Mối tình của Đặng Thế Phong và các Ca khúc cuối đời
Ðặng Thế Phong – Tài Hoa Bạc Mệnh (1918-1942)
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
(Nguyễn Du)
Suy từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, người tài hoa là người
bạc mệnh, kẻ hồng nhan thường đa truân. Nhìn vào làng nhạc nước ta, nhạc sĩ
Đặng Thế Phong là điển hình rõ nét nhất.
Ðặng Thế Phong sinh năm 1918 tại thành phố Nam Định. Ông là con trai Đặng Hiển
Thế, thông phán Sở Trước bạ Nam Định. Thân phụ ông chẳng may mất sớm, gia đình
túng thiếu, ông phải bỏ học khi đang theo học năm thứ hai bậc thành chung
(deuxième année primaire supérieure, nay là lớp bảy cấp hai phổ thông cơ sở).
Vướng vào cái nghiệp văn nghệ từ thủa còn nhỏ nên ông đã lên Hà Nội theo học
trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (Ecole supérieure de Beanx Arts) với tư
cách bàng thính viên (auditeur libre). Đặng Thế Phong đã thực sự lấy nghề nuôi
nghiệp: thời gian theo học này, ông đã phải vẽ tranh cho báo Học Sinh (chủ báo
là nhà văn Phạm Cao Củng) để có tiền ăn học. Trong một kỳ thi, ông đã vẽ một
bức tranh cây cụt, không có một cành nào. Lúc nạp bài, giáo sư Tardieu, thầy
dạy ông đã nói rằng có lẽ Đặng Thế Phong không thọ!
Ông đã phiêu du vào Sài Gòn rồi sang Nam Vang vào đầu năm 1941 và mở một lớp
dạy nhạc tại kinh đô xứ Chùa Tháp cho đến mùa thu 1941 ông lại trở về Hà Nội.
Cũng giống như Mozart lúc sinh thời, Đặng Thế Phong là một nhạc sĩ rất nghèo,
nên cuộc sống của ông chật vật. Ngoài tài làm nhạc, vẽ tranh, ông còn có giọng
hát khá hay, tuy chưa được là Ténor nhưng cũng được khán giả hâm mộ. Lần đầu
tiên ông lên sân khấu, hát bài Con Thuyền Không Bến tại rạp chiếu bóng Olympia
(phố Hàng Da – Hà Nội) vào năm 1940, được hoan nghênh nhiệt liệt. Đặng Thế
Phong là một thiên tài, nhưng vẫn không có được cuộc sống sung túc giữa cố đô
Thăng Long lúc bấy giờ vì nhạc và tranh dù có hay, có đẹp đến mấy chăng nữa
cũng chẳng có mấy ai mua. Thời ấy, chính quyền bảo hộ Pháp có mở một phòng
triến lãm tranh tại hội Khai Trí Tiến đức, khu Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Sau lễ khai mạc
được ông Đốc Lý thành phố Hà Nội đến cắt băng, người ta thấy những người đến
xem tranh phần rất lớn toàn là ông Tây, bà Đầm, còn người Việt thì đúng là lơ
thơ tơ liễu buông mành, nhìn kỹ thấy toàn là các quan ta, những công chức cao
cấp, giới trí thức, thượng lưu chứ chẳng thấy một dân thường nào!.
Ngoài ra, thời bấy giờ chính quyền Pháp có tổ chức mở phòng
triển lãm là bảo trợ cho các hoạ sĩ Pháp trưng bày tranh của mình còn hoạ sĩ
Việt Nam
thì số người lọt được vào, ta có thể đếm trên đầu ngón tay. Đến nhạc thì nếu có
in, mỗi lần xuất bản cũng chỉ in nhiều nhất là 500 bản, dân chúng chưa yêu
chuộng nhạc cải cách (tân nhạc) nên dù có thực tài thì cũng không thể có được
một cuộc sống sung túc nếu nhờ vào sức lao động nghệ thuật!
