Tôi làm thơ như người theo đạo Lão
Đi dưới sân mà nói chuyện trên trời
Xin đừng bảo rằng tôi mơ mộng hảo
Thế gian này cũng là mộng đấy thôi.

Tôi làm thơ như là tôi đang thở
Chuyện đương nhiên cần thiết chẳng đặng dừng
Nếu không khí ra vào nuôi cơ thể
Thì thơ ca xuất nhập dưỡng tinh thần.

Tôi làm thơ như nước trôi êm ả
Nước từ nguồn, thơ lai láng từ tim
Ðời vạn ngả, thuyền thơ tôi một lá
Thiện mỹ chân, luôn chở mộng đi tìm.

Quang Tuấn
Tôi Đang...


Tôi đang đếm bước của tôi
Đường xa diệu vợi lên đồi xuống nương
Hoa thơm cỏ lạ bên đường
Khoe màu khoe dáng khoe hương ngạt ngào

Tôi đang đi dưới trăng sao
Ngất ngưởng chân thấp chân cao mệt nhoài
Nghe tiếng dế mèn bên tai
Thở than cho kiếp trần ai vô thường

Tôi đang đến Thái bình dương
Sóng chào vẩy gọi tây phương quê mình
Đây chiều bên ấy bình minh
Nơi nào nắng cũng lung linh gọi mời!

Anh Tú
March 7, 2016

2016/03/06

Anh Về Mùa Xuân


Ảnh: Lê Kim Tuyết

Xuân này anh đến bên em
Em không còn tựa bên rèm trông anh
Anh về! Có mắt long lanh
Có chén rượu ngọt tình xanh má hồng.

Anh về đem khối tình nồng
Như dòng hơi ấm sưởi lòng em yêu
Chân trời rực áng mây chiều
Như bình minh đến mang nhiều ước mơ.

Xuân này thỏa dạ mong chờ
Bao năm mòn mõi mịt mờ bóng anh
Trên trời có áng mây xanh
Dưới đất em có tình anh tuyệt vời!

Anh Tú