2022/03/28

Đọc hồi ức của bà quả phụ Ngô Quang Trưởng

24/01/2022

Trần Thị Nguyệt Mai


Tôi rất hân hạnh được là một trong những độc giả đầu tiên khi cuốn sách “Tháng Ngày Qua” (*) – Hồi ức của Nhà văn Nguyễn Tường Nhung, chỉ mới là những trang bản thảo rời. Tác giả là trưởng nữ của Nhà văn Thạch Lam và cũng là phu nhân của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, một trong những vị tướng lãnh xuất sắc và trong sạch của Quân Lực VNCH. Cuốn sách hé mở cho chúng ta rõ hơn không chỉ về thân thế của hai gia đình rất nổi tiếng - Thạch Lam và Ngô Quang Trưởng - mà còn như một cuốn phim quay lại hình ảnh xã hội thời kỳ chiến tranh Việt Pháp và chiến tranh Việt Nam cận đại, hiển hiện nỗi khổ đau tận cùng khi mất mát cả tài sản lẫn những người thân yêu nhất trong đời, nỗi lo âu của người vợ lính khi chồng ra chiến trận và phút giây lãng mạn hạnh phúc khi chinh nhân trở về... Những ngày Tết Mậu Thân 1968 kinh hoàng thảm thương ở Huế cũng được ghi lại một cách sống động.

Hình bìa hồi ức Tháng Ngày Qua.
Hình bìa hồi ức Tháng Ngày Qua.

Khi viết về văn chương Thạch Lam, nhà văn Mai Thảo đã dùng những lời ngợi khen đẹp nhất: “bút pháp chuốt lọc, trong sáng và chính xác nhất của văn xuôi tiền chiến” (1). “Bút pháp chính xác ông mãi mãi là một vinh dự cho tiếng Việt, theo ý tôi” (2). “Những trang tiểu thuyết đôn hậu và chứa chan tình cảm của Thạch Lam” (3) đã đi vào và ở mãi trong tâm hồn người đọc với Gió Lạnh Đầu Mùa, Nhà Mẹ Lê, Hai đứa trẻ, v.v... Đọc “Tháng Ngày Qua” càng thấy rõ hơn “văn chính là người”, để càng yêu mến Ông hơn.

Trong đậm sâu trí nhớ của tác giả ngày ấy, khi còn là một cô bé 6 tuổi, vẫn còn hiện rõ hình ảnh Bố Thạch Lam:

Bố tôi rất cao, da trắng hồng trông như lai Tây vậy. Ông hay mặc bộ vét màu kem nhạt may bằng hàng vải đũi, đầu luôn đội cái mũ phớt, chân đi giày tây, lúc nào cũng bóng loáng. Quần áo của bố tôi lúc nào cũng phải là thẳng tắp. Bố tôi rất ngăn nắp, thứ tự và rất quý sách. Ông có một tủ sách bìa mạ chữ vàng được xếp rất ngăn nắp. (sđd, tr. 20)

Và Mẹ, bà Thạch Lam, người vợ mà Ông rất yêu thương:

Mẹ tôi hơn bố tôi vài tuổi. Bà tuy hơi thấp so với bố tôi, nhưng bà rất đẹp và rất khéo chiều bố tôi. Bà hiểu rõ rất tỉ mỉ từng chi tiết, những sở thích của bố tôi và tôn trọng tất cả những gì mà bố tôi quyết định. Cà phê mà bố tôi uống mỗi buổi sáng phải chính tay mẹ tôi pha. (sđd, tr. 22)

Cô vẫn nhớ như in sở thích ăn uống rất giản dị của Bố:

Thức ăn bố tôi không đòi hỏi phải nhiều thịt, cá hay thịnh soạn, nhưng món gì cũng phải thật tinh khiết, sạch sẽ, bày cho gọn và đẹp mắt. Bố tôi thích những món ăn thanh như canh giò sống nấu rau ngót, cải xanh nấu cá rô, rau muống luộc, đậu hũ chiên tẩm hành lá hay cá chép rán vàng, và tuyệt đối không bao giờ được dọn món ăn mà đã dọn ăn ngày hôm trước. (sđd, tr. 23)

Cộng thêm thói quen đơn sơ nhưng rất hạnh phúc của Ông sau bữa cơm chiều:

Ăn cơm xong bố tôi có thói quen ra ngồi ngoài hiên trước nhà để ngắm cảnh. Tuy đã về chiều nhưng cũng còn một vài chiếc thuyền, trên chở những cặp tình nhân. Họ chèo thật chậm nhìn ngắm mặt trời lặn và thủ thỉ những lời âu yếm. Bố tôi lúc nào cũng rủ mẹ tôi ra cùng ngồi và trò chuyện tâm tình cùng mẹ. Bố tôi ít nói, nhưng khi nói thì đã diễn tả hết ý mình. (sđd, tr. 22)

Đặc biệt là tính thương người vô cùng tận của Ông, để thấy tại sao văn chương Thạch Lam cũng giống như người:

Bố tôi rất khó tính và ít khi cười nhưng lại rất thương người. Có thời gian nhà có một anh phu xe để kéo xe cho bố tôi đi làm hàng ngày. Nhưng khi trời mưa thì bố tôi bảo mưa ướt tội nghiệp, khi nắng thì bố tôi cũng bảo nóng quá kéo xe mệt, và thấy anh kéo xe đổ mồ hôi thì cũng không đành. Rút cuộc bố tôi lại đi xe ngoài để đi làm. (sđd, tr. 23)

Nhà văn Thạch Lam mất rất sớm lúc mới ngoài 30 tuổi, khi văn tài đang vào độ sung mãn. Ngày ấy tác giả chỉ mới 6 tuổi, có hai em trai, một lên 3 và một mới sinh được 3 ngày. Đang từ một cô bé được bố rất yêu chiều:

Tối nào sau khi ăn cơm xong bố tôi cũng gọi tôi vào phòng sách chỗ bố tôi ngồi hàng đêm để viết văn. Trên bàn viết của bố tôi ngoài những giấy, bút, đặc biệt có một lọ kẹo tây. Những viên kẹo đủ màu sắc hồng lạt, đỏ, xanh, trắng, đựng trong chiếc lọ bằng thủy tinh trông thật đẹp mắt và thật là muốn ăn. Bố tôi mở nắp lọ, mùi kẹo bay thật thơm. Bố tôi lấy ra cho tôi một cái... (sđd, tr. 23 & 24)

Cô trở thành đứa trẻ mồ côi cha. Sau đám tang vài tháng, bà nội tôi cho người lên Hà Nội đón mẹ và ba chị em chúng tôi về trại Cẩm GiàngTrại rộng hai mẫu tây, khang trang, nằm cách ga tàu hỏa khoảng hơn cây số. Hai cánh cổng chính của trại khá to, sơn màu xanh, giàn hoa tỉ muội màu hồng nhạt leo chung quanh (sđd, tr. 27). Từ đây, gia đình cô rời bỏ “căn nhà nhỏ nhưng rất thơ mộng ở tại đầu làng Yên Phụngay cạnh hồ Tây có cây liễu rủ, tàn liễu sà xuống gần mặt nước hồ... Đường từ ngoài vào làng toàn lót bằng gạch đỏ. Trên đường đi chỗ nào cũng nhìn thấy nước hồ... Đi sâu vào trong làng rất đẹp, hai bên là những hàng rào trồng bằng cây duối, được cắt thật bằng phẳng. Khi tới mùa quả duối chín vàng trông xa như những sợi tơ tằm óng ánh... Từ đó tôi chưa có dịp trở về lại làng Yên Phụ nữa” (sđd, tr. 25)

Hình ảnh Bà Nội, người Mẹ hiền sinh ra những người con thuộc nhóm khai sáng Tự Lực Văn Đoàn đã góp công rất lớn trong việc hiện đại hóa xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ XX qua báo chí và tiểu thuyết, với “tôn chỉ” được công bố trên báo Phong Hóa số 101 ngày 8 tháng 6 năm 1934 gồm 10 điểm, đúc kết lại trong nội dung: “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. Theo chủ nghĩa bình dân, không có tính cách trưởng giả quý phái. Tôn trọng tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa. Đem phương pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam” (4):