Đặng Thế Phong phải chịu một cuộc sống khó khăn, chật vật trong “kiếp con tằm
đến thác vẫn còn vương tơ” cho đến đầu năm 1942, ông từ giã cõi đời tại căn gác
hẹp ở phố Hàng Đồng Nam Định vì bệnh lao màng (tuberculose péritonique), hưởng
dương 24 tuổi, tuổi son trẻ, đầy thơ mộng, sắp bước vào thời xây dựng sự nghiệp
(tam thập nhi lập).
Cuộc đời của Đặng Thế Phong thật quá ngắn ngủi nhưng đời sống tinh thần của ông
rất phong phú và thi vị. Nhờ thế mà tuy sáng tác chỉ có ba bài: Con Thuyền
Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu nhưng bài nào cũng trở thành vĩnh cửu, qua hơn
nửa thế kỷ vẫn là những bài hay nhất của làng nhạc Việt Nam. Nhạc hứng
chân thành đều phát xuất từ con tim, vì thế mà sáng tác của ông có hồn, đi vào
lòng người và sống mãi! Qua Ðặng Thế Phong, ta chứng minh được văn nghệ tính
phẩm chứ không tính lượng (quý hồ tinh bất quý hồ đa). Con người làm văn nghệ
viết được một câu để đời đã là khó, được một tác phẩm để đời là đáng mãn nguyện
lắm rồi. Với âm nhạc, người chuyên sử dụng một nhạc cụ cho thật điêu luyện được
tôn kính hơn là người biết sử dụng nhiều thứ đàn, chẳng thế nào có được một thứ
thật tuyệt hảo. Về sáng tác cũng vậy, làm cho nhiều, cố nặn cho lắm, thể điệu
nào cũng có bài thì dù viết cả ngàn bài chưa chắc đă có lấy một bài có giá trị
nghệ thuật và vĩnh cửu! Chỉ sáng tác có ba bài thôi, Đặng Thế Phong đã sống mãi
trong lòng mọi người, chắc chắn là hơn người có cả ba trăm bài mà chẳng có một
bài nào để người ta nhớ! Nói đến điều này, điển hình trong làng nhạc nước nhà,
chúng ta nhìn vào ông nhạc sĩ tiền bối Th.O, ông này là một trong số ít người
đi tiên phong trong việc sáng tác tân nhạc. Từ đó cho đến sau này, suốt hơn 40
năm, ông có một tập sáng tác khá đồ sộ, trên dưới 500 bài nhưng cho đến ngày
hôm nay không có lấy một bài nhạc nào đi vào lòng người nếu ta không muốn nói
là sáng tác của ông đã hoàn toàn bị chìm trong quên lãng! Với nghệ thuật nói
chung, âm nhạc nói riêng, muốn thành công là phải có tài năng thiên phú chứ
không thể nhờ vào thời gian, kiên nhẫn, sách vở, trường lớp hay bằng cấp mà đạt
được!
Vì thế chúng tôi dám tôn vinh Đặng Thế Phong là một thiên
tài của làng nhạc Việt, thật không ngoa.
Cuộc đời Đặng Thế Phong đã có được một mối tình thật chung thủy tuyệt
đẹp: Khi còn ở Nam
Định, Đặng Thế Phong đã đem lòng yêu một thiếu nữ buôn bán ở Chợ Sắt, chợ duy
nhất và lớn nhất của thành phố. Cô này không đẹp nhưng lại rất có duyên. Sau
nhiều ngày đi chơi chợ, Đặng Thế Phong đã lọt vào mắt mỹ nhân. Cặp tình nhân
trai tài, gái đảm đã dìu nhau vào cuộc tình thật trong sáng và cao thượng! Điều
đáng ca ngợi là chàng nhạc sĩ tài hoa họ Đặng không bao giờ đụng chạm đến đồng
tiền của người yêu, dù cho người đẹp, tên Tuyết, nhiều lần khôn khéo bày tỏ
lòng mình muốn giúp chàng. Những buổi chiều trời quang, mây tạnh hay gió mát,
trăng thanh, hai người đều dìu nhau trên những con đường ngoại ô để tâm tình.
