A-HÀ TIÊN VÀ TÔI
Đến và đi, một thầy Hòa trong ký ức của bè bạn và
học trò.
Cũng như ý nghĩ của thầy cô và các em, Hà Tiên xưa với địa danh, con
đường góc phố cùng con người và sự kiện đều là dấu kỷ niệm của
mỗi người. Nên chi đã cùng nhau làm sống lại một thời của quá khứ
đúng là điều tuyệt vời như các “anh em” trong trang blog Hà Tiên Xưa đã
làm. Hôm nay, tôi xin góp phần, mong các bạn đón nhận.
Cuộc sống của chúng ta vốn dĩ luôn biến động và
đổi thay. Nhưng thật là may mắn, chúng ta còn đây như là chứng nhân và
đang sống “người góc bể kẻ chân trời” nhưng nếu cùng hướng về, ta sẽ
gặp lại nhau dù chỉ là trên trang giấy, phải không?
Thế nên để mở đầu tôi ghi lại đây đôi dòng về thuở tôi mới đến Hà
Tiên, thời gian lưu lại và rời xa cho đến tận bây giờ như Mãnh, Patrice
Trần, đã đề nghị để cho “mọi người” có được thông tin về tôi.
Một chút về tôi:
– Đến thị trấn Hà Tiên đúng 12 giờ 05 ngày 17/08/1964 bằng xe đò Rạch
Giá-Hà Tiên. Lúc đó trời đang nắng bỗng đổ mưa mây. (Mưa phủ khắp
thành phố bên kia bờ sông; đó là hình ảnh đẹp đầu tiên trước mắt
tôi).
– Sau vài ngày phép, tôi đến nhận lớp tại trường Sơ cấp Lộc Trĩ Mũi
Nai. Lúc đó thầy Thành, người Hà Tiên, làm Trưởng giáo. Đứng lớp hai
năm, tôi được thuyên chuyển ra Tiểu Học Thị Trấn Hà Tiên. Lại đứng
lớp gần hai năm cho tới cuối đông 1967 tôi rời Hà Tiên và nhập ngũ
cùng lúc với thầy Nguyễn Hồng Ẩn.
Trong thời gian đứng lớp tại trường này, tôi có dạy một số giờ gọi
là “phụ trội” môn Toán tại Trung Học Hà Tiên. Nhưng sau đó hơn hai
tháng, tôi dành hết thời gian cho chương trình học tập mới. Nhân duyên
với Trung học Hà Tiên ngắn ngủi thôi, nhưng thật ra tôi cũng có đôi
chút kỷ niệm đẹp.
B- CHUYẾN XE KHÁCH VÀO ĐỜI.
Tôi còn nhớ lúc đó là ngày 17/08/1964…..
Xe đò nổ máy, thì ra tôi đã chờ hơn bốn mươi lăm phút chỉ vì muốn được ngồi
trên băng ghế ngang bác tài. Hành trang của tôi, ngoài chiếc vali bằng gỗ thông
còn có thêm hai bản nhạc mới mua đêm qua tại một hiệu sách. Đó là bản “EM ƠI
ĐỪNG ĐẾN NỮA & HAI LỐI MỘNG “ của Khánh Băng.
Rạch Giá là thành phố biển nên hương vị muối mặn và cái lạnh của gió biển thật
là ấn tượng.
Sau hơn hai mươi phút rời bến, xe băng qua cánh đồng rộng, hai bên đường thưa
thớt những mái nhà lá , nhà tranh. Một con kinh nước không sâu, chạy dài theo
lộ xe mà ít thấy ghe tàu qua lại.
Ngồi bên cạnh tài xế, nên tôi có dịp nhìn ngắm khoảng không gian mênh mông
trước mặt. Buổi sáng hôm đó, trời rất đẹp, rực nắng vàng. Đường vắng và đôi khi
có chỗ gập ghềnh đá, làm xe bị rung lắc kẻo kẹt như khi qua những cây cầu sắt
lát ván có từ thời Pháp thuộc. Những cây cầu sắt này được canh giữ cẩn thận bởi
lính canh trong đồn có kẽm gai được xây đắp ở hai phía đầu cầu.