Bà Nội dáng người cao to, nước da trắng hồng, gò má hơi cao, đôi mắt sáng, sâu, trông như lai, toát ra một vẻ oai nghiêm cương nghị. Bà rất nghiêm khắc và ít khi cười. Nhưng khi bà cười thì nụ cười thật tươi, lộ hàm răng đen. Bà nói giọng Huế nghe hay hay và lạ. … Bà ăn uống cầu kỳ, kiểu cách. Bát ăn bằng men xanh trắng viền chỉ vàng, đũa ngà, mâm bằng đồng thau sáng loáng. Khi ăn phải từ tốn, thức ăn cũng phải sắp thứ tự, rau muống luộc để ra đĩa, cọng và lá không lẫn lộn, cắt ra làm hai, khi chấm chỉ vừa đụng vào nước chấm, cơm chỉ được xới một nửa bát... (sđd, tr. 30 & 31)

Bà rất kiên cường, thật giỏi, can đảm. Khi ông mất bà còn rất trẻ, chưa tới 40. Một tay bà phải chăm sóc mẹ chồng và bảy người con còn niên thiếu mà vốn liếng chỉ là một tiệm tạp hóa nhỏ, bán những thứ lặt vặt như kim chỉ, muối, đường, diêm, nến, vài lọ kẹo bột, kẹo gừng, v.v... lời lỗ chẳng được bao nhiêu. Nhưng nhờ vào việc cân gạo, cứ mỗi sáng sớm tinh mơ, những dân ở các làng lân cận đem gạo lên bán, từng gánh hoặc thúng có khi chỉ mươi đấu đựng trong cái bị đan bằng cói. Bà gom mua lại để bán lẻ, khách hàng là những gia đình nghèo sống rải rác quanh phố chợ. Nhờ tài quán xuyến bà đã cho các con ăn học... (sđd, tr. 32 & 33Một tay bà đã gây dựng được một gia đình làm rạng danh cho dòng họ, những văn tài đã để lại cho những thế hệ nối tiếp (sđd, tr. 46). Sau này, khi các con trai đã thành danh, bà xuống tóc xuất gia cửa Phật và ít khi về lại trại. (sđd, tr. 33)

Cuộc sống êm đềm yên ả chẳng bao lâu thì loạn lạc xảy ra, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Năm 1946, một đêm phố chợ Cẩm Giàng bùng lên bốc cháy, khói bay mù mịt cả một góc trời (sđd, tr. 82). Giữa đêm đang ngủ, U (là vú em, người nuôi cậu em kế) lay cô dậy để cùng Mẹ, hai em và U gánh gồng đi lánh nạn, đến tạm cư ở Xóm Đìa, cách Nhã Nam khoảng 5, 7 cây số, một xóm rất nghèo, chỉ có khoảng mươi căn, phần đông đều lợp bằng lá, và sống bằng ruộng nương nhưng là ruộng thuê lại gọi là cấy rẽ (sđd, tr. 35). Đến đây, U từ biệt về quê. Và cuộc đời của cô bắt đầu lật sang một trang mới với rất nhiều vất vả, khó khăn.

“Khi đến Xóm Đìa, vài nhà quanh xóm cũng đã có mấy người tản cư tá túc. Chúng tôi được chủ nhà tên Nhâm cho ở nhờ. Ông cho dọn dẹp cho chúng tôi ở nhờ trong cái kho nhỏ, thường để chứa những dụng cụ nhà nông như cuốc, xẻng, cày, bừa, dao liềm, v.v... và chỗ nằm của con vện đen. Cái kho lợp bằng rạ, vách trát bùn trộn rơm đã cũ, vách có nhiều lỗ thủng, cửa là cái phên đan bằng nứa có gắn một thanh tre để chống lên chống xuống. Bên trong, vẻn vẹn chỉ có một cái giường bằng gỗ vừa đủ cho bốn mẹ con nằm, bên cạnh giường kê ba hòn gạch chụm lại gọi là ông đồ bếp (theo ngôn ngữ lúc đó) để thổi nấu. Tắm rửa hàng ngày thì ra ngoài ao. Nước uống và nước thổi cơm thì phải vào tận cuối xóm gánh về; cả xóm đều dùng nước giếng ấy (sđd, tr. 35). Những ngày đầu thật bỡ ngỡ. Một khung cảnh quá cách biệt. Chúng tôi như rơi vào một cơn ác mộng. Căn nhà kho chứa đồ vật dụng bẩn thỉu, chật hẹp, một chỗ thua cả chuồng chó ở trại Cẩm Giàng của gia đình chúng tôi (sđd, tr. 64). Mùa đông đến đem theo hơi lạnh, gió rét của miền rừng núi. Bốn mẹ con co ro trên một cái phản gỗ, đắp một cái chiếu cũng đã cũ. Mẹ đầu bên này, tôi đầu bên kia, kéo qua kéo lại. Con ấm thì mẹ lạnh và ngược lại. Hai cậu em thì còn nhỏ ngủ vô tư. (sđd, tr. 69).

Những năm đầu Mẹ còn có chút tiền đem theo, chúng tôi có cơm gạo trắng, có chút ít thịt, cá (sđd, tr. 64). Đến khi hết tiền và bán đi tất cả những thứ đã mang theo, thì Mẹ sắp xếp cho tôi theo mấy cô trong xóm đi buôn cà chua và su hào, mỗi tuần hai phiên chợ ngoài thị trấn Nhã NamPhải dậy từ sáng tinh mơ vào vườn cà chua hoặc su hào họ đã hái sẵn rồi tùy sức của mỗi người gánh được nhiều hay ít... tiền lãi cũng tạm để mua gạo có cơm trộn khoai hay sắn. Các em thì vào rừng nhặt củi khô và nấm hạt dẻ (sđd, tr. 36). Thấy con quá vất vả mà chẳng kiếm được bao nhiêu, nên khi được chủ nhà cho mượn toàn bộ đồ nghề và có người cho mua thóc chịu, hai mẹ con chuyển qua nghề làm hàng xáo, tức là xay thóc, sàng bỏ trấu đi. Sau đó bỏ vào cối giã rồi vần, sảy cho cám và tấm rớt ra (sđd, tr. 67) cũng cực nhọc nhưng “lãi được tấm để ăn, cám bán lấy tiền mua rau, muối, tương, cà. Nếu được thóc tốt thì thừa ra một ít gạo. Những lần như vậy mấy mẹ con mừng lắm, nhưng cũng phải độn thêm khoai hoặc sắn. Khi mùa gặt đến chúng tôi đi mót lúa... Thỉnh thoảng tôi đi theo mấy đứa bạn đi hôi cá... Từ khi mẹ hết tiền chưa hôm nào được ăn no và được ăn không độn. Thịt lợn, thịt bò thì xa lánh hẳn, gặp mùa gà bị toi là lúc mới thấy mùi gà.

...

Ngày tháng vẫn trôi qua. Mẹ tôi không dám tự mình hồi cư vì mịt mù tin tức, sợ bị Tây bắt. Thấm thoắt đã gần ba năm, chị em chúng tôi mỗi người chỉ có hai bộ áo quần đã rách tả tơi (sđd, tr. 37).

Trong lúc ấy, Bà Nội rất lo lắng vì từ khi chạy tản cư đã gần ba năm mấy mẹ con chúng tôi biệt vô âm tín, nên thuê người đi tìm mẹ con chúng tôi (sđd, tr. 38). Bà Nội đã giữ gìn cho các cháu: Nếu không có Bà Nội có thể tôi đã là một nữ cán bộ và các em có thể là bộ đội hay bệnh hoạn vùi thây nơi rừng thiêng nước độc này! (sđd, tr. 39).

Về lại Phố Chợ Cẩm Giàng, gặp lại bạn cũ, cũng là lúc cô thật ngỡ ngàng không thể tin được. Một trang trại rộng lớn đẹp như thế ... bây giờ chỉ là bãi đất hoang.” Bạn cô cho biết, “Khi Việt Minh rút đi họ đã đốt, đập phá hủy tất cả những dinh thự họ gọi là tiêu thổ kháng chiến. Nghe nói vậy tôi ngẩn ngơ vì không hiểu tại sao Việt Minh lại làm như vậy. Phá mất đi một trang trại nổi tiếng là đẹp, nên khi những chuyến tàu chạy ngang đây có nhiều người giơ máy chụp ảnh, và tôi không còn được ở đây nữa. (sđd, tr. 41).