Thời bấy giờ, nhiều thanh niên rất ngưỡng mộ Đặng Thế Phong, khi biết mối tình
của cặp Phong – Tuyết, đều mến trọng và tôn kính là một cuộc tình lý tưởng!
Đặc biệt nhất là mấy cô gái phố Hàng Đồng, gia đình rất khá giả tỏ lòng yêu mến
Đặng Thế Phong, nhưng ông vẫn một lòng yêu cô Tuyết, dù cô không đẹp bằng mấy
cô kia. Có một hôm, mấy cô kia đang đứng nói chuyện với nhau thấy Đặng Thế
Phong đi qua, với lối đi có vẻ vội vã. Thấy bóng ông, mấy cô ngưng bặt, rồi
chẳng cô ai bảo cô nào, tất cả ánh mắt đều hướng về ông như dán chặt vào người
ông vậy. Khi Đặng Thế Phong vừa bước tới ngang chỗ các cô thì một giọng nói đầy
hờn dỗi pha thêm mai mỉa, được nói lớn lên, cố ý cho Đặng Thế Phong nghe thấy:
- Mấy chị đứng dịch ra, người ta đi vội kẻo trễ hẹn !
Đặng Thế Phong nghe rõ nhưng coi như điếc, cứ rảo bước như không có gì xảy ra.
Đến nơi hẹn, gặp cô Tuyết đã đứng chờ, Đặng Thế Phong kể cho cô nghe vụ vừa bị
chọc ghẹo. Cô Tuyết không nói gì mà chỉ tủm tỉm cười với ánh mắt nhìn người
yêu, thật là trìu mến. Về nhà, Đặng Thế Phong không nói ra với anh chị em mà
thầm thì kể cho ông chú họ, cùng lứa tuổi, là ông Nguyễn Trường Thọ biết thôi .
Ngoài ra, ông còn kể cho ông Thọ nghe chuyện cô Tuyết có một chàng thông phán
trẻ, đẹp trai, có tiền, có địa vị, làm ở Tòa Đốc Lý thành phố theo đuổi, còn
nhờ cả hai người mai mối nhưng cô nhất quyết khước từ , bất chấp cả lời dị nghị
của mọi người, nhất là gia đình cố ý gán ghép.
Năm 1940, Đặng Thế Phong phải tạm xa cô Tuyết để lên Bắc Giang ít ngày. Ai đã
đến Bắc Giang là biết thị xã này có con sông Thương, một con sông có hai dòng
nước, bên đục, bên trong. Kẻ viết bài này, lúc bé học ở Bắc Giang, vào những
ngày hè nóng bức, cùng bạn bè ra sông bơi. đứng từ trên cầu ra tháp nước khá
cao, nhìn thấy rõ hai dòng nước đục trong rõ rệt !
Ở Bắc Giang, một buổi tối
trăng sao vằng vặc, Đặng Thế Phong đã cùng bạn bè thuê thuyền cắm sào rồi cùng
nhau chén chú, chén anh hàn huyên mọi chuyện. Đang lúc đang vui thì có người ra
đưa cho Đặng Thế Phong một bao thư. Ông ngưng ngay chuyện trò và vào trong
khoang, lấy bao diêm ra đốt lửa để coi thư và đây đúng là thư của cô Tuyết, từ
thành Nam
gửi lên cho ông. Đọc xong thư, ông có vẻ buồn và suy nghĩ. Bạn bè thắc mắc nên
hỏi, được ông cho biết thư báo tin cô Tuyết nhuốm bệnh cả tuần rồi và nhớ ông
lung lắm nên có lẽ ông phải về Nam
Định gấp! Chính đêm này, lúc đêm sắp tàn, Đặng Thế Phong thao thức không sao
chợp mắt được, đã ngồi dậy sáng tác được tác phẩm Con Thuyền Không Bến buồn não
ruột:
Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi giòng
Như nhớ thương ai trùng tơ lòng…
.. Lướt theo chiều gió
Một con thuyền theo trăng trong
Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng
Biết đâu bờ bến?
