2012/08/08

*NHỮNG LY CHÈ ĐẬU ĐỎ

(Về bạn Đỗ Hoàng Minh)
Đỗ Hoàng Minh lúc là SV Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức
Mùa tựu trường năm 1970, được về dạy tại trung học Đoàn Thị Điểm Cần Thơ, tôi có cơ hội gặp lại bạn thời trung học Đỗ Hoàng Minh, một bạn chí-cốt cũng đang làm việc tại Cái Răng. 
Bạn có cho biết gia đình bạn đang sống tại thị-trấn Phụng-Hiệp (Phong-Dinh) nhưng chưa một lần đến chơi vì chúng tôi có thể gặp nhau bất-cứ lúc nào tại phố-thị Cần-Thơ. 
Sau này, vào lúc muốn tìm thăm bạn để tạm-biệt đi xa, tôi đành phải cầu may đi hỏi thăm láng-giềng của bạn.
Bằng xe gắn máy, từ Cần-Thơ trên đường hướng về cuối miền đất nước, tôi đến xóm nhà trước khi gặp cầu Phụng-Hiệp như Minh chỉ dẫn lúc trước; rất may bà con cho biết gia-đình bạn vẫn còn ở nơi này.

Vợ của Minh ân-cần tiếp đón và cho biết chồng đang đi làm việc đến tối mới về nên chỉ đường cho tôi đến gặp bạn ngay.
Tại nơi làm việc là lò sản-xuất đường bên dòng kinh Búng Tàu hiền-hoà, cạnh những đống mía ngổn-ngang vừa chất lên bờ từ ghe thu mua, những đống bã mía vừa ép xong còn mùi thơm hấp-dẫn đám ruồi, với vẻ ngạc-nhiên cùng tột, với đôi chân không…cân-đối nhau (vì bị mìn khi còn trong quân đội, không chết là may), bạn “cà nhắc” ùa chạy đến ôm chầm tôi mừng-rỡ. Không ngờ hai đứa còn gặp nhau sau hơn mười năm từ khi bắt-buộc phải lìa bỏ Cần-Thơ, nơi hai đứa đã có thêm rất nhiều kỷ-niệm đầm-ấm không kém so với thời còn đi học.
Tức-khắc, bạn giao công việc cho người khác, cùng tôi trở về nhà để hàn-huyên. Một bửa cơm đạm-bạc được chị Minh nấu nhanh đải khách; ba món canh chua tôm bông so đũa, hột vịt xào khổ qua và cá trê vàng nướng chấm nước mắm gừng. Ôi bửa cơm tái ngộ rất “truyền-thống của dân Nam Bộ” sao mà hấp-dẫn vô cùng; càng ngon hơn khi nó chan-hoà tình bạn thân-thiết của hai hàn-sinh đã từng chia ngọt xẻ bùi cũng như cay đắng thuở nào. Tay vừa cầm đũa, miệng đã hỏi đáp “túa xua” từ lúc bắt đầu bửa cơm tái-ngộ dẫn cho đến khuya hôm ấy; đêm tôi ở nhà bạn lần đầu (và có lẽ là lần cuối). Hỏi han nhau những gì đã xãy ra khi chúng tôi phải lìa bỏ mọi công việc đang làm ăn ở Tây-Đô để trở về nguyên-quán năm nào
(1975). Khoảng thời-gian sau đó chúng tôi cùng trãi-nghiệm những tình-huống tương-tự với nhau; những truân-chuyên rồi cũng qua đi để cuộc sống trong hoàn-cảnh mới được hình-thành.

