KIM ANH với MÙA THU LÁ BAY
Blog CHIA SẺ VUI BUỒN: Viết, đọc thơ văn là thú vui tao nhã. Xin chép lại nơi đây thơ văn của bè bạn, của tôi và sưu tầm những bài hay của các thi văn sĩ thành danh nổi tiếng, bên cạnh đó là những nhạc khúc, clips, hình ảnh đẹp … để chia sẻ với mọi người cùng tìm chút niềm vui. Anh Tú anhtu010168@yahoo.com.vn
2014/08/31
2014/08/29
NỮ CA SĨ KIM ANH
Rượu, ma túy và than phận
Mỗi năm, nữ hoàng “Mùa Thu lá bay” sống và hát ở Việt Nam
khoảng 6 tháng. Dù đã nổi tiếng từ lâu và ở cái tuổi không nhiều lợi thế cho
việc hát nhưng chị nói rằng, chị đang ở một giai đoạn hồi sinh tiếp theo. Đó là
sự hồi sinh sau bao bĩ cực như một vở bi kịch mà người đàn bà vốn mạnh mẽ như
đàn ông này đã tự diễn kín với chính mình suốt cả cuộc đời.
Kim Anh uống rượu rất khỏe và gần như là một “độc cô cầu
bại” trên bàn nhậu. Thuốc lá đốt cũng nhiều, mà phải là thuốc nặng đô. Chị nói :
- “Anh cứ nhìn mặt tôi uống hàng chai rượu mà mặt cứ tỉnh
như sáo thì anh đừng ngạc nhiên. Đau cỡ nào về cả thể xác lẫn tinh thần, với
tôi giờ như không nghĩa lý. Đưa xương cho người ta khoan để bắt vít, không tiêm
thuốc tê, tôi còn chịu được nữa là. Đôi lúc buồn quá, 3 giờ sáng ngẩng mặt lên
hỏi trời còn điều gì đày ải nữa cứ đày ải nốt đi, con chịu được hết ! Có lẽ giờ
này, trời cũng nên để yên cho tôi được rồi đấy !”
Những đày ải, bĩ cực cuộc đời mà một kiếp đàn bà phải chịu,
gần như Kim Anh đã phải gánh hết. Sự bất cần, sự không sợ sệt, cùng những tỉnh
bơ với đau đớn, cùng rượu, cùng tro tàn của sự thiêu đốt mình suốt một quãng
đời, chưng cất trong giọng hát Kim Anh để trở thành một chất giọng đặc thù
không giống ai. Thế mà nỗi buồn trong giọng hát chị, không nhuốm màu cay đắng,
không bị ám ảnh của cô đơn, nhưng cũng không có chức năng ru ngủ. Nó như một
thứ cồn rửa vết thương. Rằng, dốc hết đốt hết những gì Kim Anh có, cũng chỉ để
rửa những vết thương trong lòng người nghe mà thôi.
Bài hát định mệnh
Nhắc đến thế hệ ca sĩ
vàng ở hải ngoại một thời, thấy ai cũng có một xuất phát điểm và một sự nghiệp
lẫy lừng. Còn nhắc đến Kim Anh trong quá khứ thường không thấy một dữ liệu gì
ngoài bài
hát Mùa thu lá bay, được chị hát vào những năm 80 ?
- Tôi đến với ca hát khá ngẫu nhiên và xuất phát điểm ca hát
của tôi cũng là ở trời Tây chứ không phải ở Việt Nam . Tôi gốc người Hoa, sinh ra và
lớn lên ở cù lao Ông Chưởng (tỉnh Đồng Tháp). Hồi nhỏ, tôi nổi tiếng thông minh
và quậy phá. Năm 1969, tôi được một học bổng qua Mỹ học về kế toán. Đầu tháng
5/1975, tôi gặp một người Mỹ gốc Hoa, là chủ nhà hàng lớn Empress ở Wasington
DC, nhờ tôi làm thông dịch tiếng Việt cho một số anh chị em nghệ sĩ, cũng là
một ban nhạc vừa di tản từ Việt Nam sang sau khi Sài Gòn thay đổi.
Hàng ngày, tiếp xúc với ban nhạc, thấy tôi cũng nghêu ngao
thì họ bảo, cứ hát chơi một bài. Tôi hát, ban nhạc họ rất thích. Từ đó tôi trở
thành ca sĩ nữ duy nhất của ban nhạc hát hàng đêm tại nhà hàng. Năm 1977, có
một người bạn là ca sĩ ở New York rủ tôi lên New York sống và hát với
tư cách là một ca sĩ độc lập. Những năm này tôi hát chủ yếu cho một nhà hàng
người Hoa ở New York ,
hát nhạc Tây lẫn nhạc Hoa nhưng hầu hết là nhạc Hoa. Những bài như Mùa Thu lá
bay hay Máu nhuộm Bến Thượng Hải tôi đã hát tiếng Hoa trong thời gian này.
- Được biết Mùa Thu lá
bay đến với chị để rồi chị trở thành một ca sĩ Kim Anh nổi tiếng là một câu
chuyện rất lạ. Chị có thể kể rõ hơn câu câu chuyện này ?
- Năm 1982, nhà ở Việt Nam nhắn tôi rằng ba tôi sắp mất và
trước khi qua đời ông muốn được nghe giọng nói của tôi. Tôi đi thu một băng
cassette với 11 bài hát cả lời Việt lẫn lời Hoa gửi về để như an ủi ba được
nghe giọng của đứa con từ phương xa, cũng như để nói với ba tôi vẫn giữ gốc gác
của mình. Cái khó là thời gian này chủ yếu tôi hát tiếng Anh và tiếng Hoa, với
nhạc Việt tôi hoàn toàn lạ lẫm nên thu một cuốn băng cũng chỉ là để ba nghe
giọng mình, chứ cũng chẳng nghĩ sẽ đi dài và xa hơn như sau này.
Lúc cuốn băng về đến nơi ba đã mất được ba ngày, mắt vẫn mở.
Má lại gần và nói : “Thôi ông ơi, dù con không về được, con cũng gửi giọng nói
về. Ông yên lòng nhắm mắt cho con dễ làm ăn”. Thế, đôi mắt ba từ từ khép lại,
một giọt nước mắt đã khô đọng phía dưới quầng mắt ba.
Những ngày ba mất, tôi buồn nghe đi nghe lại cuốn băng, chợt
chạnh lòng thương phận mình xa xứ, tử biệt sinh ly có thể là những điều gắn
chặt. Tôi gửi cho bạn bè một số cuốn băng để tặng, như một sự chia sẻ. Nào ngờ,
người nọ chuyền tai người kia, họ gọi cho tôi và mua băng. Tiền gửi về lúc đó
cũng rất nhiều. Tôi vẫn nghĩ đó đơn thuần chỉ là động viên, an ủi.