Bắt đầu từ khi rời khỏi trại Cẩm Giàng, líu ríu dắt ba đứa con chạy tản cư, hồi cư về thành, cơ nghiệp không còn gì. Mẹ rất nghèo, nhờ Bà Nội giúp một phần, mẹ tần tảo, bươn chải nuôi con ăn học (sđd, tr. 92). Và năm 1953 Bà Nội đã “đích thân đến nhà ông Thám (Tổng Giám đốc Bưu điện Việt Nam) để xin cho mẹ tôi một việc làm... Lương tuy thấp nhưng cũng đủ sống cả mấy mẹ con và lại có nhà ở hai buồng nhỏ, có bếp, bể chứa nước, trong cư xá Bưu điện đằng sau Nhà Hát Lớn, trước cửa Nhà Bác Cổ Hà Nội.” (sđd, tr. 46 & 47)

Sau này, người thiếu nữ ấy gặp Trung úy Ngô Quang Trưởng và khi kết hôn với nhau thì ông đã lên cấp Đại úy, Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 5 Nhảy Dù. Cuốn sách đã chia sẻ cuộc đời binh nghiệp của ông Ngô Quang Trưởng bắt đầu từ lúc này. “Anh tham gia trận chiến nhiều hơn làm việc ở văn phòng. Mỗi lần đi hai tới ba tuần mới trở lại đơn vị. Khi trở về anh đã gầy lại gầy hơn, mặt sạm đen, đôi khi bị nổi ngứa khắp cả người. (sđd, tr. 130). Sau đó, được “đổi về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đóng ở Sài Gòn (sđd, tr. 139). Khoảng thời gian này anh không phải ra trận liên miên như khi còn ở Tiểu Đoàn. Chỉ đi thị sát, và đôi lần anh phải bay ra miền Trung để cùng chỉ huy tham dự những trận đánh do quân Bắc Việt tấn công. (sđd, tr. 140)

Hơn một năm sau, “khoảng đầu năm 1966, ngay tại thành phố Huế, tình hình khá gay cấnDân chúng biểu tình chống đối chính quyền bằng cách đem bàn thờ Phật để ngoài đường phố... Anh được Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (UBHPTU) bổ nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1/BB, Bộ Tư Lệnh đóng tại Thành Nội Huế. (sđd, tr. 150)

Ở Huế 5 năm, Ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn 4 ở Cần Thơ và “rất bận rộn, thời gian ở trên trực thăng nhiều hơn dưới đất. Chỉnh đốn lại Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, thăm các tỉnh, các quận, đồn bót, v.v... (sđd, tr. 196)

Sau hơn hai năm trấn nhậm ở miền Nam hiền hòa, Anh nhận được lệnh thuyên chuyển không dự tính, không báo trước Tổng Thống bổ nhiệm làm Tư Lệnh Vùng 1 đóng ở Đà Nẵng... Đây là lần thứ tư đổi chỗ ở trong khoảng năm năm. (sđd, tr. 201 & 202)

Tác giả đã ghi lại những diễn biến trong hai tháng cuối cùng của nền Đệ Nhị Cộng Hòa mà bà là một chứng nhân. Qua người tùy viên, chúng ta thấy được hình ảnh của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trong ngày cuối trước khi mất Đà Nẵng:

Giờ phút cuối ở Đà Nẵng, chỉ có anh và chú đi bộ ra bên bờ biển Sơn Trà lặng vắng, mỗi người trên mình độc nhất chỉ một khẩu súng (sđd, tr. 263). Theo lời người tùy viên kể lại ngày cuối tại Đà Nẵng, anh và chú đã đứng tại chỗ này định kết thúc bằng viên đạn. (sđd, 252)

Đọc những trang sách nói về cuộc đời binh nghiệp của Tướng Ngô Quang Trưởng, độc giả có thể dễ dàng nhận thấy tuy là tướng lãnh của một vùng, nhưng Ông thể hiện tác phong quân kỷ rất nghiêm chỉnh:

Anh thức dậy sớm rất đúng giờ. Những cư dân trên con đường anh đến Bộ Tư Lệnh mỗi ngày có tiếng đồn không cần xem đồng hồ, mỗi lần thấy xe Tư Lệnh chạy ngang là biết đúng giờ đó anh di chuyển, không bao giờ có xe còi hụ, không người hộ vệ, chỉ có một tùy viên. (sđd, tr. 263)

Thời gian ở Huế và Đà Nẵng, những ngày cuối tuần hay ngày lễ anh không bao giờ nghỉ. Tôi và các con không có bữa ăn trưa cùng anh. Những bữa cơm tối anh thường về muộn, các con ăn trước, ôn bài vở để đi ngủ sớm. Tuy sống cùng một nhà nhưng chúng chỉ gặp chào anh trước khi đi ngủ.” (sđd, tr. 264)

Những hành xử của Ông trong việc thi hành lệnh quân đội không vị tình riêng, không kết bè, vây cánh để tạo ảnh hưởng riêng:

“... Từ Sài Gòn đổi ra Huế đảm nhận chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh chỉ có một người tùy viên đi theo, ngoài ra không một người thân, ... Chuyện chỗ ở, phương tiện, người giúp việc cho gia đình anh cũng để tùy văn phòng họ sắp xếp, tôi cũng không đòi hỏi, không lựa chọn.” (sđd, tr. 266)

Ông luôn luôn sát cánh, chia sẻ với thuộc cấp trong từng nhiệm vụ:

Mỗi khi ra lệnh cấm trại anh luôn luôn cùng ở trong trại với các anh em. (sđd, tr. 151)

Ông cũng không bao giờ lạm dụng chức vụ hay quyền thế để làm ảnh hưởng đến công quỹ nhà nước:

Mùa hạ khi ở Huế, tôi hay đưa các con ra bãi biển Thuận An. Trên đường xe chạy ngang những khu vườn xanh tươi cây trái hoa quả ẩn hiện thấp thoáng những căn nhà lợp ngói đỏ đã phai màu, không gian có vẻ thanh bình, các con thường mong anh đi cùng. Chúng hay hỏi sao Ba không đi, anh chỉ trả lời một câu, “Ba bận làm việc”. Tuổi thơ vô tư chúng không thắc mắc. Tôi biết nếu anh đi, phải có hộ tống, phải lo sắp đặt an ninh. Chỉ một lần vui chốc lát mà bao người phải lo như vậy, lạm dụng công sức của quân đội, một chuyện không thể có ở anh. (sđd, tr. 268)

Và sống rất khiêm nhường, giản dị:

Anh với chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 ở Huế, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 ở Cần Thơ, Tư Lệnh Quân Đoàn 1 ở Đà Nẵng, phương tiện di chuyển của tôi cũng chỉ là chiếc xe Jeep cũ mang bảng số dân sự. Thời gian làm Tư Lệnh vùng Một ở Đà Nẵng, người Mỹ có cho một xe du lịch Huê Kỳ màu đen khá rộng để gia đình sử dụng nhưng anh bảo tôi nhường xe ấy cho gia đình Tư Lệnh phó... (sđd, tr. 267 & 268)

Điều quan trọng nhất là Ông giữ gìn rất nghiêm mật đức tính thanh liêm, trong sạch của mình. Còn nhớ “trong thập niên 1960 tại Miền Nam, trong dân gian đã truyền tụng câu: ‘Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng’ nói lên lòng ngưỡng mộ của người dân đối với bốn vị tướng lãnh này của QLVNCH” (5).