Thật là thoải-mái và hạnh-phúc khi chúng tôi có dịp quay về dĩ-vãng, thuở hai đứa được trúng tuyển vào trường Collège de Vĩnh-Long mà sau đó không lâu được đặt tên bằng quốc-ngữ Trung-Học Công-Lập Nguyễn Thông và tiếp theo đổi thành là Trung-Học Tống Phước Hiệp.
Đối với học-trò khờ khạo của trường nhỏ miền quê vừa đậu Tiểu-học như chúng tôi, chập chững lên phố-thị vào trường trung-học là một biến-cố vĩ-đại của đời mình. Bao nhiêu khó-khăn, ngỡ-ngàng khiến mình vừa lo sợ vừa bị kích-thích trên bước đường học-hành xây-dựng tương-lai.
Dạo đó, Minh và tôi chưa quen biết, mãi đến cấp lớp đệ nhị (hay 11) do một tình-cờ mà từ đó bắt đầu chơi thân khi biết hoàn-cảnh giống nhau: cùng là học-trò nghèo từ quê lên tỉnh-lỵ, được tha-nhân giúp-đở cho ở trọ miễn phí mà còn xem như con cháu trong nhà.
Cuối niên-khóa lớp đệ nhị, chúng tôi phải đi thi Tú-Tài 1 cho nên mọi môn học cần phải chăm-chỉ trau-giồi cẩn-thận nhất là những môn chánh như Toán, Lý Hóa và Việt văn . Năm ấy có một vị giáo-sư Việt Văn rất tích-cực dạy dỗ chúng tôi. Thầy soạn rất nhiều tài-liệu cho học-sinh tham-khảo, nhiều bài thơ của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Cao Bá Quát…bắt chúng tôi học thuộc lòng để có tài-liệu dẩn-chứng khi làm luận văn. Thầy cần “quay rô-nê-ô” bài vở để phát cho tất cả học-trò của thầy. Thầy giao cho hai đứa tôi làm việc này. Rô-nê-ô là lối in thông-dụng thời đó: đánh máy bài viết lên giấy stencil, loại giấy đặc-biệt rất dai không thấm ướt, máy đánh chữ sẽ đụt lỗ trên giấy khi đánh chữ. Sau đó giấy này được gắn lên “máy rô-nê-ô” quay bằng tay, bài viết in ra được đóng lại thành tập như quyển sách. Công việc này đòi hỏi phải kiên-trì, chăm-chỉ, kỹ-lưỡng…Thầy cho chút ít thù-lao trích ra từ tiền do học-sinh góp lại cho chi-phí. Sau giờ học, hai đứa “tác-nghiệp” bằng cách nhờ máy đánh chữ, và máy quay rô-nê-ô của văn-phòng của nhà trường. Một đứa đọc bài cho đứa kia đánh máy và thay phiên nhau…
Sau những giờ “làm việc” nhọc-nhằn, để tự tưởng thưởng cho mình khi có tiền thù-lao, hai đứa thường đạp xe lên miếu Bảy Bà*(nơi này lúc ấy có bán hàng ăn vặt,thức uống trên những xe đẩy nhỏ cho học sinh), tọa-lạc giửa Trung-Học Bán Công Nguyễn Thông (lúc ấy trường Trung-học công-lập Nguyễn Thông đã đổi tên thành Trung-học công-lập Tống Phước Hiệp và trường Trung-học bán công của tỉnh nhà mới dùng tên Nguyên Thông) và Trung-học Tư-thục Long Hồ, để thưởng-thức những ly chè đậu đỏ rất ngon, béo và ngọt và có lẽ …càng ngon ngọt béo hơn khi để tâm-hồn bay theo những tà áo dài trắng thướt tha trước mắt. Nhớ bạn tôi ăn chè đậu đỏ …với cái miệng rất dễ thương: không bao giờ thiếu những cái chép miệng và đôi lúc có cả …hít hà (tại sao chắc ai cũng biết)!!!


Say-sưa nhắc những kỷ-niệm khác nữa cho đến quá khuya, nhưng phải tạm dừng lại để đi ngủ khi chúng tôi nghe được tiếng “tằng hắng” của chị Minh vẫn chưa an giấc.