Còn 70 cuốn, lúc đó tôi cũng chẳng biết làm gì. Tôi lái xe
qua Trung tâm băng nhạc Thanh Lan, giới thiệu tôi là ca sĩ mới, tên là Kim Anh
và mong họ mua băng với giá 4 đô la/cuốn (tiền công thu là 4,25 đô la). Bà chủ
còn hỏi : “Kim Anh Ba Con Mèo phải không ?”, tôi nói không phải. Tôi đưa 10
cuốn cho bà nghe thử, nếu được thì bà lấy, không thì thôi. Khi tôi đi được 10
cây số, bà lái xe theo và nói có bao nhiêu bán hết cho bà, bà sẽ trả 4,5 đô
la/cuốn. Tôi nổi tiếng với Mùa Thu lá bay bắt đầu từ đó.
Tai ương, hồi sinh và
hủy diệt
- Sự nổi tiếng
mang lại danh vọng, tiền bạc nhưng cũng có thể gây không ít tai ương cho người
nghệ sĩ. Hình như, trong những năm đó, cũng có rất nhiều biến cố xảy đến với
cuộc đời chị ?
- Chính xác là những tai ương xảy đến từ những ngày tôi cầm
đồng tiền đầu tiên của nghiệp cầm ca. 8/1/1978, New York có bão tuyết, tất cả
xe cộ ngoài đường hầu như không lưu thông được nữa. Đúng lúc đó tôi gặp người
hàng xóm đang đỗ xe trong garage và cho tôi đi nhờ về nhà. Khi qua cầu, đúng
lúc gặp bão xoáy, xe bị quay rồi va vào thành cầu. Gần 3 năm trời tôi sống
trong nhà thương, không một người quen thân bên cạnh, sống chủ yếu nhờ lòng tốt
của thiên hạ. Toàn cơ thể tôi lúc đó chi chít vết thương. Chân tay liệt. Đầu
vẹo. Mặt chi chít vết khâu, 285 mũi. Lưng cong. Nói chung, nghĩ về cái chết khi
đó, tôi còn thấy nhẹ hơn việc nghĩ mình sống.
Bác sĩ sợ tôi cắn lưỡi tự tử nên suốt ngày để nẹp miệng. Họ
nói, giờ nếu bắt vít vào cánh tay thì lưng cong suốt đời. Mà chữa cho lưng
thẳng xem như tay bị liệt. Tôi nói, có tay mới làm được việc, chứ lưng cong
cũng chẳng sao. Lúc này tôi nghĩ rằng, cả cuộc đời tôi chắc cũng mãi gắn với
chiếc xe lăn. Nhưng tôi chợt nhớ, mình còn giọng hát. Dù thế nào cũng phải sống
để mà hát, kể cả hát rong kiếm tiền nhưng trước hết là phải sống.
- Vậy làm thế nào
mà chị thoát khỏi chiếc xe lăn và đặc biệt là sống qua những ngày “phế nhân”
khi không có một người thân nào bên cạnh ?
- Thời gian đó, ông chủ nhà hàng qua thăm tôi trong bệnh
viện, quyết bảo lãnh tôi được hát vì lý do rằng, chỉ có hát cô ấy mới cảm thấy
được sống. Họ cho người đến bế cả xe lăn, tôi hát Diễm xưa cùng nước mắt của
khán giả, nước mắt mình, nhất là đoạn “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”.
Đi hát, ý chí thúc tôi phải thoát khỏi cái xe lăn càng sớm
càng tốt. Tôi muốn được đứng lên, muốn được đi ra, muốn được bay nhảy với những
giai điệu như trước đây. Có lẽ, ông trời chơi khăm, muốn bắt tôi hát nhạc buồn
suốt đời, nên cứ để tôi ngồi, và hát là đủ. Mỗi tối, trước khi lên sân khấu,
tôi phải uống rượu. Uống để quên mình buồn nhưng càng uống càng thấy tỉnh. Dần
dần, rượu thành người bạn không thể thiếu mỗi lần lên hát.
Một bác sĩ người Do Thái vào thăm tôi trong bệnh viện và
quyết cãi trước tòa để tôi được ra ngoài tìm bác sĩ chữa trị cho mình để có cơ
hội cất tiếng hát hàng đêm. Đúng lúc ấy, có một cậu người Đài Loan thích nghe
tôi hát Mùa Thu lá bay ở nhà hàng, quyết đón tôi về ở để có bác sĩ chăm sóc cho
tiện.
Được 2 tuần, người nhà cậu ở Đài Loan có công chuyện nên cậu
phải về đó, không biết khi nào trở lại. Vừa gặp quý nhân chưa lâu thì như thế,
tôi rất hoang mang về phần mình. Đứng không đứng được. Đi không đi được. Lúc
đó, tôi chỉ ước cứ ngồi thế mà chết cho rồi. Đúng lúc hoang mang nhất, tôi nghe
dưới nhà có hai người nói tiếng Việt. Họ nói “địa chỉ này đúng là nơi cô ca sĩ
Kim Anh hát trên xe lăn ở đây”. Họ qua thăm, biết được tình hình tôi, họ nói :
“Thôi, cô về nhà anh chị mà ở. Đừng ngại gì, đời người ai chẳng gặp lúc hoạn
nạn”. Tôi mừng quá, xỉu luôn.
Về nhà, ba cô con gái của ông bà thay nhau đút cơm cho tôi
ăn. Hai năm ròng được quý nhân cưu mang, chữa trị, đến khi cắt băng, tôi xin đi
chứ không làm phiền quý nhân của mình thêm nữa. Ba năm trời đau đớn, ngồi cho
người ta khoan từng mũi vào xương và ngủ ngồi, đến lúc ráp xương, được ngủ nằm,
là một hạnh phúc lớn nhất đời khi đó. Tôi ngủ vùi 4 đêm, 5 ngày, nhiều người cứ
nghĩ là tôi chết. Không, tôi đã hồi sinh sau một quãng đời tưởng chừng như chẳng
bao giờ có ngày này.
- Sự hồi sinh này
có làm cho giọng hát chị vui lên, hay vẫn cứ buồn như những ngày “thân em giờ
hoang phế, lê theo thời gian giông gió” ?
- Một sự hồi sinh mới, nhưng lại bắt đầu một cuộc hủy diệt.
Thời gian trong bệnh viện các bác sĩ đã cho tôi dùng thuốc lá và ma túy để quên
đi cơn đau. Tôi nghiện là tại tôi, cũng chẳng trách các bác sĩ được. Mình lạm
dụng vô ý thức, trở thành một con nghiện. 4 năm trời vật vã với ma túy, bao
nhiêu tiền làm ra, vừa hỗ trợ gia đình khi ba tôi mất, còn bao nhiêu tôi nướng
hết vào ma túy. Rồi các fan, họ cũng thể hiện lòng hâm mộ bằng việc tặng tôi…
ma túy.
Năm 1984, sau một cơn sốc, tôi tỉnh dậy và tự nhủ, không thể
thế này mãi được. Một là chết, hai là sống. Bĩ cực đau đớn mình đã chiến đấu để
giành quyền được sống, nay sống như thế này thì thà chết còn hơn. Tôi quyết đi
Pháp cai. Tôi ôm bọc ma túy đi lang thang và tìm đến một nghĩa trang quân đội ở
miền Đông nước Pháp, quyết sống tách biệt để thử sức chịu đựng. Tôi được gia
đình người quản trang cho ở lại, họ không hề biết tôi nghiện mà chỉ biết tôi
đến xin một việc để làm. Tôi vào toilet, đổ bọc ma túy xuống bồn cầu và giật
nước. Rồi tôi ôm lấy bồn cầu ngồi khóc, như thể lần này mình không thể sống
nữa. Sau đó, cơn nghiện bắt đầu vật. Ông bà chủ biết, còn hỏi tôi có muốn không
thì đi mua thuốc cho, tôi lắc đầu quyết không và quyết cai cho bằng được.