Thỉnh thoảng có chiếc xe khách ngược chiều; lúc bấy giờ chưa có xe Honda.
Ngồi trên chiếc xe phon phon chạy, tôi thấy mình vui hẳn lên và bật ra lời ca
với bản nhạc trên tay; tôi thì thầm hát , quên cả mọi người xung quanh khiến
chú tài xế mỉm cười thông cảm.
Sau đó bác tài vui vẻ hỏi tôi: “Đây là lần đầu thầy đến Hà Tiên, phải không ?”
Tôi vui vẻ đáp lời là “phải”, và từ đó tôi có được một hướng dẫn viên rất dễ
thương. Chú ấy chắc hơn tôi chừng một con giáp.
Khi qua địa danh tên là Hòn Đất, tôi mới thấy được dáng núi thật xa về phía
tây. Chẳng mấy chốc sau, tôi lại thấy dáng mờ sừng sững của ngọn núi Sập về
phía phải của con đường. Điều gì tôi hỏi, chú tài xế đều chỉ dẫn hết. Đây là
lần đầu tiên tôi thấy núi dù là từ phía xa. Còn biển! Chú tài xế bảo, chút nữa
thầy sẽ thấy núi và biển kề bên khi ta qua khỏi Kiên Lương.
Xe vào thị trấn Kiên Lương. Vậy là ta đã vượt qua đoạn đường khoảng 60 km.
Xe dừng lại, có lẽ là ngang chợ. Tôi cũng xuống xe. Hàng cây sao bên lề đường
được trồng từ thời Pháp thuộc, có vẻ cằn cỗi vì bám rễ vào lề đá. Đoạn này, mặt
đường trải đá cũng từ thời Pháp nay vẫn còn nguyên; cho nên hàng cây sao và
đoạn đường này là dấu tích còn lại của một quá khứ khi xứ ta là một thuộc địa.
Nghỉ xả hơi được chừng 10 phút, mọi người lên xe. Băng qua đoạn đường “bụi bậm”
chẳng mấy chốc tôi thấy biển và ghe tàu đánh cá neo đậu trong kinh rạch. Mùi cá
khô phảng phất trong gió. Đây là cụm dân cư đánh bắt cá biển. Nhà cửa hầu hết
là “nhà tranh vách lá“.
Xe lại dừng giây lát rồi tiếp tục lăn bánh. Khi xe rẽ phải, băng qua cây cầu đá
là ta trực chỉ Hà Tiên, bỏ lại phía sau là thị trấn Kiên Lương.
Đoạn đường này khá đẹp, bằng phẵng, có rừng cây nấm, cây đước ở phía tây, phía
đông là những vuông ruộng muối. Vùng đất này bị ngập mặn và phèn chua nên cỏ
trong đồng cũng không được tốt. Qua cánh đồng muối là cánh đồng lúa xanh rờn.
Xa hơn nữa là những dãy núi. Cảnh ở đây đẹp như một bức tranh mùa thu.
C-SÓNG VỖ ÀO ÀO, MÕM NÚI GẬP GỀNH, HÀNG DỪA XANH
LỘNG GIÓ
Đó là khoảng đường từ xã Dương Hoà đến xã Thuận Yên, một
cảnh quan đẹp mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Bởi từ thuở bé tôi sống ở làng
quê. Ruộng đồng là nơi ở, là nơi tôi cùng cha mẹ trốn giặc Pháp qua gần hết
thời thơ ấu.
Khi được “ra chợ” học là tôi đã 12 tuổi rồi. Kể từ đó tôi đã trải qua 10 năm
học để tốt nghiệp trung học và hai năm tiếp theo ở trường Sư Phạm; cho nên tôi
nào có dịp đi đó đi đây. Thời của tôi là như thế đó. Chiến tranh và bom đạn,
chạy giặc và học hành. Hôm nay chuyến xe này như là chuyến du lịch đầu tiên của
tôi. Bởi vậy trong tôi có nhiều thay đổi trước khung trời bao la của núi rừng,
của biển cả.