“... một điều quan trọng là không nhận quà biếu của bất cứ ai.” (sđd, tr. 157)

“... quan niệm sống của anh, anh dứt khoát không giúp một ai dù là người thân thích. Anh nói người nào cũng có gia đình, cũng có bố mẹ, cũng có con cái, trong thời chiến trận mình lo cho người thân về chỗ yên lành như vậy còn gì là kỷ luật và còn ai bảo vệ quê hương. Anh đã bị họ hàng thân thích trách hờn. (sđd, tr. 297)

Khi còn ở VN, sau bữa cơm tối ra ngồi ngoài sân, anh phân tách những sự việc, những thâm hiểm, những đòn phép của con người khó thể biết được mà vì vô tình hay vì sự tham lam, mình sẽ bị cạm bẫy. Nếu mình phạm vào một lần sẽ có cớ để họ gây khó dễ, họ ăn mười mình ăn một nhưng tiếng tăm mình lãnh hết và gây khó dễ cho công việc anh làm. (sđd, tr. 271)

Sau đây là một ví dụ:

Anh ăn giản dị không đòi hỏi nhưng tôi biết ý anh thích những món mặn theo cách chế biến của miền Nam. Hai đứa nhỏ nhất thì thích nấu theo kiểu Huế, còn tôi vẫn thích những món thanh nhẹ của miền Bắc... Tôi thường phụ với chú đầu bếp luôn tiện dạy cho chú cách nấu những món của miền Nam và miền Bắc. Món thịt gà là món mọi người ưa thích nhất, nhưng giá một con gà khoảng hơn một nghìn cho cả nhà không đủ, mà mua hai con thì nhiều tiền quá. Tiền chợ mỗi ngày đã chỉ định chỉ có một ngàn, vì vậy món thịt gà thường vắng bóng trong những bữa ăn. Tướng Tư Lệnh một vùng mà thức ăn hàng ngày cũng phải tính toán vì còn phải để dành một ít. Thời gian ở miền Tây thực phẩm rẻ và có nhiều lựa chọn, đặc biệt là hải sản và rau củ trái cây, nhờ vậy thức ăn đầy đủ hơn. Tuy vậy, chú bếp cũng không vui, than phiền. Chú nói người tư lệnh trước đưa tiền chợ nhiều gấp hai mà lại ít người hơn, gạo ngon có người cung cấp, nước tương nước mắm họ biếu cả thùng, v.v... và v.v... Với tiền chợ tôi đưa gồm cả gạo mắm muối, chú phải tính mua những món ít tiền mới đủ mặc dù tôi nói chúng tôi không cần những thức ăn cầu kỳ đắt tiền. (sđd, tr. 265, 266)

Thêm một ví dụ khác:

Qua nhiều lần nói chuyện với Hòa, có những việc rất nhỏ làm tôi áy náy tự cảm thấy như thiếu bổn phận làm vợ. Chú nói hai thầy trò thường nhịn đói không có bữa ăn trưa. Bữa ăn sáng của anh là một bát cháo trắng với muối đường và một ly nước trà nóng pha đậm. Tôi có nói để mua một tô bún bò hay phở mì, anh hỏi giá bao nhiêu rồi nói mắc quá và mất công đi mua... Hàng ngày anh đến văn phòng rồi lên trực thăng thăm các tiền đồn, chỗ đóng quân, có khi đáp xuống một vài nơi đúng giờ ăn trưa họ mời nhưng không bao giờ anh ở lại ăn. Chú cho biết hôm nào Trung Tướng ăn một hộp trái cây thì Hòa ăn một hộp thịt. Những món đồ hộp thường có để một ít trên máy bay nhưng ít khi ăn vì vậy tùy viên cũng nhịn theo. (sđd, tr. 264)

Tướng lãnh của một vùng mà bữa điểm tâm chỉ là “một bát cháo trắng với muối đường và một ly nước trà nóng pha đậm” thì đủ hiểu được con người chân chính, thanh liêm của Ông đến bậc nào.

Bằng một văn phong nhẹ nhàng, trong sáng và chân thật thừa hưởng từ Bố Thạch Lam, tác giả Nguyễn Tường Nhung đã chia sẻ về gia đình mình sau khi Nhà văn Thạch Lam mất cũng như về Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, “một người chồng đầy tình cảm lãng mạn, một người cha nhiều trách nhiệm, đã sống một cuộc đời khiêm nhường, khép kín nhưng có lẽ thật bình yên, hạnh phúc khi trở thành một di dân tị nạn tại Hoa Kỳ...” như lời giới thiệu của Nhà xuất bản Thạch Ngữ ở bìa sau sách. Hy vọng Tháng Ngày Qua sẽ góp thêm tài liệu cho những bạn trẻ hoặc những nhà viết sử tương lai khi muốn tìm hiểu về hai gia đình này hay thời kỳ chiến tranh Việt Pháp và chiến tranh Việt Nam. Cuốn sách cũng có thể dựng thành phim ảnh vì nói đến xã hội và con người Việt Nam ở một thời kỳ vô cùng nhiễu nhương. Có đầy đủ tình tiết của chết chóc, đau khổ lẫn vui tươi, sum họp... Có những phân đoạn thương cảm khiến lệ tràn mi mà cũng có những phân đoạn vui tươi với nụ cười hạnh phúc.

Trần Thị Nguyệt Mai

Tháng 1-2022

(*) Tháng Ngày Qua – Hồi ức của Nguyễn Tường Nhung được phát hành qua Nhà xuất bản Barnes and Noble​.

Tham khảo:

(1) Mai Thảo – Phượng Hoàng Gẫy Cánh - Khởi Hành số 60 ngày 2-7-1970 - Trần Hoài Thư sưu tập.

(2) Mai Thảo – Tuần báo Nghệ Thuật số 35 – ngày 9-6-1966 – Trần Hoài Thư sưu tập.

(3) Mai Thảo – Tuần báo Nghệ Thuật số 3 ngày 16-10-1965 – Trần Hoài Thư sưu tập.

(4) Mặc Lâm – Tìm hiểu về nhóm Tự Lực Văn Đoàn

https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/AcknowledgeOfTuLucVanDoan_MLam-20070826.html

(5) Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng

https://books9046.rssing.com/chan-61128279/all_p18.html


Nguồn:https://www.voatiengviet.com/a/doc-hoi-uc-ba-qua-phu-ngo-quang-truong/6409975.html 

2022/03/21

 TẠI MŨI NAI HÀ TIÊN _ 1966

 Một ngày nào đó của năm 1966, nhóm bạn dạy học tại Trung Học Hà Tiên gồm Nguyễn Văn Thànhh / Lý Hóa / sau này là Hiệu trưởng, Phùng Tuấn Sinh / Triết, Nguyễn Hồng Ấn / Lý Hóa , Huỳnh Văn Hòa / dạy Tiểu học và anh bạn làm tại Quan Thuế Hà Tiên <quên tên> đến mũi Nai vui chơi.

Với anh bạn làm việc tại Quan thuế Hà Tiên


Xa xa là Nguyễn Văn Thành

Tấm ảnh chụp vào khoảnh khắc rất đặc biệt, từ trái: Nguyễn Văn Thành, Phùng Tuấn Sinh, Nguyễn Văn Hòa và Nguyễn Hồng Ẩn.







2022/03/17

 Truyện ngắn

TIẾNG HÁT GIỮA KHUYA

Những Hình Ảnh Màn Đêm Buồn Lặng Lẽ, Đêm Cô Đơn (Có Thơ Ngắn Hay)

Để tưởng niệm hai bạn: Ngô-Đắc-Phú, Lưu-Khương-Đức và những nam sinh trường trung học Võ-Tánh Nha Trang 

đã hy sinh trong cuộc chiến tương tàn!

Thân tặng các bạn Tam B4 Võ-Tánh, 1960-1961.


ĐIỆP MỸ LINH


Giọng của Lệ-Hằng nghèn nghẹn, không hiểu vì tuổi tác hay vì xúc động. Lệ-Hằng nhìn lên trần nhà, nhíu mày, ngâm tiếp:


…Chiến hào xưa vết thù còn đấy.
Đỉnh cao này áo trận, phơi thây.
Gần bốn mươi năm sao vẫn đợi?
Hỡi nấm mồ hoang giữa lưng trời!...

... Ta về, đồi Gió buồn như thế,
Chân xiêu vẹo trên chiến trường xưa
Ôi! Góc rừng tử khí còn vương
Đồi Gió hỡi! Hôm này gió chướng! (1)


Lệ-Hằng trở về chỗ ngồi trong khi cả nhóm bạn vẫn còn bàng hoàng, ngồi bất động! Khánh vừa tiến về “micro” vừa vỗ tay. Lúc này cả nhóm bạn mới choàng tĩnh, vỗ tay thật lớn. Khánh dõng dạc:


-Bài thơ đẹp và buồn quá! Tôi nghĩ linh hồn của những người bạn đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua có lẽ cũng cảm nhận được rằng chúng ta không bao giờ quên các anh ấy. Xin cảm ơn “bà xã của tui”.