Sau 8 tháng, tôi từ bỏ ma túy mà không cần một viên thuốc. Đáng lẽ, tôi đã ở lại nước Pháp và an phận. Nhưng rồi, cơn bĩ cực này qua lại là những cơn bĩ cực khác.
Sau 8 tháng, tôi từ bỏ ma túy mà không cần một viên thuốc. Đáng lẽ, tôi đã ở lại nước Pháp và an phận. Nhưng rồi, cơn bĩ cực này qua lại là những cơn bĩ cực khác.
Người đàn bà tìm con
- Không lẽ, cả
tuổi thanh xuân của chị là tai ương, ma túy, thuốc lá và rượu ? Suốt một quãng
đời lúc đó, không có ai là người đàn ông của riêng chị ư ?
- Thực ra năm 1970 tôi đã có chồng và năm 1972 tôi đã sinh
con. Lúc sang Mỹ tôi chưa có bằng tú tài, nên hoặc sẽ phải có người bảo lãnh để
ở lại, hoặc sẽ bị trục xuất. Có một người rất thương nói rằng : “Thực lòng tôi
không muốn cưới em vì trông em trẻ trung hồn nhiên quá. Nhưng để giúp được em,
tôi không ngại gì cả” Một năm sau thì tôi sinh con.
Cuộc sống không có tình yêu nên gia đình có cũng như không.
Đứa con để lại cho anh nuôi. Tôi học xong, lang thang theo nghiệp cầm ca và
quên mất rằng mình cũng đã có chồng. Khi bị tai nạn, tôi chợt nhớ ra dù gì tôi
cũng có thứ quý giá nhất trên đời là con, thì cũng éo le thay anh đã lấy vợ
khác và tôi không biết cách nào để liên lạc với anh cũng như gặp con mình.
Tôi thỏa hiệp với cả nỗi đau này để được sống. Khi rời khỏi
chiếc xe lăn, việc đầu tiên là đi tìm con. Lúc lần ra dòng địa chỉ, gặp phải cô
vợ anh vốn rất ghen tuông nên ba lần bảy lượt muốn gặp con mình mà không thể
được. Tôi nhờ đến luật sư và phải năn nỉ ông bằng cách này hay cách khác để tôi
được nhìn thấy con tôi ngay. Khi ra tòa, tòa nói, với sức khỏe hiện tại tôi
không thể nuôi con và cho tôi một ân huệ mỗi năm chỉ được gặp con cho đến khi
nào khỏi bệnh hẳn. Từ đó, cứ ba tháng hè, con lại về ở với tôi.
Niềm an ủi lớn nhất là, con tôi dù bao năm xa cách, rất
ngoan, có hiếu và thương mẹ. Khi tôi làm cuốn băng để gửi về Việt Nam , hai mẹ con
cùng nhau ghép vỏ, cùng nhau dán nhãn. Nó học kế toán, hiện giờ sống ở San Francisco , hiện cũng
đã có vợ con, sống rất hiếu nghĩa.
- Trải qua bao bi
thương như thế, mất mát như thế, cũng đồng nghĩa với việc con tim thời tuổi trẻ
của chị không còn chỗ cho tình yêu ?
- May mắn là dù bị đẩy đến chốn cùng cực thì cuối cùng ông
trời cũng cho tôi được rung cảm dù không kéo dài. Những ngày tôi cai nghiện ở
Pháp, người con trai của ông chủ lúc đó đem lòng yêu tôi. Anh là một diễn viên
kịch, hơn tôi 8 tuổi. Chúng tôi yêu nhau và tôi sinh cho anh được một đứa con
trai.
Cuộc sống của chúng tôi cũng có những ngày hạnh phúc. Anh đi
diễn, tôi đi hát. Trong chuyện tình cảm tôi là người nghiêm túc, gia đình anh
rất quý tôi ở điều đó. Nhưng rồi một lần anh nửa đùa nửa thật: Ca sĩ đi bốn mùa
thế, ai mà tin được có chung thủy hay không. Tôi giận quá, ngày hôm sau mua vé
máy bay về Mỹ. Năm nay con cũng đã 23 tuổi và đang học về nhạc. Hai cha con
thỉnh thoảng vẫn gặp nhau nhưng tình yêu mà tôi dành cho anh đã chết, có lẽ do
tự ái của tôi cao quá.
- Hình như trải
qua nhiều biến cố cuộc đời, đã có một thời gian dài chị nghỉ hát ? Thực tế là
dù chị có xảy ra chuyện gì thì âm nhạc cũng không bỏ chị. Nó là nghiệp với chị.
Nhưng cũng có thể nhìn nhận nó là một sự cứu rỗi ?
- Năm 1989 mẹ tôi đau nặng, tôi về Việt Nam tính nghỉ hát luôn nhưng sân
khấu đã không phụ tôi. Có một người rất mê tiếng hát của tôi làm hẳn cho tôi
một talk show Tâm tình với Kim Anh. Tiếng hát của tôi có dịp được hội ngộ khán
giả dù gián tiếp và những băng hình tôi thu cũng từ thời điểm này. Nhưng năm
1992, mẹ mất, tôi sock nặng nên nghỉ hát luôn.
Không hát, cuộc sống rơi vào cơ cực, nên năm 2005, tôi xin đi hát trở lại. Tôi gọi cho Trúc Hồ nói tôi đã thực sự mệt mỏi, muốn lấy một số hình ảnh trong cuốn băng cũ làm băng, rồi lên sân khấu trở lại. Nhạc sĩ Anh Bằng nói, ai chứ Kim Anh thì nên giúp nó. Khán giả lúc này không ít người nghĩ tôi bê tha nghiện ngập nên cũng không muốn gần. Tôi lấy mọi can đảm để hát. Bộ trang phục cũ, nhưng hợp với bài hát, và giọng hát vẫn còn đủ độ say nên khán giả lại thương tôi trở lại như năm nào. Và bây giờ, trong nghệ thuật, tôi đang hồi sinh.
Không hát, cuộc sống rơi vào cơ cực, nên năm 2005, tôi xin đi hát trở lại. Tôi gọi cho Trúc Hồ nói tôi đã thực sự mệt mỏi, muốn lấy một số hình ảnh trong cuốn băng cũ làm băng, rồi lên sân khấu trở lại. Nhạc sĩ Anh Bằng nói, ai chứ Kim Anh thì nên giúp nó. Khán giả lúc này không ít người nghĩ tôi bê tha nghiện ngập nên cũng không muốn gần. Tôi lấy mọi can đảm để hát. Bộ trang phục cũ, nhưng hợp với bài hát, và giọng hát vẫn còn đủ độ say nên khán giả lại thương tôi trở lại như năm nào. Và bây giờ, trong nghệ thuật, tôi đang hồi sinh.