Qua khỏi xã Thuận Yên một đổi, chú tài xế thông báo “Thầy ơi! Sắp tới bến đò Tô
Châu, thầy phải xuống xe qua phà, xe này không qua được vì ponton quay đã hư từ
lâu rồi“. Qua khỏi xã Thuận Yên, con đường chạy dọc theo chân núi Tô Châu tiến
thẳng đến bến phà và tôi thấy thị trấn Hà Tiên bên kia bờ sông mênh mông nước.
Xe dừng lại, tôi xem đồng hồ, vừa đúng 12 giờ 05. Mọi người đều xuống xe và
nhận hành lý. Lúc đó tôi mới thấy được những người đồng hành với mình trong
chuyến đi, phần đông là thương nhân xuôi ngược, đưa hàng qua lại giữa Hà Tiên –
Rạch Giá. Cũng có người ăn mặc chỉnh tề, chừng như họ là cư dân Hà Tiên hay là
những viên chức như tôi vậy!
Tôi vừa đở lấy chiếc vali từ mui xe và đưa vào lề đường thì trời bỗng đổ mưa
mây, mưa giữa lúc bầu trời hãy còn nắng, thật đẹp nhất là nhìn qua thành phố
bên kia mờ ảo trong mưa. Thiên nhiên là như thế đó. Rồi một ý nghĩ chợt đến:
đợi một chuyến xe, mất không hơn một giờ mà hành trình thật là thi vị, tuyệt
vời: bởi được đứng tại đây và vào giờ này thì mới thấy được hình ảnh đẹp của Hà
Tiên trong mưa. Rồi lại thêm một ý nghĩ bất chợt : dòng đời ta đi, thong thả
thôi có gì đâu mà vội!
D-BẾN ĐÒ TÔ CHÂU
-Một bữa
ăn trưa tại vùng đất mới làm quen.
Tôi ngồi vào bàn một quán cơm bên đường. Tôi chọn món ăn
theo lời giới thiệu của bác chủ quán. Khi đó trên đường đã thưa người, tốp
xuống phà, tốp lên xe. Nhìn quanh tôi chỉ thấy dăm bảy quán đơn sơ, dọc theo
con lộ đá, dẩn ra ponton phà. Một bên là rừng lá bạt ngàn (dọc bờ sông tiếp
giáp với cửa biển) một bên là dãy nhà có quán nước và quán ăn mà phía sau là
vách núi Tô Châu. Với hàng quán đơn sơ, sự buôn bán ở đây có lẽ chỉ phục vụ cho
khách qua đường là chánh. Đang tìm hiểu thì thức ăn được mang ra: canh rong
biển, cá biển kho nghệ và món thịt heo xào.
Chú tài xế xe khách giới thiệu quán cơm này và chú đã đi tìm chỗ nghỉ trưa rồi.
Trong quán chỉ còn dăm ba thực khách.
Khi ăn xong chén canh rong biển, tôi bới cơm và dẻ cá tiếp tục. Cơm và cá kho
nghệ đã vào miệng, thế mà tôi không thể nhai, không thể nuốt mà lại không thể
nhả ra liền, thật là kinh khủng! Tôi chỉ biết bụm miệng với hai bàn tay. Cô gái
dọn bàn tinh ý nhìn thấy: “Bộ thầy ăn cá không được hả?”
Tôi không còn nghe thấy gì nữa mà chạy qua bên kia đường. Kinh khủng quá! Khi
trở lại bàn ăn, tôi thấy có nhiều cái nhìn và cười tội nghiệp. Bác chủ quán
nhìn tôi và nói lời đề nghị đổi món cá kho nghệ cho tôi. Tôi cảm nhận sự ân cần
của bác ấy và thấy hai món còn lại là đủ rồi nên nói lời cám ơn và tiếp tục bữa
ăn. Cầm ly nước trà trên tay, tôi cảm nhận một điều, tất cả món ăn đều mang gia
vị (hương vị) của địa phương (nầy) và người phương xa phải dần dần thích nghi
mới được!
-Qua phà.
Sau bữa cơm, tôi bách bộ trên đường, ngược về phía
chân núi, ngắm nhìn, rồi trở lại; chưa thấy có tín hiệu gì của mùa
thu ở đây.
