HOÀI NIỆM VỀ TRƯỜNG LÀNG TÔI
Trường Tiểu học Ngã Tư ngày nay_Ảnh:Thu Nguyệt |
Ba người thầy đầu đời của tôi được tôi đặc-biệt gọi là
Những Thầy Chân Đất. Đó là má tôi, thầy Thinh và thầy Tất.
Không có nhớ khi nào tôi biết đọc
Chữ a, ê của thuở học vở lòng
Cũng chẳng biết ai là thầy số một
Nên hỏi rằng: “ Thầy là mẹ phải không?”
.
Mẹ mỉm cười vò đầu con ... không nói
Tay vẽ chữ “ờ” giữa trán của tôi
Mắt nhìn mẹ lòng thương cảm bồi hồi
Bèn âu yếm rúc đầu vào lòng mẹ.
.
Chợt mắt chạm đôi chân trần đi đất
Của mẹ yêu hôm sớm dẫm ruộng đồng
Da sờn, chai cho cây lúa trổ bông:
Công ơn mẹ làm sao con quên được!
.
Hết chữ dạy mẹ thấy buồn hiu hắt:
Không lớp,trường con đi học nơi đâu?
Liếc nhìn con thơ sáng, tối âu sầu
Lòng mẹ ưu tư từng giây, từng phút!
.
Ván ngựa (*) làm bàn, gổ thô làm ghế,
Vài trẻ con trong xóm nhỏ là trò,
Có người trai nghèo trở thành thầy giáo:
Vang vang đình làng tiếng đọc ô, o…!
.
Quần cụt, áo thun, đầu trần, chân đất,
Thầy kính yêu tận tụy dạy tháng ngày
Chút chữ nghĩa nhưng tình thương chất ngất:
Biếu thầy đôi lít gạo, nhận ơn dày!
.
Thầy Thinh thứ hai, thứ ba thầy Tất
Nhọc nhằn dạy tôi chữ, toán đầu đời.
Hình ảnh thân thương những Thầy Chân Đất
Ấm áp đời tôi mãi mãi không vơi!
.
Tôi may mắn nhận thật nhiều ơn sủng
Từ thôn quê nghèo cho đến thị thành
Giáo dục của bao Thầy Cô kính mến
Cả cuộc đời ghi nhớ với lòng thành!
Phụ huynh trong xóm muốn cho con đi học thì chỉ có một cách duy nhất là tự lo. Có lẻ vì thế mà ba con trong xóm cùng nhau làm một lớp học và mời thầy Thinh bên Rạch Ông Tổng cách đó một cánh đồng. Thầy Thinh cũng là một nông dân nghèo nhưng có đến trường lúc vào tuổi đi học. Thầy không học cao nhưng đủ chữ để dạy đám con nít mới học vỡ lòng chúng tôi. Thầy rất vui tính, lúc nào cũng mặc quần xà lỏn, đi chân trần, tóc hớt vén khéo nhưng không thấy chải, chỉ lấy tay vuốt vuốt là xong. Thầy viết chữ rất đẹp, dạy chăm và thương chúng tôi vô cùng.
Thầy thích nhậu, thời đó thì chỉ có rượu đế thôi, ai tặng một xị là thầy vui ra mặt. Không hề thấy thầy say bao giờ, mặt đỏ gai gai là thầy về nhà nghỉ ngơi.
Đến một lúc thầy nói đám học trò đã lấy hết chữ của thầy rồi nên thầy bàn giao lớp cho thầy Tất trình độ cao hơn cũng cùng một làng.
Bấy giờ vào những năm 1950, chúng tôi đang ở Ấp Tân-Qui thuộc xã Tân-Long-Hội là vùng xôi đậu, ban đêm thường có bộ-đội Việt Minh về và thỉnh-thoảng bị Tây ruồng bố. Nhớ lần thầy Tất đã hướng-dẫn nhóm môn sinh trong đó có tôi đi thi vào trường Huyện mà sau này tôi mới biết đó là trường ở xa, sâu, thuộc vùng của Việt Minh chiếm ngụ.