- Và bây giờ, khi
sự nghiệp hồi sinh, cũng là lúc chị phải đối diện với sự cô độc của mình ?
- Không. Thực tế lúc này tôi đã bớt phần cô độc. Đúng hơn,
dù không được sống trong cảm giác tình yêu mà vẫn thấy mình đang được nhận. Tôi
hát khỏe hơn, mãnh lực hơn trước và vẫn cái tật xấu, mỗi lần lên sân khấu là
phải uống rượu. Tôi không say bao giờ, càng uống càng tỉnh và càng hát hay hơn.
Giờ này về Việt Nam ,
tôi đã, đang và sẽ đến các vùng sâu vùng xa hát cho đồng bào, ở những nơi họ
không có điều kiện xem ca sĩ, nghe ca sĩ hát.
Tôi cũng tri ân với những người đồng hành với trái tim tôi
trong một khoảng thời gian ngắn ngủi hay không ngắn ngủi thì tôi vẫn thấy trái
tim mình vẫn còn biết nói với tình yêu. Người gần người đấy nhưng tôi thấy một
ai đó thực sự hiểu và cảm thông với tôi vẫn còn ở đâu đó xa lắm, gần hết một
đời người mà tôi vẫn chưa thấy. Hay để đến lúc tôi chết đi, người đó sẽ là
người đặt hoa hồng vàng trên mộ tôi? Nếu như vậy, thì hạnh phúc có phù phiếm
quá với một cõi người không nhỉ ?
- Cầu mong chị tìm được một hạnh phúc thực sự. Cảm ơn chị về
cuộc trò chuyện !
Yên Huỳnh (theo Hoàng Nguyên Vũ)
MỜI CÁC BẠN NGHE QUA GIỌNG HÁT CỦA KIM ANH
Sau đây là vài bài hát (tiêu biểu) của Kim Anh, tùy các
bạn thích bài nào thì click nghe lại bài đó.
Mùa Thu Lá Bay - Ca Sĩ : Kim Anh
Buon - Kim Anh
Nắng Chiều, Tiếng hát Kim Anh
Kim Anh - Rồi mai tôi đưa em
Đường xưa lối cũ - Kim Anh
Con thuyền không bến - Kim Anh
Nửa Đêm Ngoài Phố - Kim Anh
Sầu Lẻ Bóng - Kim Anh
2014/08/28
MỘT MÙA TRĂNG*
Thêm một mùa trăng chất tuổi già
Vòng xoay con tạo chẳng buông tha
Ngu ngơ Ta vẫn chìm hơn Cuội
Lẩn thẩn Cuội còn trội hẳn Ta!
Hạnh phúc dài lâu tìm khó được
Buồn đau bất chợt vốn thường mà!
Thơ còn hơi thở ru ta ngủ
Đêm lắng thu tàn dưới bóng nga!
Yên Dạ Thảo
24.08.2014
*Họa TỰ TÌNH của
Phong Tâm
2014/08/25
*NAO DẠ TRUNG
THU
Lóng lánh trăng thanh trải khắp nơi
Chợt nao nỗi nhớ chuyện qua rồi
Biệt ly cha kính buồn muôn thuở
Xa cách má thương khổ một đời
Nắng rớt chân trời mây ngả tím
Chiều rơi sườn núi tối lên ngôi
Thời gian thắm thoát xanh thành bạc
Dòng sống âm thầm trôi cứ trôi!
Anh Tú
August 25, 2014
2014/08/23
TỰ TÌNH*
Lặng ngắm trăng trêu cợt tuổi già,
Thời gian ám ảnh chẳng buông tha.
Mong gì Ta ngẩn ngơ như Cuội,
Có thể Cuội gần gũi với Ta?
Tập sống vô tình; hư cũng được,
Rèn quên ảo vọng; khỏe thôi mà!
Mỗi năm còn tiếng ru thơ ngủ,
Vẽ bức tranh Kiều, nhớ Tố Nga.
PHONGTÂM
(23.8.2014)
*Hoạ LÃO GIÀ ĐÊM TRUNG THU của Trương Văn Lũy
2014/08/22
CỘI GIÀ VÀ THU*
Dưới trăng rằm những mái đầu già
Nghe dế nỉ non giọng thiết tha.
Khúc nhạc vừa ca trao tặng bạn
Vần thơ mới viết gởi cho ta.
Bên này thơ ý còn tha thiết
Phía ấy nhạc hồn vẫn mặn mà.
Dù cuộc đời tang thương khổ lụy
Trung Thu họp mặt cùng ngâm nga.
Nghe dế nỉ non giọng thiết tha.
Khúc nhạc vừa ca trao tặng bạn
Vần thơ mới viết gởi cho ta.
Bên này thơ ý còn tha thiết
Phía ấy nhạc hồn vẫn mặn mà.
Dù cuộc đời tang thương khổ lụy
Trung Thu họp mặt cùng ngâm nga.
Anh Tú
August 22, 2014
*Họa bài
LÃO GIÀ ĐÊM TRUNG THU
*Họa bài
LÃO GIÀ ĐÊM TRUNG THU
Trung Thu yên ắng một thân già
Ngắm mảnh Trăng Tròn dáng thướt tha
Trên ấy sáng trưng hình Chị Nguyệt
Dưới này hôi hổi bóng hình Ta
Hai đường tri kỷ đang vời vợi
Một khối tình chung vẫn mặn mà
Ngẩng mắt nhìn trời xin Thượng Đế
Cho đời trẻ mãi với Hằng Nga.
Ngắm mảnh Trăng Tròn dáng thướt tha
Trên ấy sáng trưng hình Chị Nguyệt
Dưới này hôi hổi bóng hình Ta
Hai đường tri kỷ đang vời vợi
Một khối tình chung vẫn mặn mà
Ngẩng mắt nhìn trời xin Thượng Đế
Cho đời trẻ mãi với Hằng Nga.
Trương Văn Lũy
2014/08/16
KHI NƯỚC NHẢY BỜ
Áo trắng chập chờn
bay trước ngõ
Sáng chiều hai lượt nón
che nghiêng
Đôi khi đuôi mắt
nhanh và sắc
Chạm cửa nhà anh điên
đảo điên.
Từ dạo bóng em trong
xóm nhỏ
Có người thấp thỏm ngóng
chờ mong
Làm đuôi từng bữa đưa
cùng đón
Thiếu vắng một hôm
ray rức lòng!
Phượng đã tàn ve sầu
bặt tiếng
Nhảy bờ nước nổi tựu
trường về
Im lìm đường cũ em đâu
hởi
Có biết lòng anh nhớ tái tê?
Anh Tú
August 16, 2014
2014/08/12
TRĂNG BUỒN!
Trăng buồn, ngã bóng bên thềm,
Để hồn mộng tưởng môi mềm ai ru,
Trăng gầy khi tỏ, khi lu,
Nỗi lòng cô phụ, mịt mù tình xa…
Người giờ xa tít…trùng xa
Chỉ còn mộng ảo…giao hoà ngã nghiêng
Ngậm ngùi tình chẳng được duyên,
Sóng tình phai nhạt, tơ duyên bẽ bàng
Trăng buồn, người bước sang ngang
Trăng đành ôm mối mộng tàn …đắng cay
Trăng đành ôm mối mộng tàn …đắng cay
Ôi, tình sao quá chua cay
Nợ tình nặng, đủ trả vay một đời!