Thuyền ơi thuyền trôi nơi nao
Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu?…
Hai hôm sau Đặng Thế Phong từ giã bạn bè, rút ngắn thời gian để về Nam
Định. Được tin Đặng Thế Phong đã về, cô Tuyết thấy bệnh thuyên giảm rất nhanh. Và
tối hôm sau hai người hẹn gặp lại nhau. Lúc ấy miền Bắc đang vào Thu, gió heo
may kéo về mang cái lạnh. Tối hôm ấy trăng lên muộn, trời tối gió nhẹ làm cho
hai người thấy thích thú đi bên nhau để sưởi ấm lòng nhau sau bao ngày xa cách.
Dìu nhau đến nơi cũ, Đặng Thế Phong ghé sát tai cô Tuyết, hát nhẹ nhàng, giọng
rạt rào tình cảm như rót vào tai cô bài Con Thuyền Không Bến mà ông vừa sáng
tác trong một đêm trắng trên sông Thương vì thương nhớ cô . Khi hát xong, Đặng
Thế Phong phải lấy khăn tay ra nhẹ nhàng lau hai giòng lệ đang từ từ chảy xuống
má cô với lòng xúc động không kém! Lúc ra về, Đặng Thế Phong nói: “Làm được một
bài nhạc nhờ em, nay về được hát cho em là người đầu tiên nghe, thế là anh sung
sướng lắm rồi!”
Cô Tuyết cũng đáp lại lòng tri kỷ : “Là một người đàn bà tầm thường như em mà
đã làm cho anh có được một bài hát thì với em đó là một vinh dự, một hạnh phúc
thật cao sang, không phải ai ở trên đời cũng có được! Tình anh trao cho em thật
trọn vẹn, thật bất diệt, chắc chắn không bao giờ hình ảnh anh bị phai mờ trong
tim trong óc em được, bây giờ và mãi mãi..” Đến lúc ấy chị Hằng mới ló mặt ra
dịu dàng nhìn xuống trần thế và chứng giám hai người yêu nhau đang đứng sát bên
nhau sau khi đã uống cạn lời nói của nhau. Sau hôm ấy, Đặng Thế Phong mới cho
phổ biến rất hạn chế trong đám thanh niên tỉnh nhà bài Con Thuyền Không Bến,
được mọi người yêu chuộng nên rất nhiều người biết đến.
Chính vì thế mà có một người ở Hà Nội mới mời Đặng Thế Phong lên Hà Nội để hát
tại rạp chiếu bóng Olympia
bài hát của mình. Trong buổi ấy, Đặng Thế Phong ra sân khấu hát Con Thuyền
Không Bến đầy xúc động vì ngay ở hàng ghế đầu, cô Tuyết đã bỏ hẳn một ngày chợ
để lên Hà Nội nghe người yêu hát bài làm vì mình và cho mình ! Riêng với Đặng
Thế Phong, ông xúc động là phải vì với số khán giả đông đảo không đáng ngại mà
là trong lòng ông thầm nghĩ hát hôm nay rất cần và chỉ cần để một người nghe là
đủ nên phải mang hết tài trí ra biểu diễn sao cho thành công !
Hát xong, khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Sau một thời gian ở Bắc Giang, ông nhuốm bệnh. Vì lúc đó
bệnh lao là nan y nên ông dấu mọi người, ai biết đều sợ bị lây nhiễm, không
hiểu sao cô Tuyết biết được. Cô Tuyết rất tế nhị và khôn khéo hỏi Đặng Thế
Phong :
- Sao dạo này em thấy anh gầy và xanh lắm? Anh có bệnh gì không mà em thấy sút
lắm? Anh đi nhà thương khám và thuốc men , cho khoẻ để mình còn tính đến tương
lai !