Khánh quay sang lấy thùng giấy, mời một bạn bốc thăm. Cầm tờ thăm, Khánh cười lớn:


-Ha…Ha…Lần này chúng ta được nghe lại một giọng ca của ban ca nhạc Bình-Minh Đài Phát Thanh Nha Trang năm xưa. Xin mời người bạn thân thiết của chúng tôi từ thời Tam “Bê-Bối” (B4). Mời Thanh-Hoa.


Thanh-Hoa rụt rè đứng lên, bước đến “micro”:


- Xin cảm ơn anh Khánh đã giới thiệu tôi bằng những lời rất thân tình. Kính thưa quý anh chị, theo thuyết Vô-Thường, không vật thể nào và sự việc nào có thể tồn tại. Vậy thì thời gian 50 năm qua tôi có còn là tôi của thập niên 60 hay không? Chắc chắn là không. Do đó, tôi sẽ góp vui trong lần gặp gỡ hiếm hoi này, không phải bằng giọng hát của cô gái nhút nhát năm xưa, mà sẽ bằng giọng khàn khàn của một…bà cụ.


Mọi người cùng cười. Thanh-Hoa tiếp:


- Trở lại quê nhà sau hơn 40 năm lưu lạc, tôi mang trong lòng nỗi niềm của Nhị-Hà khi ông sáng tác ca khúc “Trở Về Thôn Cũ”, và tâm trạng của Châu-Kỳ khi ông sáng tác tình khúc “Trở Về”. Nhưng khi gặp lại những người bạn xưa trong khung cảnh đầm ấm này thì lời ca của sầu khúc “Trở Về Mái Nhà Xưa” lại réo rắc trong lòng tôi những giai điệu chĩu nặng u hoài.


Vừa nghe Thanh-Hoa nhắc đến tình khúc tuyệt vời mà bất cứ người chơi đàn nào cũng không thể không đàn, mấy ngón tay của Nhân búng nhè nhẹ lên giây Guitar, dạo nho nhỏ cung Do Majeur, nhịp Andantino.


Vừa nghe tiếng Guiter Thanh-Hoa vừa nhìn Nhân như chờ đợi. Đàn đến cuối phân đoạn đầu, Nhân “rải” một tràng hợp âm và Thanh-Hoa “bắt” vào:


“Về đây khi mái tóc còn xanh xanh. 

Về đây với mầu gió ngày lang thang. 

Về đây với xác hiu hắt lạnh lung. 

Ôi! Lãng du quay về điêu tàn!…” (2)


Theo tiếng hát của Thanh-Hoa, Khánh tưởng như Khánh có thể thấy lại nhân dáng xinh đẹp, dịu dàng và thùy mị của Thanh-Hoa lúc nàng, Nhân, Tùy, Phê và Khánh cùng học lớp đệ Tam B4, niên khóa 1960-1961.


Thập niên 60 cũng là thời kỳ nhạc Pháp rất thịnh hành trong giới học sinh và sinh viên. Khánh nhớ thời gian mới sang Pháp du học, những lúc nhớ nhà, Khánh chỉ biết đem hình gia đình và bạn hữu ra nhìn. Khi nào thấy tấm ảnh của Thanh-Hoa – không nhớ “đứa nào” chụp – đang đứng hát, Khánh cũng nhớ lại phân đoạn trong bài Bambino mà Khánh rất thích: 


“…Et gratte, gratte sur ta mandoline mon petit Bambino. 

Ta musique est plus jolie que tout le ciel de L’Italie…” 


Ngày xưa, khi Thanh-Hoa hát đến cuối phân đoạn thứ ba: “…Avec tes cheveux si blonds…” thì đám con trai cùng hô lên “Bambino! Bambino!…” Rồi Thanh-Hoa tiếp: “Tu as l’air d’un chérubin…” đám con trai lại: “Bambino! Bambino!” Kỷ niệm thời trung học của Khánh với Thanh-Hoa chỉ có vậy thôi.


Khi gặp lại Thanh-Hoa tại đại học Luật khoa Saigon Khánh mới biết Thanh-Hoa vừa lập gia đình. Khánh không biết, và cũng không muốn biết, chồng của Thanh-Hoa tên gì, làm gì; chỉ thỉnh thoảng Khánh thấy một chiếc xe, do tài xế lái, đưa hoặc đón nàng. Hôm nào xe đón trễ, Thanh-Hoa thường cùng Khánh đi chầm chậm về hướng hồ Con Rùa, nói những chuyện bâng quơ.


Một hôm, những chuyện bâng quơ được thay bằng một tin vui: Khánh được học bổng sang Pháp du học. Thanh-Hoa reo lên: 


-Mừng cho ông đó. Ông mà không được du học thì ông sẽ bị động viên; rồi biết đâu, cũng sẽ ... như ông Tuấn thôi! 


Nghe nhắc đến người bạn vừa bị tử trận, Khánh thở dài và trong lòng Khánh lại gợn lên những thắc mắc mà không ai có thể giải thích được.


Không ai có thể giải thích nguyên nhân nào khiến Tuấn – một học sinh xuất sắc, hội đủ điều kiện để khỏi bị động viên – tình nguyện vào Trường Sĩ Quan Bộ-Binh Thủ-Đức sau khi đỗ tú tài I ban toán. Bạn hữu hỏi Tuấn: 


-Nha Trang có Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân và Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân, tại sao mày không thi vào? Cùng lắm thì vào Trường Võ-Bị Dalat để kéo dài thời gian ở quân trường chứ sao lại đi Thủ Đức làm chi cho nguy hiểm? 


Tuấn cười: 


-Nguy hiểm cái...con khỉ! Tao sẽ tình nguyện về Biệt-Động-Quân Biên Phòng. Tao muốn được huấn luyện nhanh, càng sớm càng tốt. Mấy Trung Tấm Huấn Luyện mà tụi mày nói đó phải huấn luyện hai năm hoặc bốn năm, tao không thể chờ được.


Bạn hữu nhìn nhau, không hiểu tại sao Tuấn lại “không thể chờ được”. Bạn hữu không hiểu, nhưng riêng Tuấn, Tuấn rất bằng lòng với quyết định của chàng.


Quyết định của Tuấn bắt nguồn từ cái chết rất bi thương của ông Thuận – Bố của Tuấn. Ông Thuận đã chết một cách quá thảm khốc sau khi bị công sảng Việt Nam (csVN) bắt trong trận đụng độ dữ dội tại biên giới Lào Việt.


Theo lời Thọ – một hồi chánh viên – kể với cơ quan công quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) thì ông Thuận bị thương trước khi bị bắt. CsVN hành hạ, đánh đập và dùng lưỡi lê khơi động vết thương nơi bụng của ông Thuận mà cũng vẫn không thể khai thác được gì! CsVN bàn tính riêng rồi cho ông Thuận hay: 


-Chúng tôi trả tự do cho đại úy đấy. Đi đi! 


Biết có âm mưu gì đó chứ làm thế nào csVN có thể thả một đại úy Biệt Động Quân Biên Phòng một cách dễ dàng như vậy, ông Thuận lắc đầu: 


-Các anh muốn hành xử với tôi như thế nào, cứ hành xử. Các anh muốn giết tôi, cứ giết. Tôi chấp nhận. Đừng bày ra bất cứ âm mưu gì khác.


Giọng một cấp chỉ huy: 


-Mở trói, thả nó đi đi!


Ông Thuận nhìn cấp chỉ huy của csVN như không tin. Người ấy nhìn ông Thuận, hất hàm: 


-Đấy, đi đi. Hãy ‘chở’ về để ‘niếm’ gót giầy bọn sen đầm quốc tế của mày đi! 


Ông Thuận ôm bụng, gượng đứng lên, dáng ngần ngừ. Người chỉ huy tiếp: 


-Địt mẹ! Đi nhanh kẻo ông nổi xùng ông bắn chết mẹ bây giờ! 


Theo từng bước chân khập khểnh của ông Thuận, máu từ vết thương nhểu thành những đường kỹ hà. 