Nợ tình nặng, đủ trả vay một đời!
Cho dù người đã xa rời,
Trăng buồn, cô phụ một đời luyến thương!
Trăng buồn, cô phụ một đời luyến thương!
Huỳnh Hương
2014/08/11
2014/08/09
ĐÊM TRUNG NGUYÊN
Nước tro dừa
lắng trong
Gội tóc, hong nắng
chiều
Má cho Ba một thuở
Hương dầu dừa, hương
cau.
Ngọn đèn đêm leo lét
Một đàn con vỡ vạc
Bà kể Lục Vân Tiên
Ông nghe đầu võng hát
Lụa mo cau vấn thuốc
Tàn khói lạc hương
đồng…
Bây giờ sóng trên sông
Mưa trăng vàng nhấp
nháy
Đêm Trung nguyên
lặng thầm
Trôi theo dòng trôi
mãi…
Mênh mông!…Mênh
mông!…
Phong Tâm
(Mùa Vu Lan – 2014)
2014/08/08
CÓ BAO GIỜ THƠ CHO MẸ
TA KHÔNG !
Kể từ ngày biết làm thơ, viết văn từ năm mười mấy tuổi đến
nay, tôi nhớ rằng mình đã làm hàng trăm bài thơ cho những chàng trai, rồi những
người đàn ông đã đi qua đời mình. Những bài thơ hân hoan rộn rã cùng buồn bã
tiếc thương, nhưng dường như chưa bao giờ có nổi một bài thơ trọn vẹn cho Mẹ
của mình !
Bố tôi mất năm tôi 13 tuổi. Khi còn sống, Bố rất yêu chiều tôi, có lẽ vì tôi là con út. Tôi còn một anh và hai chị nữa, chị kế hơn tôi tới 5 tuổi. Khi tôi hơn 10 tuổi rồi vào mỗi bữa ăn, Bố vẫn gỡ hết xương trong cá rồi mới cho tôi ăn. Mỗi lần Bố đi công tác xa về , tôi đều nhảy cẩng lên vui mừng để được Bố ôm vào lòng xoa đầu âu yếm . Nên khi Bố mất, tôi cứ gào khóc rằng " Bố mất rồi , đâu còn ai thương con như Bố nữa". Có lẽ, lúc đó vì quá đau đớn tôi cảm thấy như thế. Hơn nữa, thuở ấy Mẹ tôi luôn bận rộn với bao chuyện nội trợ nhà cửa nên ít thể hiện tình thương ra bên ngoài với con cái, hoặc tôi vô tâm chưa nhận biết ?
Cho đến khi tôi 40 tuổi, Mẹ từ giã cõi đời, tôi mới hiểu nỗi đau mất Mẹ là to lớn và khủng khiếp đến nhường nào! Vì độc thân, suốt bao năm tháng dài tôi vẫn sống với Mẹ, dù đi làm xa nhà cuối mỗi tuần mới về cùng Mẹ. Do các anh chị đã lập gia đình hết, tất cả tình yêu mẹ gần như dành trọn cho tôi. Dẫu bấy nhiêu tuổi, trong mắt Mẹ, tôi vẫn chỉ là đứa gái yếu đuối bé nhỏ cần phải chăm sóc , chở che. Mẹ mất vào một ngày tháng giêng cách đây 20 năm. Tôi ngỡ chừng trái đất đã sụp đổ. Tôi ngồi khóc ngoài vườn, không hiểu sao trời vẫn xanh, mây vẫn trắng và nắng vẫn vàng được chứ. Trong lúc lòng tôi tràn ngập đau thương, tưởng như chẳng còn thiết sống. Nhưng rồi tôi vẫn phải tiếp tục thở và tồn tại. Phải mất nhiều ngày tháng sau đó, tôi mới tạm nguôi ngoai, hồi phục tinh thần bởi bao công việc bộn bề cùng những chuyến đi công tác xa gần liên miên.
Tuy nhiên, đến bây giờ mỗi khi nhớ về Mẹ, tôi vẫn nghe tim.mình đau nhói và vẫn khóc nghẹn ngào, ngay giây phút này cũng vậy.
Tôi luôn nghĩ mình không phải là một đứa con hiếu thảo, dù chẳng phải không yêu Mẹ và chưa khi nào làm gì sai với Mẹ,mà chỉ vì tôi là đứa con khiến Mẹ luôn phải bận tâm lo lắng nhất cho đến lúc lìa trần. Mẹ đã không an lòng nếu Mẹ mất đi, sẽ không có ai thương yêu chăm sóc cho tôi như Mẹ đã làm suốt bao tháng năm qua.
Nhưng Mẹ của con ơi, vượt qua niềm đau vô tận khi "đường xa vạn dặm, mẹ bỏ con đi" ( TCS ), con vẫn vững vàng bước tiếp đời mình với tình thương của gia đình, những người thân yêu cùng bạn bè thân mến. Giờ đây, ở một cõi thiêng xa vời nào, con mong Mẹ có thể tự hào về con với những thành công nhất định trên đường đời. Con gái yếu đuối của Mẹ, nay đã trở thành một phụ nữ mạnh mẽ, tự tin, hoàn toàn làm chủ được cuộc sống mình trên con đường đã chọn.
Bố tôi mất năm tôi 13 tuổi. Khi còn sống, Bố rất yêu chiều tôi, có lẽ vì tôi là con út. Tôi còn một anh và hai chị nữa, chị kế hơn tôi tới 5 tuổi. Khi tôi hơn 10 tuổi rồi vào mỗi bữa ăn, Bố vẫn gỡ hết xương trong cá rồi mới cho tôi ăn. Mỗi lần Bố đi công tác xa về , tôi đều nhảy cẩng lên vui mừng để được Bố ôm vào lòng xoa đầu âu yếm . Nên khi Bố mất, tôi cứ gào khóc rằng " Bố mất rồi , đâu còn ai thương con như Bố nữa". Có lẽ, lúc đó vì quá đau đớn tôi cảm thấy như thế. Hơn nữa, thuở ấy Mẹ tôi luôn bận rộn với bao chuyện nội trợ nhà cửa nên ít thể hiện tình thương ra bên ngoài với con cái, hoặc tôi vô tâm chưa nhận biết ?
Cho đến khi tôi 40 tuổi, Mẹ từ giã cõi đời, tôi mới hiểu nỗi đau mất Mẹ là to lớn và khủng khiếp đến nhường nào! Vì độc thân, suốt bao năm tháng dài tôi vẫn sống với Mẹ, dù đi làm xa nhà cuối mỗi tuần mới về cùng Mẹ. Do các anh chị đã lập gia đình hết, tất cả tình yêu mẹ gần như dành trọn cho tôi. Dẫu bấy nhiêu tuổi, trong mắt Mẹ, tôi vẫn chỉ là đứa gái yếu đuối bé nhỏ cần phải chăm sóc , chở che. Mẹ mất vào một ngày tháng giêng cách đây 20 năm. Tôi ngỡ chừng trái đất đã sụp đổ. Tôi ngồi khóc ngoài vườn, không hiểu sao trời vẫn xanh, mây vẫn trắng và nắng vẫn vàng được chứ. Trong lúc lòng tôi tràn ngập đau thương, tưởng như chẳng còn thiết sống. Nhưng rồi tôi vẫn phải tiếp tục thở và tồn tại. Phải mất nhiều ngày tháng sau đó, tôi mới tạm nguôi ngoai, hồi phục tinh thần bởi bao công việc bộn bề cùng những chuyến đi công tác xa gần liên miên.