Thầy thích nhậu, thời đó thì chỉ có rượu đế thôi, ai tặng một xị là thầy vui ra mặt. Không hề thấy thầy say bao giờ, mặt đỏ gai gai là thầy về nhà nghỉ ngơi.
Đến một lúc thầy nói đám học trò đã lấy hết chữ của thầy rồi nên thầy bàn giao lớp cho thầy Tất trình độ cao hơn cũng cùng một làng.
Bấy giờ vào những năm 1950, chúng tôi đang ở Ấp Tân-Qui thuộc xã Tân-Long-Hội là vùng xôi đậu, ban đêm thường có bộ-đội Việt Minh về và thỉnh-thoảng bị Tây ruồng bố. Nhớ lần thầy Tất đã hướng-dẫn nhóm môn sinh trong đó có tôi đi thi vào trường Huyện mà sau này tôi mới biết đó là trường ở xa, sâu, thuộc vùng của Việt Minh chiếm ngụ.
Khăn gói đi thi, chúng tôi chỉ có thể đi bằng đường
bộ: quá giang qua sông, đi cầu khỉ, băng đồng ruộng với chân trần… Mẹ tôi có
cho tôi một số tiền …xài vặt. Nhớ buồi sáng đầu tiên tại nơi đó, mua một gói xôi để ăn
sáng, tôi trả năm đồng thì bà bán hàng từ-chối, bà nói “Tiền giả cháu ơi!”.Thì
ra chánh-quyền thực-dân bấy giờ tung tiền “ bác Hồ giả” để lủng-đoạn nền tài-chánh
của Việt Minh. Hỏi “Sao bà biết?”. Trả lời “chữ và số in sắc-sảo là tiền giả,
còn chữ và số nhoè là thiệt”. Đành nhịn đói và đó cũng là
buổi sáng cuối cùng nơi đây vì vài giờ sau có báo động “Tây bố” ( lính Tây ruồng
bố), thầy trò chúng tôi chạy “vắt giò lên cổ” trở về nhà. Thế là từ đó tôi đành
“ở không” vì đã “lấy hết chữ”(thầy tôi
nói vậy) của thầy tôi rồi và không có nơi khác để tiếp-tục đi học.
Một năm sau, bác Hai tôi ở An-Lương thuộc xã An-Đức
(bây giờ là xã Long-An) kêu tôi lên để cho đi học lại tại trường Tiểu-học Ngã
Tư Long-Hồ. Niên-khoá 1951-1952 tôi được vào lớp ba học với thầy Sổ, cùng lớp
với bạn Biện Công Nho, Biện Công Nhã, Biện Công Văn, Biện Công Chương, Nguyễn
Phú Thạnh, vân vân…Kế bên cũng là lớp ba, lớp con gái, có chị Nguyễn Ngọc Bích,
Nguyễn Ngọc Diệp(chị vợ của Thầy Ngô Quang Vỹ sau này)…do thầy Đoàn dạy. Trường
là những căn nhà cũ ở gần trại lính Tây, tọa-lạc gần dốc cầu Ngã Tư ,bên tay
trái,hướng Vĩnh-Long đi Trà-Vinh, trước khi qua cầu sắt củ kỷ, nhỏ hẹp. Quý
thầy ở ngoài chợ Vĩnh-Long, sáng đi xe gắn máy vào. Tôi nhớ thầy Sổ đi bằng
Mobylette.
Năm kế, trường được mở nhiều lớp hơn. Trường mới, sườn
cây vách lá, dời qua phía chợ, dọc sông Long-Hồ, mặt sau hướng ra ngã ba
sông(hướng đi Hoà-Tịnh/Phú- Đức/Long-Mỹ) Năm này tôi biết thêm vài thầy khác
như thầy Mạnh, thầy Hai Lương (Lương là họ)…và thầy Hòa là Hiệu-Trưởng. Đến bây
giờ tôi vẫn còn nhớ mặt từng thầy, nếu nhắm mắt lại là hình như các thầy đang
đứng trước mặt tôi.