Anh Tú (Nguyễn Hồng Ẩn /NHA)
August 8, 2012

*Miễu đã trùng-tu và ghi là “Di-Tích Cửa Hữu Thành Long-Hồ”

2012/07/25


MỘT CẢNH ĐỜI

Tôi có ông anh họ không may mất sớm để lại ba con còn nhỏ và người vợ trẻ. Chị dâu của tôi, một phụ nữ miền quê sống nghề ruộng rẫy, bất chợt gánh nặng gia đình đè lên đôi vai ốm yếu của chị. Chị đã kiên gan làm việc cực nhọc để phụng dưỡng mẹ chồng và nuôi nấng ba con đến lớn khôn có đời sống đạo đức và hạnh phúc. Chị vẫn thủ tiết thờ chồng cho đến ngày nay mái đầu đã trắng phao. Hoàn cảnh của chị đã cho tôi cảm hứng, góp nhặt những mảnh đời khác nữa để tạo ra một câu chuyện tương tự sau đây; dỉ nhiên tên các nhân vật không thật và nếu có trùng tên thì chỉ là tình cờ.

***

Có một thị trấn bình thường, bình dị, bình an nằm bên giòng sông hiền hoà nước ngọt quanh năm nối liền sông Tiền và sông Hậu của Cửu-Long-Giang. Thị trấn này chỉ có một con đường với hai dãy phố gồm những căn nhỏ nhắn buôn bán đủ loại hàng hoá cung cấp cho nông dân quanh vùng.

Nơi đó có cửa tiệm vợ chồng chú thiếm Hai. Bà con bên ngoài thấy họ chăm chỉ làm ăn, hòa thuận, anh anh em em, nghĩ rằng đó là một cặp vợ chồng thật hạnh phúc.Bỗng nhiên không rõ vì lý do gì, người vợ bỏ đi, chồng phải quán xuyến mọi việc trong nhà.
Ở tuổi còn thanh xuân và cũng cần có người phụ giúp bán buôn, nên chú Hai có ý tìm người tục huyền.Cuối cùng chú ghé mắt đến cô Ba cùng lứa tuổi với chú, sắc vóc bình thường như bao người con gái quê của Nam Kỳ Lục Tỉnh trái ngọt cây lành nhưng hiền lành, đảm đang.