Ông Thuận vừa xa toán csVN khoảng vài thước, người chỉ huy toán csVN đưa mắt nhìn thuộc cấp rồi nhè nhẹ gật đầu. Ngay tức thì, toán csVN ném về phía ông Thuận bất cứ vật gì mà họ có thể nhặt được. Ông Thuận càng cố khệnh khạng tránh né bao nhiêu thì số đồ vật ném về phía Ông càng nhiều và càng nhanh bấy nhiêu. Cuồi cùng ông Thuận gục xuống! 


Không biết ông Thuận còn sống hay đã chết, người chỉ huy toán csVN bước đến, đá mạnh vào người ông Thuận. Ông Thuận lăn theo triền đồi trong những tràng cười hả hê của toán csVN!


Cười thỏa thuê một lúc, toán csVN kéo nhau đi sâu vào rừng; chỉ có Thọ – người đã không cười – lủi vào bụi rậm, trốn.


Suốt đường mòn Hồ-Chí-Minh, Thọ đã chứng kiến nhiều cảnh huống đau lòng khi bộ đội giết những “đồng chí” bị bệnh, bị thương hoặc vì bất cứ lý do nào đó, không thể đi theo đoàn quân “sinh Bắc tử Nam”. Thọ đã cố che giấu sự xúc động của chàng. Nay, thấy chính đơn vị trưởng của chàng hành động một cách man rợ, Thọ kinh tởm và chỉ muốn xa lánh toán người đầy thú tính. Thọ tìm cách ra hồi chánh.


Những chi tiết do Thọ kể chỉ có gia đình Tuấn biết, nhờ có người bà con tòng sự tại cơ quan Chiêu Hồi. Vì vậy, khi nghe Thanh-Hoa nói về Tuấn, Khánh đính chính theo sự hiểu biết của chàng: 


-Tuấn tình nguyện vào Trường Sĩ Quan Thủ-Đức chứ không phải bị động viên.


-Vậy à?


-Bà nhớ hôm tiễn thằng Tuấn bà hát bài gì không?


Thanh-Hoa lắc đầu. Khánh tiếp: 


-Tôi không nhớ tựa nhưng tôi nhớ khi bà hát đến câu: “... Anh sẽ ra đi chẳng mong ngày về…” thì cả lớp thật sự xúc động!


Thanh-Hoa dừng bước. Sau một thoáng suy nghĩ, nàng reo lên: 


-Nhớ rồi! Nhớ rồi!


Trong khi Khánh chưa biết Thanh-Hoa nhớ gì thì nàng hát nho nhỏ, ánh mắt đăm chiêu như đang nghĩ đến người bạn vắn số: 


“…Anh sẽ ra đi nặng hành trang đó. 

Đem dấu chân soi tuổi đời ngây thơ, 

đem nỗi thương yêu vào niềm thương nhớ. 

Anh sẽ ra đi chẳng mong ngày về…” (3) 


-“Tui” du học thì “tui” mong có ngày về…


Khánh chưa dứt câu Thanh-Hoa vội nói lên ý tưởng đã làm ray rức lòng nàng kể từ khi hay tin Tuấn tử trận: 


-Ông biết không? Lúc ông Tuấn rời trường là lúc tụi mình còn nhỏ, đã biết gì đâu! Hát tiễn ông Tuấn đi lính, tôi chỉ nghĩ đến nỗi khổ nạn của người lính để tìm bài hát cho thích hợp với hoàn cảnh chứ tôi đâu có ý “trù ẻo” cho ông Tuấn “chẳng mong ngày về!” 


-“Tui” chỉ đùa thôi. Bạn bè hồi đó không ai nghĩ như vậy đâu!


Thanh-Hoa chưa kịp đáp lời Khánh thì chiếc xe quen thuộc dừng sát lề đường, cạnh nàng và Khánh.


Nhìn theo chiếc xe, tự dưng Khánh cảm thấy buồn buồn và dường như có chút luyến tiếc vừa gợn lên trong lòng! 


Hôm nay gặp lại Thanh-Hoa sau gần 50 năm xa cách, Khánh rất vui và cảm động. Khánh nhìn về hướng “micro”. Thanh-Hoa vẫn còn những nét cao sang, duyên dáng của một mệnh phụ. Nhưng thời gian đã phủ lên người nàng những vết cằn cỗi. Bất chợt Khánh đưa tay vuốt những sợi tóc lưa thưa của chàng.


Trong khi Khánh hơi buồn lòng vì mái tóc cứ thưa đi và trắng dần thì Phê lại nhớ đến những ngày sang Hoa-Kỳ tham dự Đại Hội Quốc Gia Hành Chánh.


Sau những ngày vui vì được gặp lại bạn cũ thời đại học, Phê đã dành thì giờ tìm gặp cô bạn thời trung học – Thanh Hoa. Phê điện thoại rủ Tùy. Để đo lường trí nhớ của Tùy, Phê dặn mọi người trong hai bàn tiệc đừng cho Tùy biết ai là Thanh-Hoa.


Khi Tùy bước vào nhà hàng, mọi người chỉ cười, gật đầu chào. Tùy nhìn quanh, giọng buồn buồn: 


-Ủa, Thanh-Hoa đâu? 


Im lặng. Phê đứng lên, bắt tay Tùy. Tùy lại hỏi: 


-Có lẽ Thanh-Hoa đợi tao hơi lâu nên Thanh-Hoa về rồi, phải không? 


Phê chỉ cười, không đáp, ngồi xuống. Thanh-Hoa nghiêng sang, nói nhỏ, chỉ vừa đủ cho Phê nghe: 


-Ôi, thời gian! Ta ghét mi! 


Phê cười, chỉ vào Thanh-Hoa và nói với Tùy: 


-Tùy, Thanh-Hoa nè, mày nhìn ra chưa?


Tùy ngạc nhiên, reo lên: 


-Trời! Thanh-Hoa! 


Trong cuộc hàn huyên đầy thú vị giữa “ba đứa” Tam “Bê Bối (B4)” Phê kể rõ tên từng người bạn còn ở Việt-Nam như Phạm-Khắc-Sinh, Phan-Thừa-Tấu, Phạm-Vũ-Động, Huỳnh-Tri-Chánh, v. v… Phê cũng kể về cái chết rất thương tâm của Lưu-Khương-Đức. Đức tốt nghiệp Kiến-Trúc, bị động viên và đã tử trận tại Pleiku năm 1972. Tùy kể về Ngô-Đắc-Phú với những lời đầy tiếc thương. Phú là phi công trực thăng, bị bắn hạ vào mùa Hè 1972 tại Vùng IV Chiến Thuật! Tùy cũng cho hai bạn biết Nguyễn-Văn-Cư hiện sống tại California. Thanh-Hoa cho biết Nguyễn-Đăng-Dự, trước 1975, là hiệu trưởng trường trung học Pleiku, nay đang sống tại Canada; Vũ-Mạnh-Hoàn du học Bỉ từ năm 1963 và Đỗ-Thị-Nghiễn nay là Thích Nữ Thường-Như. Nghe bạn đề cập đến một tu sĩ Phật Giáo, Phê chợt nhớ và cho các bạn biết Nguyễn-Ưng đã thọ giới Tỳ-Kheo được hơn 20 năm!


Sau khi tiệc tàn, Tùy bắt tay Thanh-Hoa rồi gian rộng đôi tay, tỏ ý muốn “hug” Thanh-Hoa. Hai người choàng vai nhau. Tùy nói, giọng tràn xúc động: 


-Bây giờ “tui” mới giám “hug” bà chứ hồi đó “tụi tui” chỉ biết đứng xa xa nhìn bà thôi!


Phê bảo: 


-Ê, Tùy! Mày với Thanh-Hoa về thăm tụi nó một chuyến, nha! Nửa thế kỷ rồi, còn gì! Tụi mình già hết rồi! Về đi, tụi nó và tao sẽ ra phi trường đón...


Dòng hoài niệm của Phê vừa đến đây, tiếng vỗ tay vang lên; vì Thanh Hoa vừa chấm dứt tình khúc “Trở Về Mái Nhà Xưa”. 


Bất ngờ, nhiều tiếng động mạnh nơi của trước rồi giọng nam vang lên:


-Mở cửa! Mở cửa! Công an khu vực đây! 


Khánh bước đến, mở cửa, hỏi:


-Các anh cần gì? Chúng tôi đang có khách.


-Ai là Nguyễn Cao Nhân?