Thầy Hai Lương rất hiền lành. Có lần thầy gọi bạn tôi,
Nguyễn Phú Thạnh ngồi bàn đầu, xoè bàn tay ra, thầy thả một con kiến mà thầy
nhặt đâu đó, sai Thạnh đem thả ra bải cỏ ngoài sân.Thầy đem theo thức ăn trưa.
Có một con chó hoang đói khát, ốm yếu còn da bọc xương, lông sần sùi gớm ghiết
đến quanh quẩn bên thầy Hai khi thầy dùng bửa. Thay vì đuổi đi thì thầy cho nó thức ăn, và tiếp-tục
như vậy cho nên sau này chó trở nên mập mạp, lông mướt rượt rất dễ thương. Khi
ra tỉnh học, tôi có dịp đến viếng nhà thầy, lúc bấy giờ ở dảy phố xưa- ngang Bungalo, nhà thầy nuôi đầy mèo ..có đến cở một tá.
Theo dòng đời trôi nổi,… đến sau 1975 thì thầy tá-túc trước nhà của môn sinh cũ
của thầy là Giáo sư Hồ Văn Chính, bạn học của tôi.
Tôi học lớp nhất với thầy Hòa. Thầy dạy rất tận-tâm,
nghiêm-khắc, nghiêm-khắc đến độ có vẻ...”dữ-dội”: khẻ tay, hít đất, “thụt dầu”…
là chuyện thường. Hình phạt mà tôi sợ nhất là “há miệng, chống hai hàm răng bởi
cục phấn( đo và được bẻ ngắn cho vừa)”. Dù thế nào thế-hệ học-sinh chúng tôi sợ
thầy nhưng luôn kính thương, biết ơn thầy suốt đời. Chính vì với sự nghiêm-khắc
ấy, thầy đã đào-tạo nhiều học-sinh giỏi, những con người có ích cho xã-hội sau
này.
Niên-khoá 1953-1954, tỉ-số học-sinh đậu bằng Tiểu-học
rất cao và có hai học-sinh trúng tuyển vào lớp đệ thất ở Collège de Vĩnh-Long (sau là Trung-học
Nguyễn Thông rồi Tống Phước Hiệp).
Cuối-cùng, tôi muốn nhắc đến thầy Mạnh. Phải nói ngay
rằng thầy là một ân-nhân vĩ-đại của tôi trên con đường học-hành hướng ra tỉnh
lỵ. Tôi và một số học-sinh ở vùng quê, không quen biết ai ở ngoài thành, nên
khi đi thi tiểu-học không nơi tạm trú thì thầy đã dang tay mở cửa nhà của thầy
để đón chúng tôi.Thầy cho chúng tôi nơi ăn chốn ở, hướng-dẫn mọi chuyện và ban
cho tình thương bao la. Sau kỳ thi Tiểu-học thì đến kỳ thi Đệ thất, tôi…lại đến
nhờ vả thầy lần nữa, thầy vẫn vui lòng giúp-đở. Lúc bấy giờ nhà thầy ở cuối
đường Petrus Ký(?), phía sau nhà là “Đất thánh Nam ”.
Để được nên người, những vị thầy Tiểu-học đã xây nền
móng vững chắc cho sự học-vấn của học-sinh mình; chẳng những thế những người
thầy của tôi đã làm thiên-chức với tình thương tuyệt-vời. Là học-sinh cuả Quý thầy
nếu không nhớ ơn, kính-yêu thì là người không xứng-đáng làm người.
Tôi cũng muốn ghi lại đây vài kỷ-niệm nho nhỏ khác
nữa.