Tuy nhiên, đến bây giờ mỗi khi nhớ về Mẹ, tôi vẫn nghe tim.mình đau nhói và vẫn khóc nghẹn ngào, ngay giây phút này cũng vậy.
Tôi luôn nghĩ mình không phải là một đứa con hiếu thảo, dù chẳng phải không yêu Mẹ và chưa khi nào làm gì sai với Mẹ,mà chỉ vì tôi là đứa con khiến Mẹ luôn phải bận tâm lo lắng nhất cho đến lúc lìa trần. Mẹ đã không an lòng nếu Mẹ mất đi, sẽ không có ai thương yêu chăm sóc cho tôi như Mẹ đã làm suốt bao tháng năm qua.
Nhưng Mẹ của con ơi, vượt qua niềm đau vô tận khi "đường xa vạn dặm, mẹ bỏ con đi" ( TCS ), con vẫn vững vàng bước tiếp đời mình với tình thương của gia đình, những người thân yêu cùng bạn bè thân mến. Giờ đây, ở một cõi thiêng xa vời nào, con mong Mẹ có thể tự hào về con với những thành công nhất định trên đường đời. Con gái yếu đuối của Mẹ, nay đã trở thành một phụ nữ mạnh mẽ, tự tin, hoàn toàn làm chủ được cuộc sống mình trên con đường đã chọn.
Tôi cũng sẽ không nói gì nhiều về Mẹ mình.
Nói rằng, Mẹ đã yêu thương , tận tụy, hy sinh vì con cái như thế nào ư ! Tôi nghĩ , Mẹ của ai chả thế !
Nói rằng, Mẹ cao cả, vĩ đại, tuyệt vời nhất trên đời ư ! Tôi nghĩ, có người Mẹ nào không như vậy !
Nói rằng, con biết ơn và thương yêu Mẹ vô cùng vô tận ư ! Tôi nghĩ, ai làm con mà chẳng cảm nhận điều này !
Nói rằng, Mẹ đã yêu thương , tận tụy, hy sinh vì con cái như thế nào ư ! Tôi nghĩ , Mẹ của ai chả thế !
Nói rằng, Mẹ cao cả, vĩ đại, tuyệt vời nhất trên đời ư ! Tôi nghĩ, có người Mẹ nào không như vậy !
Nói rằng, con biết ơn và thương yêu Mẹ vô cùng vô tận ư ! Tôi nghĩ, ai làm con mà chẳng cảm nhận điều này !
Có một bài thơ , khi đọc lần đầu tiên cách nay gần 30 năm,
tôi đã không dám nhớ đến vì lúc đó Mẹ vẫn ở bên tôi.
Còn hiện tại, tôi muốn ghi lại nơi đây, để nhớ Mẹ và gửi đến bạn bè tôi, những ai không còn Mẹ . Cũng như những ai vẫn có niềm Hạnh phúc còn được cài một bông hồng đỏ, trên ngực áo nơi phía trái tim mình.
Nguyễn Như Thường
Còn hiện tại, tôi muốn ghi lại nơi đây, để nhớ Mẹ và gửi đến bạn bè tôi, những ai không còn Mẹ . Cũng như những ai vẫn có niềm Hạnh phúc còn được cài một bông hồng đỏ, trên ngực áo nơi phía trái tim mình.
Nguyễn Như Thường
MẸ
Con sẽ không đợi một
ngày kia…
khi mẹ mất đi mới
giật mình khóc lóc
Những dòng sông trôi
đi có trở lại bao giờ?
Con hốt hoảng trước
thời gian khắc nghiệt
Chạy điên cuồng qua
tuổi mẹ già nua
mỗi ngày qua con lại
thấy bơ vơ
ai níu nổi thời gian?
ai níu nổi bao giờ?
Con mỗi ngày một lớn
lên
Mẹ mỗi ngày thêm già
cỗi
Cuộc hành trình thầm
lặng phía hoàng hôn.
Con sẽ không đợi một
ngày kia
có người cài lên áo
cho con một nụ bạch hồng
mới thảng thốt nhận
ra mình mất mẹ
mỗi ngày đi qua đang
cài cho con một bông hồng
hoa đẹp đấy – cớ sao
lòng hoảng sợ?
Giọt nước mắt kia bao
lâu nữa của mình?
Ta ra đi mười năm xa
vòng tay của mẹ
Sống tự do như một
cánh chim bằng
Ta làm thơ cho đời và
biết bao nhiêu người con gái
Có bao giờ thơ cho mẹ
ta không?
Những bài thơ chất
ngập cả tâm hồn
đau khổ – chia lìa –
buồn vui – hạnh phúc
Có những bàn chân đã
giẫm xuống trái tim ta độc ác
mà ta vẫn cứ đêm về
thao thức làm thơ
ta quên mất thềm xưa
dáng mẹ ngồi chờ
giọt nước mắt già nua
không ứa nổi
ta mê mải trên bàn
chân rong ruổi
mắt mẹ già thầm lặng
dõi sau lưng
Khi gai đời đâm ứa
máu bàn chân
mấy kẻ đi qua
mấy người dừng lại?
Sao mẹ già ở cách xa
đến vậy
trái tim âu lo đã
giục giã đi tìm
ta vẫn vô tình
ta vẫn thản nhiên?
Đỗ Trung Quân
2014/08/07
2014/08/06
RẰM THÁNG BẢY
Nhớ xưa Rằm Tháng Bảy
Kiền Liên cứu Mẹ già
Thoát cực hình ngạ quỹ
Chốn địa phủ âm ty
Hôm nay Rằm Tháng Bảy
Con nhớ thương Mẹ già
Vu Lan Mùa Báo Hiếu
Cầu xin Mẹ tiêu diêu
Ngày sau Rằm Tháng Bảy
Con kính yêu Mẹ già
Suốt đời vì con trẻ
Đóa hồng dâng Mẹ yêu
Hằng năm Rằm Tháng Bảy
Mẹ Cha dẫu sanh tiền
Hay dù người quá cố
Ta mãi biết kính yêu…
Phú Thạnh
Mùa Vu Lan 2014
Nhớ xưa Rằm Tháng Bảy
Kiền Liên cứu Mẹ già
Thoát cực hình ngạ quỹ
Chốn địa phủ âm ty
Hôm nay Rằm Tháng Bảy
Con nhớ thương Mẹ già
Vu Lan Mùa Báo Hiếu
Cầu xin Mẹ tiêu diêu
Ngày sau Rằm Tháng Bảy
Con kính yêu Mẹ già
Suốt đời vì con trẻ
Đóa hồng dâng Mẹ yêu
Hằng năm Rằm Tháng Bảy
Mẹ Cha dẫu sanh tiền
Hay dù người quá cố
Ta mãi biết kính yêu…
Phú Thạnh
Mùa Vu Lan 2014
2014/08/05
*LẠI LÀ MẸ*
Trời đã khuya còn bên bếp lửa
Long lanh ánh mắt rọi đêm đen
Từng lọn rơm thơm mùi lúa mới
Chập chờn leo lét cháy thay đèn.