Cuộc vui ngưng. Nhân lấy đàn ra khỏi vai, bước ra:


-Tôi. Các anh cần gì?


-Anh về phường “làm việc” với chúng tôi.


Theo suy nghĩ của một người sống ở nước tự do lâu năm, Tùy tách rời nhóm bạn, bước về nhóm công an, hỏi:


-Yêu cầu các anh cho xem trác tòa. Không có trác tòa các anh không thể bắt người trái phép như vậy.


Một anh công an hất hàm vế phía Tùy.


-Muốn xem trác tòa hả? Đi về phường với chúng tôi mà xem.


Im lặng. Nhân sờ túi áo và túi quần:


-Chờ chút. Tôi vào lấy giấy tờ tùy thân.


-Bảo người nhà lấy. Anh không được đi đâu cả.


Mọi người đến bên Nhân, thái độ lo âu. Nhân rất trầm tĩnh, nói nhỏ với Ngọc – vợ của Nhân – bằng tiếng Pháp để công an không thể hiểu:


-Em điện thoại cho các con biết ngay.


Khánh nói nhỏ với Nhân, cũng bằng tiếng tiếng Pháp:


-Mày đừng lo, có tụi tao đây!


-Tụi mày cũng biết rằng đây không phải là lần đầu tiên tụi nó bắt tao. Tao tin vào lẽ phải.


Nghe một ngôn ngữ lạ, một anh công an lên tiếng:


-Không được dùng tiếng “nước ngoài”.


Chiếc xe áp tải Nhân chạy trên những con đường còn in vết chân của Nhân và Tuấn từ ngày thơ dại cho đến thời gian Tuấn tử trận. Nhân thở dài, nhớ lại buổi sáng theo bạn hữu tiễn Tuấn về nghĩa trang, thấy bà Thuận và các em gái của Tuấn rũ liệt như những cái xác không hồn, Nhân thật lòng hối hận về sự nông nỗi của chàng; vì chàng đã hoạt động rất đắc lực cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam trong thời gian du học tại Pháp.


Lúc mới đến Paris, Nhân được nhiều sinh viên phản chiến đón tiếp rất niềm nở, lo và giúp đỡ mọi điều. Nhưng điều khiến Nhân vui nhất là Nhân gặp lại Khánh. Khánh và Nhân trở lại thân thiết như thời cùng học trung học.


Một thời gian sau Khánh ngạc nhiên khi thấy Nhân rất tích cực trong mọi hoạt động chống lại chính quyền VNCH. Mỗi lần Khánh khuyên ngăn Nhân lại đáp cùng một ý: 


-Mày biết thằng Tuấn ở cùng xóm với tao. Trong lớp nó ngồi cạnh tao. Hồi đó tụi bay gọi thằng Tuấn và tao là hai thằng “cốt đột”. Ừ, hai thằng “cốt đột” thương nhau như anh em ruột, mày biết không? Tại sao những thằng như thằng Tuấn phải chết cho những tên vô tài, thiếu đức và không có học thức được sống phây phây? 


Khánh im lặng, không biết phải biện luận như thế nào!


Ngày xưa Khánh không biết phải biện luận với Nhân như thế nào. Tối nay, Khánh cũng không biết phải giải thích với Thanh-Hoa như thế nào về những tấm ảnh – do báo chí đăng tải vào những lần Nhân bị bắt trước đây –  mà Ngọc đang trao cho cả nhóm cùng xem!


Nhìn tấm ảnh Nhân bị mấy tên công an lôi xềnh xệch như lôi một bao cát, Thanh-Hoa nhíu mày:


-Ông Nhân làm gì mà bị đối xửa tàn tệ quá vậy?


Ngọc vừa quẹt nước mắt vừa đáp:


-Hình đó chụp lâu rồi, lúc anh Nhân mới từ Pháp về quê nghỉ hưu. Các con của chúng tôi khuyên ngăn thế nào anh Nhân cũng không nghe. Anh ấy bảo anh ấy còn nhiều việc phải làm. Mấy cháu cho tiền mua ngôi nhà này để chúng tôi hưởng hưu. Nhưng, ngôi nhà này lại là nơi làm việc của anh Nhân. Anh Nhân ra tuyên cáo, viết bài kêu gọi và xách động thanh niên đòi nhà cầm quyền csVN phải có đa nguyên, đa đảng; vì anh Nhân thấy rõ dưới chế độ tàn độc, khát máu và tham nhũng của csVN, đời sống của người dân còn cơ cực gấp trăm ngàn lần so với thời Pháp thuộc!


-Rồi sao?


-Tụi nó – csVN – cho anh Nhân vào tù!


-Trời! Chị có nhờ Tòa Lãnh Sự Pháp can thiệp hay không?


-Có. Nhưng ông Nhân ổng bướng lắm. Ổng không chịu vào quốc tịch Pháp. Ổng bảo ổng là người Việt Nam tại sao lại mang quốc tịch của một nước đã đô hộ dân tộc mình cả trăm năm?


Im lặng. Ngọc tiếp:


-Anh Nhân không phải là công dân Pháp. Nhưng nhờ anh ấy là một chuyên viên ngoại hạng do Pháp đào tạo, cho nên, Tòa Lãnh Sự Pháp can thiệp. Và lần đó anh Nhân chỉ bị tám tháng tù thôi.


Vì chưa biết gì về những hoạt động chính trị của Nhân, Thanh-Hoa tò mò tiếp tục xem những tấm ảnh của Nhân. Thấy tấm ảnh Nhân bị một tên công an đạp ngã trên đường, tấm ảnh kế tiếp Nhân bị tên công an khác đạp vào mặt, Thanh-Hoa run tay:


-Chị Ngọc ơi! Ông Nhân lớn tuổi rồi mà sao công an đánh ổng tàn nhẫn quá vậy?


-Ảnh đó chụp cách nay vài hôm, lúc anh Nhân dẫn đầu đoàn biểu tình chống  Trung cộng cấm ngư dân Việt Nam đánh/bắt cá trong hải phận Hoàng Sa. Tôi đã quay video, nhưng tụi công an giật mất rồi.


Khánh lên tiếng:


-Các bạn nên bình tâm. Mình phải hoặch định phương thức cứu thằng Nhân.


Ngọc nhìn đồng hồ tay:


-Lúc nãy, khi vào phòng lấy hình của anh Nhân bị công an đánh, tôi đã điện thoại cho các con của tôi. Các cháu sẽ “tung” lên internet tin anh Nhân bị bắt. Giờ này khuya rồi, mình không thể làm gì được. Sáng mai tôi sẽ gặp những nhân vật trong tổ chức của anh Nhân và tôi sẽ liên lạc với Tòa Lãnh Sự Pháp. Thôi, rất tiếc cuộc vui bị gián đoạn bất ngờ, quý anh chị nên về nghỉ.


Lệ-Hằng lắc đầu:


-Chúng tôi không thể để chị một mình trong tình cảnh này được.


Cả nhóm đồng lòng:


-Đúng rồi!


Nhìn quanh, thấy ai cũng có vẻ lo âu, Khánh bảo:


-Tôi có một đề nghị, xin nói ra để quý anh chị xem như thế nào, nhé!


Im lặng. Khánh tiếp:


-Chúng ta không nên có thái độ bi quan. Chúng ta phải “hâm nóng” tinh thần tích cực và cao cả của những người đã và đang dấn thân chống lại sự xâm lăng của Tàu cộng.


Một ông hồi xưa học lớp lớn hơn đưa tay xin nói. Khánh chỉ ông ấy,  mời:


-Dạ, xin mời anh cho ý kiến.


-Thưa anh, “hâm nóng” bằng cách nào?


Khánh xòe bàn tay về hướng người vừa phát biểu, tỏ ý xin chờ, rồi quay sang Thanh-Hoa:


-Thanh-Hoa! Bà còn nhớ những bản hùng ca xưa không?


-Cho trường hợp nào?


-Chống rợ Hồ, chống nhà Minh, chống quân Thanh, chống quân Tàu.


-Gò Đống Đa, Ải Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, được không?


-Tốt lắm. Bà nhớ lời ca không?


-Không, chỉ nhớ âm điệu thôi.


Vừa nói ngang đó Thanh-Hoa chợt nhớ, vội tiếp:


-Ông Khánh! Ông mượn computer của chị Ngọc, vào Google tìm xem. Tôi nghĩ Google có lời ca.