Ông ậm ừ cho qua. Từ đó cô Tuyết âm thầm tìm mọi cách để giúp người yêu trong
lúc nhà nghèo bệnh trọng. Đặng Thế Phong cũng đến nhà thương để khám bệnh. Sau
khi dò hỏi, biết bệnh của ông, cô Tuyết nhân quen với một số y sĩ (médecin
indochinois) làm ở nhà thương, mua thuốc rồi nhờ ông ta nhận là thuốc của nhà
thương ông lấy cho Đặng Thế Phong. Thuốc bệnh lao lúc ấy vừa hiếm lại vừa đắt,
cô Tuyết không những không ngại tốn kém, mà còn thường xuyên gặp Phong để săn
sóc một cách kín đáo, kể cả không sợ bị lây. Về phần Đặng Thế Phong thì ông
không hề biết thuốc là của cô Tuyết mua cho mình. Trong các cuộc ao đẹp của văn
nghệ sĩ nước nhà, có hai nữ lưu đáng để người đời ca tụng : cô Tuyết biết người
yêu bị bệnh nan y, rất dễ lây, Mộng Cầm biết Hàn Mặc Tử bị bệnh phong cùi, vừa
ghê sợ vừa dễ lây thế mà hai ngườí đã có tình yêu chân thật, chung thủy, không
những không sợ mà còn hết lòng chăm sóc,thuốc men cho đến ngày tử biệt! Thật
hiếm hoi và cao quý vô cùng
Mùa xuân năm 1941, cô Tuyết cùng Phong từ Nam Định lên Hà Nội để tiễn chân và
tạm biệt Đặng Thế Phong vào Sài Gòn (rồi đi Nam Vang). Ở kinh đô xứ Chùa Tháp,
ở Hòn Ngọc Viễn đông một thời gian thấy cuộc sống cũng không được thoải mái như
ý mong muốn, Đặng Thế Phong trở về Hà Nội. Về lần này, Đặng Thế Phong không về Nam Định mà
thuê một căn gác hẹp tường cây, mái lá ở làng trồng hoa Ngọc Hà, vùng ngoại ô
thành phố Hà Nội. Đặng Thế Phong ở chung với chú là ông Nguyễn Trường Thọ. Bệnh
tình Đặng Thế Phong tái phát ngày một nặng vì người bị bệnh này phải mua thuốc
men đầy đủ, phải nghỉ ngơi và ăn uống tẩm bổ tối đa mà những điều phải ắt có và
đầy đủ này, với Đặng Thế Phong không thể có được. Chính vì thế mà không tuần
nào là cô Tuyết không lên thăm và lo chữa bệnh cho Đặng Thế Phong.
Tháng Bảy mưa ngâu tầm tã, rả rích suốt ngày này sang ngày nọ, tháng này qua
tháng khác, gió lạnh kéo về, nhà thì tường cây, mái lá, lạnh buốt lọt xương,
cuộc sống kham khổ khiến bệnh tình Đặng Thế Phong ngày càng trầm trọng. Từng
cơn ho làm rũ người, tiếp đến những cơn thổ huyết làm cho Đặng Thế Phong ngày
một sút hẳn đi. Một mình trên giường bệnh, Đặng Thế Phong nhớ gia đình thì ít
mà nhớ người yêu thì nhiều. Thân xác thì bệnh tật khó qua, tâm trí thì luôn
luôn phải vật lộn với trăm ngàn ý nghĩ và hình ảnh cuộc tình tươi đẹp nên bệnh
mỗi lúc một tăng.
Còn đâu những cuộc hẹn hò thơ mộng, quên làm sao được những lời thủ thỉ ân tình
và hy vọng gì ở những ước vọng được thành đôi chim nhạn tung trời mà bay, tất
cả đã được Đặng Thế Phong ngày đêm day dứt, tiếc thương, muốn níu kéo lại thì
cũng chẳng còn gì để bám víu!