Nồi bánh dở vung vừa chín tới
Mĩm cười tay vội quẹt mồ hôi
Đòn tét chợ mai nằm yên đợi
Mẹ tôi! Thương quá dạ bồi hồi…!
Anh Tú
August 5, 2014
*Từ MẸ, BẾP LỬA HỒNG của Hoành
Châu
MẸ , BẾP LỬA HỒNG
Sáng nao ngày nắng đẹp,
Mẹ thắp đốt lửa hồng,
Bập bùng khung cửa hẹp,
Vỏ dừa reo hanh thông.
Sáng nao sương còn vương ,
Dáng mẹ ôi thân thương
Than dừa reo tí tách,
Khói ươm nồng hơi sương !
Ấm lòng nhờ “cơm hấp “
Mẹ hôm sớm lo toan
Đến trường con hấp tấp,
Vì em nhỏ hiền ngoan !!
********
Sáng nay con thức dậy,
Thèm "cơm hấp" thuở nào,
Bâng khuâng mùa tháng bảy
Buồn sao hoa trắng ơi !
Hoành Châu
(Mùa Vu Lan 2001)
2014/08/03
SÓNG CỔ CHIÊN*
Có lần đến bến Đình Khao
Nghe tiếng sóng động lao xao trong lòng.
Bao năm biệt xứ hằng mong
Một ngày trở lại thăm giòng sông xưa!
Nghe tiếng sóng động lao xao trong lòng.
Bao năm biệt xứ hằng mong
Một ngày trở lại thăm giòng sông xưa!
Anh Tú
August 2, 2014
August 2, 2014
*Cảm tác nhân đợc bài LẦN ĐẦU ĐÊN BẮC CỔ CHIÊN tại:
http://anhtuvaban.blogspot.com/2013/11/xuong-lan-au-en-bac-cochien-xe-toi-co.html
CHÚNG TÔI MỌC RỄ YÊU THƯƠNG*
1. Việt Nam
Chúng tôi gặp nhau và thành hôn năm tôi 30 tuổi, đã một lần ly dị và có hai đứa
con.Ông xã thì cũng 30 tuổi và còn là trai tơ. Khi bà chị biết chúng tôi muốn
làm đám cưới, bà nói thẳng thắn: “em ơi, một khi lấy Mỹ thì sẽ bị người ta cười
chê thúi đầu, vậy sao không lựa một thằng tóc vàng, mắt xanh, cao lớn,
đẹp trai để bù lại mà lại đi lấy một thằng tóc đen, mắt nâu, hơi lùn nữa, vậy
được cái gì?”.
Tôi nhìn người chị,
buồn bã nói : “Chị Hai ơi, em đã có hai đứa con rồi. Thật khó khăn khi em phải
vừa kiếm chồng cho em vừa kiếm cha cho hai đứa nhỏ. Ảnh thương em và đối với
hai đứa nó thật tốt. Mấy người khác chỉ thương em mà thôi, không cần hai
đứa nhỏ!”
Và quả nhiên Trời
Phật cũng thương cho những nỗi bất hạnh mà tôi đã nếm trải trong đời nên đã cho
tôi không những một người chồng mà còn là một người cha và là một người ơn nữa.
Vùng I chiến thuật
lấy Đà Nẵng (nơi tôi và ông xã gặp nhau) làm thủ phủ nên có rất nhiều bộ chỉ
huy trong đó có nhà thương của hải quân Mỹ là trung tâm y tế cho tất cả binh sĩ
Mỹ trong vùng. Qua khỏi ngã tư Mỹ Khê, quẹo mặt để đi vào núi Non Nước, nằm về
phía tây mặt là nhà thương. Tôi đoán nó chiếm trọn ít nhứt là năm mẫu đất với
các trung tâm y tế mổ xẻ, chữa trị đủ loại, nhà ở cho binh sĩ và dĩ nhiên
là một nhà xác!
Trước mặt nhà
thương là một bãi đáp trực thăng để tải các thương binh, các chiến sĩ tử trận
từ các chiến trường vùng I. Mỗi lần trực thăng đáp xuống thì con đường xe chạy
được các quân cảnh Mỹ chận lại, từng chiếc cáng được vội vã khiêng ra
chạy thẳng vào cổng chánh, có người sẽ tỉnh lại với một cái chân nằm đâu đó
trong lá rừng rậm rạp, có người sẽ được trở về quê hương dưới lá cờ phủ kín, có
người sẽ ngậm ngùi từ biệt những giấc mơ vì cánh tay đã mất, gương mặt đã bị
tàn phá, linh hồn đã bị tổn thương…
Vì ông xã thuộc
binh chủng hải quân và đóng quân trong nhà thương nên tôi đã có biết bao lần
phải ngừng xe, tắt máy, ngồi nhìn những bước chân vội vã, những gương mặt chịu
đựng, những ánh mắt buồn hiu của những người tải thương. Mỗi khi có một
cái cáng phủ cờ Việt Nam hay Mỹ thì những người Mỹ xuống xe đứng
nghiêm chỉnh đưa tay chào vĩnh biệt. Tôi ít khi thấy thương binh ViệtNam, có
thể vì họ được chuyển tới một trung tâm y tế khác. Chỉ có một lần tôi thấy một
cái cáng được khiêng ra khỏi cửa trực thăng, lá cờ Việt Nam phủ kín.
Tôi không thấy mặt cũng như binh chủng của tử sĩ nhưng một người đàn bà đầu tóc
rũ rượi , cánh tay quấn băng treo vào vai còn đẫm máu đang lảo đảo nhảy
ra khỏi cửa trực thăng. Tóc chị trước kia chắc được cột lại bằng dây thun, nay
chỉ còn một vài lọn lỏng lẽo trên đỉnh đầu còn bao nhiêu thì thả dài rối rắm
xung quanh mặt.
Bạn ơi, hình ảnh
đau thương nhứt không phải là cái cáng có người chết nằm phủ kín lá cờ vàng chói,
không phải dòng nước mắt đầm đìa trên mặt người sống sót mà là một miếng băng
vải mỏng dùng để quấn vết thương. Nó bị dơ vì đất và máu. Nó chỉ dài bằng
một chiếc khăn mùi xoa. Nhưng nó lại được người vợ trân trọng để ngang lên
trán, dùng một cọng lạt dừa cột vòng lại sau đầu. Mảnh khăn tang được vội vã
quấn tạm thời nhưng sự ly biệt thì chắc chắn ngàn trùng xa cách. Người
thiếu phụ Việt Nam đang để tang cho người chồng chiến sĩ đã hy sinh
vì tổ quốc!