Phà cập bến, tôi liền trở lại quán ăn, chú phụ khuân vác cùng chiếc
rương đang đứng chờ, chú ấy sẽ mang hành lý qua bên kia bến phà và
đưa tôi về khách sạn, như vậy rất thuận tiện cho tôi. Khoảng đường
phúc chốc đã đông người, kẻ đứng người đi. Đến lượt tôi theo dòng
người xuống phà và tôi nhận ra cái ponton quay nhưng đã hư. Đây là
phương tiện xe lên xuống phà. Khi mọi người đã tìm được cho mình một
chỗ đứng, phà lui ra và vượt sông. Tôi hít thở gió biển và ngắm
nhìn. Giờ này thành phố Hà Tiên đang trước mặt tôi và sẽ trong tim
tôi, nếu mai này tôi không còn lưu lại nơi đây.
Phà cặp bến, tôi theo dòng người lần lượt lên bờ và kết thúc hành
trình 90 km đường dài.
Chú khuân vác đã trở thành người phu xe lôi và chiếc vali của tôi
cũng được chú ấy để lên xe rồi. Trên bến đò giờ này rất nhộn nhịp,
hàng hóa, khuân vác, mang xách, xe lôi đạp và xe lam. Ai nấy cũng đều
hối hả. Tôi cũng thấy thấm mệt, nên như mọi người tôi lên xe, tựa lưng
vào nệm, chân gát lên vali. Xe lăn bánh. Tôi hít thở liên tiếp những
hơi dài, người khoan khoái cảm nhận những thay đổi trong tâm: tôi đang
là một viên chức, tôi được đổi mới và bỏ lại phía sau cái thời học
trò của mình. Bất chợt mùi cá chết, mùi cá khô làm tôi nhận ra xe
mình vừa tới chợ cá Hà Tiên, sân ngoài bề bộn rác. Dù vui ngắm
nhìn bên ngoài, nhưng tôi cũng cảm thấy mình khoẻ hẳn ra; còn “bác
tài”, người có dáng gầy nhưng rắn rỏi nên chiếc xe lăn bánh nhẹ
nhàng trên đường .
Đường Trần Hầu chạy dọc theo bờ sông rộng, phía bờ
bên kia là rừng lá bạt ngàn. Xe qua khách sạn Vân Tiên không xa, “bác
tài” vừa cho xe chậm lại vừa nói: « Thầy ơi, tới khách sạn rồi”
. Vậy là đi đoạn đường này chỉ mất khoảng 20 phút và bây giờ mới
thực sự kết thúc hành trình.
E- ĐÊM TRỌ TẠI KHÁCH SẠN LÂM VĂN CAO
- Khách sạn và bữa cơm chiều đầu tiên tại
thị trấn biên cương.
Người quản lý tiếp tôi tại phòng khách bên hông
khách sạn. Sau khi làm thủ tục, tôi được hướng dẫn đến một phòng trên
dãy lầu phía sau. Đó là một căn phòng khá rộng, một giường đôi và
một cái bàn mà trên đó có một cái đèn bão. Quan sát khắp phòng,
tôi nói với người quản lý: ”Sao phòng nầy hôi mốc quá vậy, chú?”. Để
trả lời tôi, chú ấy diễn giải rằng: ”Vài năm trở lại đây không có
khách trọ, thầy ạ. Mấy khách sạn khác cũng vậy. Tối nay thầy dùng
cái đèn bão này bởi khách sạn không có điện. Thầy cần hỏi thêm
điều gì không?”. Tôi chưa kịp trả lời thì chú ấy nó tiếp: ”Nếu không
có gì thì tôi xin kiếu. Chúc thầy có giấc ngủ trưa an lành”. Chú ấy
nói một mạch như thế rồi lui ra. Tôi vẫn để cửa mở cho gió thoảng
làm bớt mùi mốc và ẩm ướt trong phòng, rồi ngả lưng trên giường
đánh một giấc.
Khi chợt tỉnh sau một giấc ngủ thật say, người cảm thấy hưng phấn tôi
liền bật dậy với ý nghĩ đi tìm người bạn theo lời chỉ dẫn của chú
xe lôi đạp. Thế là sau khi làm vệ sinh thân thể, tôi mặc một bộ đồ
mới và xuống đường Nguyễn Thần Hiến cặp bên khách sạn.