Đặng Thế Phong đã mang lấy nghiệp vào thân thì đời con tằm đến thác cũng còn
vương tơ, tránh sao thoát khỏi cái lưới trời thưa mà khó lọt ấy ? Chính vì lẽ
ấy mà Đặng Thế Phong đã thực sự thể hiện được câu các cụ đã dạy cọp chết để da,
người ta chết để tiếng, dù cuộc đời ông ngắn ngủi với 24 mùa lá rụng, một cuộc
đời ngắn đến nổi đo chửa đầy gang!
Thế rồi, một hôm mưa rơi tầm tã, giọt mưa lộp bộp trên mái lá, thánh thót từng
giọt xuống đường, Đặng Thế Phong buồn quá, con tim như thắt lại, máu trào lên
để có được một nhạc hứng lai láng, tràn trề khiến ông gượng ngồi dậy viết một
hơi điệu nhạc buồn da diết, não nề. Ông viết xong bèn đặt tên cho sáng tác mới
ấy là Vạn Cổ Sầu. Chập tối ông Thọ về có thêm dăm người bạn đến thăm, Đặng Thế
Phong ôm đàn hát cho mọi người nghe. Nét mặt của mọi người nín thở nghe, đều
buồn như muốn khóc. Nghe xong, ai nấy đều khen bài hát thật hay, xoáy vào tim
vào óc nhưng cái tên bài bi thảm quá, nên sửa lại thì hơn. Chính vì thế mà Đặng
Thế Phong, đổi tên là Giọt Mưa Thu.
Có lẽ đây là cái điềm báo trước, là lời di chúc tạ từ nên
Đặng Thế Phong lấy mưa ngâu, mùa mưa là giòng nước mắt tuôn chảy lênh láng của
Chức Nữ với Ngưu Lang để ví cuộc tình Phong – Tuyết cũng phải cùng chung số
phận phũ phàng giống vậy chăng ? Đến một ngày cuối năm 1941, biết mình khó qua
khỏi lưỡi hái của tử thần, Đặng Thế Phong mới ngỏ ý trở về Nam Định để được
chết tại quê nhà và muốn ông Thọ dìu ông về.
Về nhà, lần này cô Tuyết đích thân đến hàng ngày để chăm sóc, thuốc men cho
Đặng Thế Phong, không ngại mệt mỏi và không sợ nguy hiểm đến bản thân mình.
Những người quen biết đến thăm, thấy cảnh ấy đều mũi lòng và khâm phục lẫn mến
thương cuộc tình cao quý, chung thủy của cặp Phong -Tuyết.
Không biết có phải là tại thần giao cách cảm hay không mà một hôm, nhạc sĩ Bùi
Công Kỳ đột nhiên từ Hà Nội về Nam Định thăm Đặng Thế Phong lại vừa đúng lúc
Đặng Thế Phong sắp lìa đời. Trên giường bệnh, phút lâm chung, không nói gì được
với nhau, Bùi Công Kỳ ôm đàn hát cho Đặng Thế Phong nghe một lần chót bài Giọt
Mưa Thu. Giọng hát Bùi Công Kỳ vừa dứt thì mọi người nhìn thấy Đặng Thế Phong
mở cặp mắt nhìn như ngỏ lời chào vĩnh biệt rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối
cùng.
Một vì sao Bắc Đẩu của làng nhạc Việt Nam, vừa ló dạng trên bầu trời đã
vụt tắt gây niềm xúc động mãnh liệt và niềm thương tiếc vô bờ trong lòng mọi
người ! Trong tang lễ, nam nữ thanh niên của thành Nam đã lũ lượt kéo nhau đi , chật
cả phố phường để tiễn đưa Đặng nhạc sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng với rất nhiều
cặp mắt rưng rưng lệ ! Cô Tuyết xin phép và được cả hai gia đình cho, mặc đại
tang, đúng như một người vợ trong tang lễ chồng, thật là cảm động.