Ở cùng xóm đi học cùng trường có bốn người: Đỗ Văn Mậu
(chú họ của tôi:chú Tám), Trần Văn Bé (anh họ của tôi: Hai Bé), Nguyễn Phú
Thạnh (Năm Thạnh) và tôi.
Nhà chúng tôi cách trường khoảng năm cây số nhưng đến
trường rất khó khăn. Dạo đó câu “ngăn sông cách chợ” bà con hay nói đến vì lẽ
đường bộ bị gài chông, lựu đạn bởi Việt Minh nên người ta chỉ di-chuyển bằng
đường sông. Gia-đình Cô Dượng Ba, song-thân của Thạnh khá-giả nhất xóm nên sắm
cho con một chiếc xuồng làm phương-tiện đi học. Nhờ lòng tốt của Cô Dượng (và
cả Phú Thạnh nữa), ba chúng tôi được quá giang đến trường.
Dưới bến sông nhà Thạnh có hàng sầu riêng và một “nhà
thủy tạ” (?) (loại cầu:sàn lót ván, hai
bên có băng ngồi chơi, có một cầu thang chúi xuống sông). Chúng tôi thường đến
đây thật sớm để sẳn sàng lên đường, không để Phú Thạnh chờ đợi sẽ… phiền lòng.
Có lần tôi vừa đến, sáng tinh sương mát rượi, hương hoa bưởi thoang thoảng
trong cơn gió nhẹ, một tiếng “bịt” phát ra ngay sau gót chân tôi, mát gáy: một
trái xoài riêng chín cây rụng; nếu sớm hơn một giây thì…Bạn ơi! Trái xoài riêng
rỏ to, gai chơm chởm nếu rớt ngay đầu…thì các bạn đoán ngay ra được chuyện gì sau
đó!
Và có những đêm trăng, đặc-biệt là trăng rằm, chúng
tôi thường họp mặt tại bến nước của nhà Phú Thạnh để đùa giởn, vui chơi.
Đối-diện chợ Ngã Tư, bên kia sông là “thành lính Tây” trước
hiệp-định Genève 1954. Có lần xuồng chúng tôi lướt ngang gần bến sông của thành
lính thì thấy một ‘thằng Tây” với vẻ mặt sợ hải, “xí xô xí xào” kêu đồng đội chỉ xuống đám cỏ
ven sông …Chúng tôi nghĩ anh này thấy rắn, ai ngờ chỉ là cọng cỏ bị “cuốn theo
dòng nước” nên khi thì đứng lên khi rạp xuống tùy theo sức mạnh của dòng nước chảy. Chúng tôi cười nấc nẻ và kháo
nhau “Tây gì mà ngu như ..bò!”.
Bơi xuồng đi học dạo đó còn có nhóm của Nho/Nhã,
Văn/Chương và Bích/Diệp. Nhóm của các anh chị này ở trong “ngọn” của sông An-Lương,
xa hơn nhóm chúng tôi. Mỗi lúc tan trường các nhóm “đua xuồng” trên dòng sông
nhỏ thân yêu, khi nước xuôi khi nước ngược vô-cùng náo-nhiệt vui vẻ…cho mau về
“tổ ấm”. Riêng nhóm chúng tôi chưa bao giờ bơi qua mặt nhóm người đẹp dù thừa
khả-năng: còn nhỏ nhưng biết “ga lăng” lắm lắm!!!
Anh Hai Bé, có lúc “tậu” được một chiếc xuồng cũ; khi
dùng thì một người bơi, một người tát nước vì xuồng nhiều lổ lủng được trám
bằng đất sét (không có tiền ăn hàng vặt thì tiền đâu mà mua sửa-chửa ). Quá
giang mãi cũng mắc cở nên hai anh em “lái” chiếc xuồng “cổ lổ xỉ’ này đi học.