Buổi chiều hôm đó có nắng hanh vàng thật đẹp, bầu trời trong xanh cao
thẳm và có gió ào ào thổi nhưng chừng như không phải là gió thu.
Vì là khách lạ mới đến nên tôi để mắt quan sát; phía trước khách
sạn có hai cây dừa trồng trên mé sông và phía bên kia bên kia bờ sông
rộng mênh mông là rừng lá trải dài từ bến đò Tô Châu đến biển. Nhìn
về phía tây dọc theo đường Trần Hầu là bến cá Cầu Câu, là nơi ghe
thuyền đánh bắt cá neo đậu. Ngược về hướng chợ là khách sạn Vân
Tiên kề bên khách sạn Lâm Văn Cao. Đây là cảnh quan tôi nhận ra chiều
hôm đó, ngày mai cũng có thể sẽ khác đi.
Tôi nghe trong gió thoảng có mùi cá khô, một mùi hết sức là đặc
trưng. Thế rồi tôi rảo bước tìm nhà thầy Châu trên đường Nguyễn Thần
Hiến. Dãy nhà hai bên đường đều có hàng rào bằng cây kiểng và mỗi
nhà đều có sân phơi trống thoáng. Đây cũng là biễu hiện ý nghĩa
cuộc sống ngăn nắp và bình yên của cư dân ở đây.
Đi một khoảng đường không xa, tôi tìm được nhà thầy Châu nhờ có hai
cây dừa cặp hàng rào cọ hoa dâm bụt. Cuộc hội ngộ thật là vui dù
chủ nhà và khách chưa có lần gặp nhau.
Tôi được anh chị Châu tiếp đón qua sự giới thiệu của anh Dư, bạn đồng
khóa với tôi. Câu chuyện hội ngộ được mở đầu bằng sự ngạc nhiên, sau
đó chúng tôi nói về trường sở, chỗ ăn ở cho những ngày sắp tới. Tôi
cũng được anh chị Châu mời ở lại dùng bữa cơm chiều với gia đình và
đề nghị tôi trả lại phòng khách sạn, đến trọ nhà anh chị đêm nay
cùng với anh Dư. Tôi có lời cám ơn lòng hiếu khách của anh chị Châu
và xin kiếu từ vì giờ này cũng gần sáu giờ chiều rồi.
Trở lại đường Trần Hầu, tôi đi thẳng ra chợ và đến quán cơm có một
số thực khách đang ăn. Bửa cơm này rất ngon miệng dù cũng chỉ với
các món canh, thịt kho và cá chiên. Có lẽ đo tài nấu nướng của đầu
bếp và vừa lúc tôi bị đói. Nhìn quanh trong khu chợ, chỉ có vài
hàng quán bán cơm và rượu bia; bàn ghế cũng được bày hẳn ra lề
đường. Người đi lại, thực khách, đèn đuốc và hàng quán làm cho bến
chợ về đêm bớt vắng vẻ. Khi màn đêm xuống, đèn điện cũng không được
sáng lắm. Tôi không thấy có người quen nên vừa ăn xong là tôi rời
quán, lang thang một chút để biết Hà Tiên về đêm.
Tôi rảo bước mà chưa định hướng được mình đi đâu, cứ đi như là một
khách lạ lang thang vậy thôi, bởi tôi chưa biết được đường nào khác
ngoài bến đò, sân chợ và đường Trần Hầu. Dưới ánh trăng mờ và gió
lạnh, bổng dưng tôi thấy nhớ nhà, nhớ mẹ và anh chị tôi, rồi một
niềm bâng khuâng làm thẩn thờ cả bước đi. Nhưng mọi sự rồi cũng trôi
qua. Tôi tự nhủ mình phải sống một cuộc đời như thế nào đây? Đã đến
lúc mình phải tự lập rồi.