Cùng Khánh đến bên computer, Ngọc ngạc nhiên reo lên:


-Ủa! Sao lần này công an không tịch thu computer kìa? Mấy lần trước mấy “lão” không những tịch thu computer mà còn lục lọi, phần cứng, phần mềm gì cũng lấy hết…


Một ông mỉa mai:


-Anh chị từ Pháp về cho nên công an chỉ tịch thu computer thôi; còn chúng tôi là dân “Mít”, cho nên, đảng csVN “giải phóng” toàn bộ tài sản của chúng tôi. Dân miền Nam đã chứng kiến nhiều đoàn xe vận tải chở “đầy nhóc” TV, tủ lạnh, máy hát, radio, bàn ghế, v. v. . . của dân miền Nam chạy “rần rần” ra Bắc. Ngày trước csVN phải lén lút vượt Trường-Sơn vào Nam để bắn giết anh em. Sau khi chiếm được miền Nam và nhốt tù tất cả quân nhân, công chức, csVN hiên ngang và “hồ hởi” chở về Bắc tất cả những gì của người miền Nam mà csVN thích. Vì đảng csVN ăn cướp trắng trợn cho nên người miền Nam có câu: “Tự nhiên như người Hà-Lội”.


Ông bạn vừa dứt câu, Khánh reo vui:


-À há!


Sau khi in và phát mỗi người ba bản, Khánh xoay về Thanh-Hoa:


-Thanh-Hoa! Bà hát một mình trước để mọi người nghe cho quen rồi chúng ta sẽ đồng ca. Được không?


Sau khi tập hát theo Thanh-Hoa vài lần, mọi người đồng ca: 


“Từng đoàn dân chúng trên đế đô tưng bừng đi

Nhịp nhàng theo tiếng non nước thiêng trang hùng ghi...

... Dòng máu ái quốc lưu truyền trong bao đấng hùng. 

Ngàn ngàn quân Thanh chết dưới toán quân Việt-Nam…” (4)


Khánh không ngờ lời ca làm cho không khí lo buồn lúc nãy trở nên sôi động hẳn lên. Dứt bài Gò Đống Đa, Thanh-Hoa bắt sang ca khúc Ải Chi-Lăng: “Chi Lăng! Chi Lăng!” Khánh hát đáp: “Tiếng ai hò reo vang trời!” Thanh-Hoa tiếp: “Chi Lăng! Chi Lăng!” Khánh hát đáp: “Bóng ai tranh hùng muôn đời”. Cả nhóm cùng nhập vào: 


“Trời âm u, gió tung, rú lên, rít lên ào ào 

đồi non thung lũng đều long lỡ dưới trời bão…” (5)


Hát đến phân đoạn thứ ba, cả nhóm cảm thấy niềm xúc động và tình yêu Quê Hương dâng lên chất ngất trong lòng. Có người vừa hát vừa đưa tay quẹt nước mắt: 


“…Hồi chiêng khua thúc quân, 

tiếng loa thét lên long trời, 

hùng binh say máu, 

gầm như sóng, cố tràn tới... 


Ngờ đâu tiếng loa vừa báo, 

Lê tướng chước thâm tài cao. 

Đồng ứng phá tan giặc Minh. 

Hùng anh múa tít gươm linh…” (6)


Khi cả nhóm hát trở lại đoạn điệp khúc, Khánh xúc động quá, phải lẻn ra ngoài. Khánh ngồi lên phiến đá nhỏ cạnh gốc bán dạ hương, lòng thầm thương cho sự nhẹ dạ của Nhân trước kia và cũng thương cho hoàn cảnh của Nhân hiện tại. Khánh tự hứa, trong những ngày còn lại của chuyến về thăm quê nhà kỳ này, bằng mọi cách, Khánh sẽ vận động để Nhân được trả tự do.


Vừa tạm bằng lòng với quyết định của mình, Khánh chợt nhận ra các bạn đã chuyển sang ca khúc Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước: 


“Đây Bạch-Đằng giang 

sông hùng dũng của nòi giống 

Tiên Rồng, giống Lạc-Hồng, 

giống anh hùng Nam Bắc Trung…” 


Tiếng đồng ca của các bạn gợi lại trong lòng Khánh hình ảnh hùng vĩ của buổi diễn hành năm xưa – do Hải Quân VNCH thực hiện – trên sông Saigon, ngang Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH, mà chàng đã thấy trong lần về thăm nhà, năm 1974.


Năm 1974, từ cửa sổ của chiếc phi cơ Air France, Khánh thấy nhiều và rất nhiều chiến hạm cùng chiến đỉnh được giăng cờ rực rỡ. Trên mỗi chiến hạm, quân nhân trong quân phục tiểu lễ trắng đứng quanh vòng đai chiến hạm, xoay mặt ra ngoài. Chiến hạm và chiến đỉnh theo đội hình, giang hành chầm chậm ngang bến Bạch-Đằng.


Thấy Tượng Đức Thánh Trần Hưng Đạo nơi bến Bạch-Đằng, Khánh chợt nghĩ đến bảng tin Hải-Quân VNCH nghênh chiến chống Tàu cộng tại Hoàng-Sa. 


Khánh cảm thấy cay đắng trong lòng! CsVN đã vi phạm Hiệp-Định Ba-Lê và đã tận dụng khí giới của Nga/Tàu để vượt Trường-Sơn vào Nam giết hại anh em trong khi Quân Lực VNCH vừa bị Mỹ cắt đứt mọi viện trợ, vừa chống trả sự xâm lăng của csVN, vừa anh dũng chiến đấu với Tàu cộng để bảo vệ Hoàng-Sa và Trường-Sa!


Vừa nghĩ đến đây, niềm cay đắng trong lòng của Khánh vụt tan đi; thay vào đó là niềm tự hào về những thanh niên miền Nam cùng thế hệ với chàng. Hải-Quân V.N.C.H. đã mất 74 chiến sĩ dũng cảm và hộ tống hạm Nhật-Tảo; nhưng Hải-Quân V.N.C.H. đã/sẽ lưu lại những nét sáng ngời trong thiên hùng sử Việt-Nam.


Dòng ý tưởng của Khánh dừng lại khi tiếng đồng ca vang lên: 


“Việt Nam! Việt Nam! Nghe từ vào đời…

Việt Nam không đòi xương máu. 

Việt Nam kêu gọi thương nhau…” (7). 


Theo tiếng đồng ca của các bạn, Khánh tưởng như chàng có thể thấy lại những đoàn quân của các quân binh chủng thuộc Quân Lực V.N.C.H. đang diễn hành. Thấp thoáng trong hình ảnh oai hùng của đoàn quân là Quyền, Phú, Tuấn, Huy, Thiệp, Trí, Thuận, Ninh, Đức, v. v… Khánh cũng không thể không nghĩ đến những người con ưu tú khác của ngôi trường Võ-Tánh đã chết trẻ trong cuộc chiến do csVN chủ xướng! Mủi lòng quá, Khánh gục đầu vào lòng bàn tay.


Từ nãy giờ Lệ-Hằng đứng xa xa, âm thầm quan sát chồng. Khi thấy Khánh trong trạng thái não lòng, Lệ-Hằng bước đến, nhẹ nhàng đặt tay lên vai Khánh.


Khánh cầm tay Lệ-Hằng – mà tưởng như chàng đang cầm tay một trong những người bạn đã nằm xuống trong cuộc chiến do ông Hồ Chí Minh và đảng csVN khởi xướng – lòng thầm khấn: “Tụi bay tha thứ cho thằng Nhân, nha! Nó biết nó đã nhầm! Nó chỉ muốn làm những điều tốt đẹp cho Quê Hương thôi. Nó rất đáng thương!”


ĐIỆP MỸ LINH

https://www.diepmylinh.com/






1.- Trên Đồi Gió của Nguyễn Thanh Khiết.
2.- Come Back To Sorento của Ernesto De Curtis; lời Việt, Phạm Duy.
3.- Trả Lại Em Yêu của Phạm Duy.
4.- Gò Đống Đa, Văn Cao.

5/6.- Ải Chi Lăng, Lưu Hữu Phước.
7.- Việt Nam, Việt Nam của Phạm Duy.