Có hai chuyện đáng nhớ xãy ra lúc này. Chúng tôi thường đi học thật sớm.Vào một
trong những buổi sáng có trăng hạ tuần, sau khi thức dậy, chúng tôi vội-vàng đi
học vì thấy trời đã “sáng bét”. Khi đến đầu Kinh Mới, sắp rẽ phải ra sông Phú
Đức, đến cầu Ngả Tư hai bên có đồn canh của lính Tây, là đến chợ thì thấy
dòng sông vắng vẻ. Thường khi đến giờ Tây cho mở chợ thì ghe xuồng tấp nập. Như
vậy là còn quá sớm. Chúng tôi phải đậu xuồng lại, tay này tát nước tay kia đập
muổi mãi đến hai giờ sau mới có thể đến trường. Hoá ra vì trăng sáng hạ tuần,
sau giấc ngủ say nên " ba chớp ba nhoáng ",
cộng với tâm-trạng của người học-sinh “tốt”(!) sợ bị trể học nên xảy ra
cớ sự.
Và có lần trên đường đi học, chúng tôi bị một toán
commando ( lính Tây) chận lại. Chúng dọa nạt, kê súng vào lổ tai làm như sắp
bắn khiến chúng tôi sợ hãi vô cùng ( xin lỗi nếu tôi nói là sắp …xón... ra quần),
may là chúng chỉ đùa thôi. Sau đó chúng bắt anh Bé phải trèo hái dừa nạo cho
chúng giải khát; không rõ tại sao chúng không bắt tôi trèo dừa có lẽ vì tướng
thư sinh của tôi chăng?
Năm 2002 trở về thăm quê nội, tôi có gặp anh lúc bấy
giờ đã cằn cỗi lắm, sống cảnh túng bấn và tôi đâu ngờ đó là lần cuối gặp anh vì
vài năm sau anh đã ra người thiên cổ.
Chú Tám Mậu của tôi lập gia-đình sớm, lập nghiệp xứ xa
nên tôi không có dịp gặp lại cho đến những năm gần đây nghe tin chú cũng qua
đời.
“Bốn chàng ngự-lâm pháo-thủ nhà quê cởi xuồng” đi học
ngày nào giờ đây còn sót lại hai thằng: một xa xứ là tôi, một bám trụ quê nhà
là Năm Thạnh nay chắc cũng là một “đại gia”(?) thường giao-du với “FM đầu bạc”
Lê Bửu Trân (FM đầu bạc là súng liên thanh còn gọi là súng máy thời thực-dân Pháp/Việt
Minh. Xin lỗi chọc bạn cho vui nghe Trân). Hai bạn già này thường “kêu réo” tôi
về chơi trước khi đã trể, sẽ “bao” từ
đầu chí cuối (cái này …tôi gài độ đấy). Hẹn … “anh sẽ về”!
Nhân Thu Nguyệt gởi cho tôi tấm ảnh ngôi trường Tiểu-học Ngã Tư
Long-Hồ bây giờ khang-trang cũng vị-trí cũ sau hơn nửa thế-kỷ, dù hình ảnh ngôi trường
ngày xưa chỉ còn trong ký-ức, nhưng ngôi trường hôm nay vẫn cho tôi sự ấm-áp
lẫn với niềm vui trong sư phát-triển ở quê mình, thúc đẩy tôi ghi lại đây những
hoài-niệm này.
Nhiều người nói mấy ông già tối/ngày cứ nói ba chuyện đời
xưa thật chán mớ đời!Thôi thì nói cho vui: “Dĩ-vãng là kho tàng dồi-dào, quý
giá được chắt chiu dành dụm bấy lâu đối với người lớn tuổi, khi chờ con đò Tử
Sinh trở lại rước qua sông”, chúng tôi hào phóng lấy ra xài “thả cửa”,
đem chia sớt với mọi người không dè xẻn, nếu bạn hữu … chê xin cứ “tự
nhiên”…ngó chỗ khác, còn trái lại thì khổ chủ vô-cùng cám ơn.
Anh Tú(NHA)
June 26, 2011
June 26, 2011