Nhớ lại quá khứ, nhất là giai đoạn học tập ở trường Sư Phạm. Thời
gian này tôi có được cơ hội học tập, nghiên cứu âm nhạc, hội họa và
cả thi ca từ đó mà phát sinh ra những đam mê và giờ đây trong tôi có
đủ mọi thứ hành trang kể cả một tấm thân đạt đ̣ến mức hoàn chỉnh
của một thanh niên, trạng thái tâm lý cũng thế nhất là những cảm
xúc. Vậy là: “Ta đến một khung trời mới với một con người chừng như
mạnh mẽ hơn và dấn thân hơn”!.
Những dòng suy tư này đã chiếm một nửa thời gian của một buổi tối
đầu tiên dạo phố. Tôi về đến khách sạn khoảng hai mươi giờ. Sau khi
uống một tách trà nóng và trò chuyện xã giao với chú quản lý, tôi
trở về phòng nghỉ ngơi.
-Đêm chập
chờn với “hình ma bóng quỷ” *
Tôi đóng cửa phòng, nằm hít thở mùi ẩm mốc thoang
thoảng. Bởi còn có những ý nghĩ nên giấc ngủ chưa đến. Bây giờ và
ở đây tôi đang đối diện với một thực tế cô đơn và âu lo. Hơn một giờ
trôi qua, nằm trăn trở trên nệm giường lạnh lẽo mà vẩn chưa ngủ được.
Tôi tung chăn, ra khỏi phòng và bước ra hành lang phía trước. Tựa trên
thành lan can, tôi nhìn bóng đêm lờ mờ trong ánh trăng lu, nghe gió
thổi và tiếng sóng gào. Đặc biệt là tiếng chim én. Chúng bay lượn
thành đàn, bay lượn sát cả mái hiên trước mặt tôi, chừng như đưa tay
ra là đụng vào chúng. Đêm trở nên bao la hơn cùng với mặt nước mênh
mông loang loáng ánh trăng. Đây là một bức tranh về đêm của Hà Tiên,
xứ thơ vốn nổi tiếng với Tao Đàn Chiêu Anh Các, với Dì Tự, với Đông
Hồ, Tương Phố! Rất đáng tiếc khi tôi đứng ̣đây chỉ có một mình. Nghĩ
gần rồi lại nghĩ xa, trời càng về khuya gió càng lạnh nên tôi trở
về phòng. Đã gần một giờ khuya rồi.
Nhìn lối đi dẫn đến phòng tôi cảm thấy ớn lạnh. Tất cả chìm trong
bóng tối và không có khách trọ thứ hai nào trên cái tầng lầu xa lạ
nầy kể cả trong khách sạn. Nhưng dù sao tôi cũng phải trở về phòng
ngủ và đóng cửa lại thì ổn hơn là đứng ở đây. Thế là tôi lấy hết
can đảm vượt qua vùng bóng tối, mở cửa phòng, vào và đóng sập lại,
cài then, móc khoá cẩn thận.
Nằm trên giường, kéo chăn trùm kín người, tôi lắng nghe cái gì đó
trong đêm. Tất cả vẫn vắng lặng im lìm. Đắp chăn nhưng tôi thấy lạnh
lẽo khác thường; chăn nệm lạnh tanh, tay chân tôi cũng quá lạnh. Bất
chợt một nỗi lo sợ làm tôi phát run trước một ảo ảnh chập chờn lấp
ló trong phòng. Tôi tung chăn và xách đèn bão xuống cầu thang tìm anh
quản lý. Nhưng hởi ơi! Chú ấy không có ở trong phòng, chú đã khóa
cửa và rời khách sạn từ lúc nào rồi. Vậy là bây giờ chỉ có mỗi
một mình tôi trong cái khách sạn xa lạ này, khiếp thật. Tôi tức tốc
vọt lên cầu thang với cái đèn bão trong tay và nhanh chóng chui vào
phòng, đóng cửa cài then lại. Nhìn cái đèn bão, tôi thấy dầu chỉ
còn một nửa. Nếu tôi vặn đèn sáng lên thì dầu sẽ hết sớm, đèn
tắt, còn để mập mờ thì tôi sợ bóng chập chờn cuối phòng. Cho nên
tôi quyết định kiểm tra góc phòng, gầm giường, cả dưới cái bàn nữa;
tất cả đều trống không.