Năm 1960, tại Phú Nhuận, tôi được tiếp một thiếu phụ chưa hề quen biết. Sau lời
chào hỏi, bà tự giới thiệu tên là Tuyết, người Nam
Định, di cư vào Nam
hiện ở Ban Mê Thuột. Nhân lần vô tình đọc trên báo Tự Do, thấy quảng cáo trước
cuốn Nhạc Sĩ Danh Tiếng Hiện Đại (tập II) của tôi sắp xuất bản, viết về năm
nhạc sĩ trong đó có Đặng Thế Phong, nên bà về gặp tôi để xin tôi cho bà mượn
hình của cố nhạc sĩ, chụp lại để về thờ. Trước kia, bà đã có nhưng lúc sắp di
cư tấm ảnh đó bị thất lạc, kiếm mãi không sao thấy. Tôi vội lấy ảnh đưa ngay.
Cậu cháu đi theo bà mang ngay ra tiệm hình ở đầu hẻm chụp gấp lấy ngay, xong
trở vào gửi trả lại tôi. Trong lúc cậu cháu đi chụp hình, tôi có hỏi bà về
chuyện tình tươi đẹp như bài thơ, trong sáng như trăng mười sáu thì bà Tuyết
xác nhận những điều tôi biết là đúng và còn bổ sung cho tôi thêm ít nhiều chi
tiết. Bà cũng không quên nói lên điều thắc mắc là tại sao tôi biết rõ thế ? Tôi
nói thật ngay là được ông chú Nguyễn Trường Thọ cho tôi mượn ảnh, kể rành rẽ
cuộc đời ái tình của Đặng Thế Phong cho tôi nghe. Bà cười và nói:
- Chú Thọ tuy là chú nhưng cùng tuổi với anh Phong, nên hai người vừa là chú
cháu vừa có tính bạn bè, nên trong gia đình chỉ có chú Thọ là được anh Phong
tâm sự mà thôi. Thảo nào ông biết quá rõ, quá đúng và quá đủ !
Sau lời cám ơn và trước khi ra về, bà Tuyết còn nói với tôi câu cuối cùng, đến
nay đã 35 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ :
- Cho đến ngày hôm nay, và mãi mãi về sau, tôi tôn thờ anh Phong và đời tôi
luôn luôn thương nhớ anh ấy với tất cả cái gì trân trọng nhất.
Viết ra những giòng trên đây, tôi xin được phép coi là nén hương lòng, suy tôn
một bậc đàn anh khả kính và khả ái. Tuy anh đã ra người thiên cổ hơn nửa thế kỷ
rồi nhưng những Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu vẫn là những vì sao
tinh tú sáng rực trên bầu trời ca nhạc. Thể xác anh có thể trở về hư không
nhưng tinh anh vẫn còn lại muôn đời với giang sơn gấm vóc này. Cuộc đời con
người ta, sinh ký, tử quy đó là luật muôn đời của tạo hoá. Nhưng khi sống cho
ra sống, lúc về được qua Khải Hoàn Môn, khi cất ba tiếng khóc chào đời, mọi
người hân hoan cười mừng đón ta, khi nhoẻn miệng cười để lìa đời, mọi người
thương tiếc khóc ta, thế mới thật là sống, mới đáng sống ! Anh đã vĩnh viễn ra
đi nhưng tất cả những thế hệ hậu sinh, dù chưa được biết anh, khi hát những bài
hát bất hủ của anh để lại, đều tưởng nhớ đến anh, một thiên tài mà ta có thể
nói anh là một MOZART của Việt Nam,
với tất cả tấm lòng kính mến trang trọng nhất !
Tôi cả tin rằng, dưới suối vàng. anh cũng có thể mỉm cười mãn nguyện. Hiển
linh, anh về chứng giám và nhận cho nén tâm nhang này.
Lê Hoàng Long