Ban đầu hằng ngày họ gặp nhau chào hỏi, nói chuyện nắng mưa dẫn lần đến thân quen rồi thương yêu. Chú nhờ cha mẹ đứng cưới xin cô Ba đàng hoàng theo mọi thủ tục cổ truyền rất đầy đủ.
Cuộc sống chấp nối của cặp đôi này, chồng một lần hôn nhân lở vở, vợ là gái còn son xem ra cũng hoà thuận và hạnh phúc vô cùng. Năm sau người vợ mới của chú Hai hạ sinh một trai kháu khỉnh.
Thời gian âm thầm trôi qua…..Bổng đất bằng dậy sóng, người vợ cũ của chú trở về với một đứa con nhỏ. Chú “hoan hỉ” đón người vợ cũ  vào nhà. Ai đâu ngờ chú Hai đã tráo trở phản bội cô Ba, “bắt cá hai tay”!. Họ phải sống chung một nhà và cô Ba đã bị người vợ cũ, thiếm Hai, ăn hiếp trước sự thờ ơ, không biết cố ý hay vô tình, của ông chồng.
Ai cũng nói: Chú Hai bị vợ bỏ, cưới hỏi cô Ba một cách đàng hoàng thì rõ ràng cô Ba ở cương vị vợ chánh hợp pháp dù là đến sau. Nhưng vốn hiền lành và không được sự che chở của chồng, cô đành chịu thiệt thòi, chán nản bồng con trở về nhà mẹ, bán buôn cò con để nuôi đứa trẻ vô phước của hôn nhân đổ vở một cách thật vô lý và bất công với cô.
Vì cách hành sử vô đạo lý của mình, Chú Hai đã đánh mất tình cảm tốt đẹp của bà con ở thị trấn dành cho. Người đàn ông này đã xem cô Ba và đứa con máu mủ của mình như người xa lạ; càng tệ bạc khi không có một sự cấp dưỡng, giúp đở dù nhỏ nhặt nào. Người đàn bà hiền hậu cam phận chịu đựng hoàn cảnh nghiệt ngã ấy, sống một mình nuôi con khôn lớn, không lời oán trách.
Chẳng những thiếm Hai chua cay, hách dịch với cô Ba …mà đám con của thiếm cũng giống như mẹ, đối xử  và xem mẹ con của cô như kẻ thù có lẽ vì sợ chia phần tài sản của chú Hai chăng?
Thời gian trôi qua âm thầm, người lớn thành người già, trẻ con thành người lớn, tất cả rồi cũng phôi pha. Đến một ngày chú Hai bịnh qua đời, thiếm Hai và đám con tiếp tục sống thoải mái với cơ ngơi của chồng/cha để lại.
Nay cô Ba cũng đã già, bịnh hoạn, bán buôn thua lỗ. Anh Thảo, con trai của cô nay đã lớn, lập gia đình,  phải thức khuya dậy sớm, làm việc cực nhọc kiếm tiền nuôi mẹ, bà ngoại và vợ con.
Ngày qua ngày vì lao lực , anh ngả bịnh và ra đi để lại người vợ trẻ; còn cô Ba phải chịu cảnh trẻ già khóc măng non. Một nét son đã điểm lên cho những người phụ nữ hiền thục của Việt Nam là người vợ trẻ của anh Thảo vẫn “ở vậy” thờ chồng, chắt chiu nuôi con,  một lòng kính mến /nuôi dưỡng mẹ chồng …. Những thập niên của thế kỷ trước có rất nhiều thiếu phụ miền quê đã hành xữ như vợ Thảo; còn bây giờ thì sao?

Và có phải là quả báo nhãn tiền hay không mà một số con cái của chú thiếm Hai đã sớm theo chú Hai và thiếm thì bị bịnh hoạn hành hạ khổ sở trước khi lìa đời?
Còn những đứa con của anh Thảo, dưới sự chăm sóc của chị Thảo, cộng với tình yêu thương rất mực của bà nội nay đã khôn lớn và thành danh trên đường đời. Những đứa con này là những người hiếu thảo đã  chăm sóc, nuôi mẹ và nội; dù làm xa cũng thường xuyên cố gắng về thăm hai người ruột thịt yêu dấu của mình.
Phải chăng đây là một bi hài kịch của xã hội con người vốn có trí óc, có suy nghĩ mà đã dẫm lên đạo lý làm người để mang tiếng xấu với hậu thế nói chung và cho bà con lối xóm của mình nói riêng, thường xãy ra trong một xã hội ngày càng băng hoại đạo đức? Và may thay cuộc sống vẫn còn ý nghĩa khi hiếm hoi có những người như gia đình anh chị Thảo còn giữ được những nếp sống đạo đức tốt đẹp của xã hội ta.

Anh Duy
25/7/2012


2012/07/11

HAI BỜ SÔNG HẬU

Quê mẹ không gian luôn bỏ ngõ
Chờ ta về tỏ rõ tâm tình
Thời gian trôi tưởng đâu mất dấu
Tiếng thơ ai réo gọi lòng mình.

Sông Hậu bình minh ngày lên hẹn
Hai chuyến phà đưa ngược hướng nhau
Em đến lớp anh đi đến sở
Nắng đón gió mai thở ngọt ngào!

Đất Vĩnh bờ đông quê em hở?
Tây Đô vùng nhớ áo trắng bay?
Mơ tương lai sáng, tình lên sóng
Yêu đương vương vấn? Vẫn còn say?

Sông Cửu đôi bờ dày mơ mộng
Bảng đen phấn trắng nghiệp đời tôi
Một thuở vung tay xây ước vọng
Bất phùng thời gió cuốn mây trôi!  

Anh Tú
July 11, 2012