Tạm yên đôi chút, tôi trở lại giường và kéo chăn đắp kín người. Cả
giờ trôi qua mà tôi không ngủ được. Tôi bị một ám ảnh ghê rợn về
hình ảnh của một con quỷ cụt đầu, con ma đói với đôi mắt trừng
trừng, rồi con quỷ cái xỏa tóc. Tôi cố xua tan tất cả để tìm giấc
ngủ nhưng không thể. Tôi tự hỏi bây giờ phải làm sao đây? Chạy ra hành
lan kêu cứu chăng? Không thể làm như thế được bởi tôi là khách lạ
xuất hiện trong đêm khuya này. Bị dồn vào thế bí, chỉ còn cách tự
tin vào mình thôi để có thể đối diện với một sự thật: có quỷ có ma
thật không hay chỉ là hình ma bóng quế có từ tâm mình!
Tôi ngồi phắt dậy trên mép giường, một chân chống sàn, hai tay chống
trên mép giường trong tư thế sẵn sàng và tôi dõng dạc khiêu khích: Tao
đây, tao đã sẵn sàng. Con ma quái nào? Chúng mầy hiện hình trước mặt
tao đi để “ta” xem mặt mũi chúng mầy ra sao? Thế nào? Có nghe thấy lời
tao không? Chúng mầy có gan thì hiện hình ra đi. Tao thách chúng mầy
đấy, có nghe thấy tao nói không?
Mạnh giọng như thế tôi thấy bừng dậy trong lòng một sức mạnh và sẵn
sàng đối diện với mọi tình huống. Nhưng tim tôi lại đập thình thịch
và nhanh quá. Ánh sáng của cái đèn bão trên bàn có thể giúp tôi
quan sát và chờ đợi mọi động tịnh. Thời gian nặng nề trôi qua, mọi
sự vẫn im lìm, “lạnh ngắt như tờ”. Tôi tiếp tục thách thức một cách
dõng dạc :”Ta chờ ba phút nữa nếu chúng mầy không xuất hiện thì coi
như chúng mầy sợ tao hay chúng mầy là hư ảo, chúng mầy không có thật
trong khách sạn này”. Tôi lẩm bẩm như thế và đợi chờ: một phút, rồi
hai phút, ba phút trôi qua … không có gì cả. Tôi thấy nhẹ nhõm. Thế
là tôi quả quyết thực sự không có con ma con quỷ nào cả, chính niềm
tin này làm dịu lại sự căng thẳng quá mức trong tôi. Sau một lúc yên
lặng là sự bình tỉnh trở lại. Đây là vấn đề liên hệ đến ấn tượng
tâm linh. Giờ đây nghĩ lại nếu rơi vào trường hợp tương tự, tôi không
thể không sợ hãi.
Tôi ngả lưng xuống giường và thiếp đi trong mệt mỏi.
Sáng dậy rất trễ và hãy còn mệt mỏi, tôi vội xuống chất vấn ông
quản lý:
– Hồi hôm sao ông bỏ tôi một mình trong khách sạn này vậy?
– Xin lỗi thầy. Bởi chiều qua vợ tôi bị bịnh, hay tin lúc đưa thầy lên
nhận phòng và tôi phải tức tốc trở về nhà. Khi trở lại thì thấy
thầy đã ngủ nên tôi lại về nhà.
Nói về “hình ma bóng quế”: đó là ấn tượng mà tôi đã có từ thời
thơ ấu qua những lần đi coi « lên đồng”, “múa bóng” để chữa bịnh
tà, ma quỷ xuất hiện lúc đó và đó là quyền lực của cõi âm mà gia
chủ phải cầu xin.
Huỳnh Văn Hòa
August 1st, 2020
*Phần này được viết sau một chuyến về thăm lại Hà Tiên và đi ngang
khách sạn Lâm Văn Cao. Lúc đó sông Hà Tiên được san lấp hai bên bờ và
nhà phố cũng đã có xây dựng. Sự đổi thay làm bồi hồi trong dạ nên
“khơi lại đóng tro tàn” ghi dấu kỷ niệm xưa của một đêm không ngủ.