Tôi không ra khỏi
xe chào vĩnh biệt người chiến binh nhưng gục mặt vào tay lái nước mắt tuôn rơi
khóc thương cho những đứa trẻ đang quẩn quanh trong thôn xóm chờ cha trở
lại . Tôi tưởng tượng tới lúc gia đình nghe tiếng chuông reo, mở cửa ra và thấy
một người binh sĩ đứng trước mặt với cái nón cầm trên tay.Người mẹ ở ngàn dặm
xa kia có ngã xuống vì trái tim tan nát ?... Một cái gì dó nhen nhúm trong tâm
hồn tôi. Chiến tranh tiếp diễn cho tới một lúc nào đó thì hòa ước được ký, quân
đội Mỹ rút lui.
Anh nấn ná xin ở
lại Việt Nam và là nhóm binh sĩ cuối cùng ra khỏi phi trường Tân Sơn
Nhất vào đầu năm 73. Tháng sáu 73, tôi sanh đứa con trai đầu lòng của anh.
Tháng Chín năm 74 tôi qua Mỹ thăm anh tiện thể thăm dò chuyện xuất nhập cảng.
Chúng tôi dự định chờ anh ra khỏi quân đội và sẽ về sinh sống tại VN.
Điều kiện để tôi nói “ I do” là chúng tôi phải ở ViệtNam và sẽ có bảy đứa
con. Tôi nào biết trời cao đất rộng là gì, chỉ biết rằng tôi rất ham con
và bảy đứa là một con số chấp nhận của gia đình VN, đâu nghĩ rằng đối với người
Mỹ hai đứa là lý tưởng, ba đứa là chau mày, bốn đứa là nổi điên, năm đứa là tan
nát, sáu đứa là thảm họa mà bảy đứa là… rồi đời!
Thời cuộc thay đổi,
đến tháng Ba năm 75 thì tôi quay về Việt Nam để đón các con. Lúc đó
tôi đang có thai đứa thứ hai được bảy tháng. Khi còn bên Mỹ, qua tin tức trên
báo và tin rỉ ra trong quân đội thì chúng tôi biết chắc là Saigon sẽ mất, nhưng
khi về Việt Nam thì Saigòn vẫn vui vẻ, vẫn bình yên. Rạp chiếu bóng vẫn hát,
tiệm ăn vẫn mở cửa, đám cưới vẫn tiến hành, tình yêu vẫn nở hoa… Tôi thầm
cằn nhằn báo chí Mỹ thật là dỏm, toàn là đưa tin vịt không hà.
Nhưng với ngày qua,
mọi việc có vẻ tệ hơn. Nhóm người quen bán hột xoàn với mẹ con tôi cùng nhau an
ủi rằng “bà Mỹ” còn ở đây chưa chạy thì lo gì. Ông xã tôi kêu điện thọai ngày
một hối thúc tôi ra đi. Tôi trả lời là má tôi không cho đi, sợ về Mỹ sanh
rồi lấy ai săn sóc, làm sao có củi lửa để hơ, có lá xông để tắm, có nghệ vàng
để thoa mặt v.v.. Sanh xong rồi tôi sẽ qua.
Một tuần sau tôi mất liên lạc với anh.
Ngày 20 tháng tư 75 một trung sĩ VN lái xe jeep đến nhà tôi, gõ cữa:
“Xin lỗi đây có phải là nhà của bà Lê Thị Hoa không?”.
Tôi trả lời:
“Trung sĩ ơi, ở đây không có bà Lê Thị Hoa chắc trung sĩ muốn kiếm bà Lệ Hoa
phải không?”
Viên trung sĩ vội nói:
“Tôi cũng không biết chắc. Tôi làm việc cho ban an ninh phi trường và được lịnh
tới đây chở cái bà có chồng Mỹ lên gặp đại tá Mỹ phụ tá tùy viên quân sự…”.
Tôi cầm lấy
giấy và thấy tên tôi. Tôi vội dẫn theo hai đứa con nhỏ nhất lên phi trường TSN.
Khi vào văn phòng,vị đại tá cho tôi biết là ông xã đã liên lạc với cơ quan của
ông và nhờ họ giúp tôi và các con phương tiện để rời Việt Nam.
Vị đại tá nhìn xấp
tài liệu nói:
“ Chồng bà yêu cầu toà đại sứ giúp đở bà và ba đứa con
di tản khỏi VN lập tức. Xin bà hãy để hai đứa trẻ nầy lại đây cho cô thơ ký tôi
trông chừng, còn bà thì theo xe trở lại nhà và dẫn đứa thứ ba tới đây, chúng
tôi sẽ làm giấy tờ và gia đình bà sẽ ra đi nội trong ngày nay”.
Tôi ngẩn ngơ nhìn
vị đại tá ngồi nghiêm chỉnh trước mặt:
“Ngài đại tá, ngài có nói chơi không? Tôi sanh ra, lớn lên, sống ba mươi
lăm năm tại non nước nầy giữa cha mẹ, thân nhân, bạn bè… và bây giờ ngài cho
tôi hai tiếng đồng hồ để từ bỏ tất cả… xin ngài hãy nói là ngài nói chơi,
chuyện nầy không có thật..”
Nước mắt tôi ứa ra
và chắc là tôi có vẻ bi thương của một con thú sắp chết nên vị đại tá rộng
lượng nhìn tôi :
“Tôi biết tình cảm của bà. Thôi bà hãy dẫn con về và ngày mai trở lại. Ngày
mai, bà có nghe rõ không? Chuyện đầu tiên bà thức dậy ngày mai là cùng ba con
lên xe đến đây. Tôi sẽ gởi người trung sĩ nầy đến nhà bà sáng mai.”
Tôi về nhà và cả
nhà bắt đầu khóc. Tôi đi lên đi xuống thang lầu, mở các hộc tủ ra rồi
đóng lại, ra sân thượng nhìn chậu cúc héo queo, xuống nhà bếp ngồi lên bộ ván
ngựa,vô nhà tắm rờ rờ cái lon múc nước, ra phòng khách nằm lên võng đưa kẽo
kẹt… Tôi như người mộng du, làm tất cả những hành động vô nghĩa đó với tiếng
khóc hụ hụ.
Ba giờ chiều tôi
gọi điện thoại cho vị đại tá biết là vì tôi bị xúc động nên đã động đến cái
thai. Hiện giờ tôi đang ra huyết và bác sĩ cấm không cho tôi di chuyển cho đến
ba ngày sau. Dĩ nhiên vị đại tá không dám giỡn vói tánh mạng người khác nên
phải đồng ý cho tôi thêm ba ngày nữa. Tôi không nghĩ là sau ba ngày đó
tôi còn có đươc một giọt nước mắt nào nữa trong cuộc đời.
Ba má tôi không đi vì
tôi có người anh đi tập kết: ông bà chờ sự trở lại. Anh rể tôi không đi vì là
sĩ quan cộng hoà: sợ mang tội trốn lính. Chị tôi không đi vì theo chồng.
Ba đứa cháu trai
theo tôi vì sợ sẽ phải bị đày đi lính. Một đứa cháu gái theo tôi vì sợ sẽ bị gả
ép cho thương phế binh.
Vì thế ba ngày sau tôi mang một bụng bầu tám tháng và bảy đứa nhỏ lên phi
trường. Vị đại tá nhìn tôi như nhìn con quái vật:
“Xin lỗi bà, theo giấy tờ thì tôi chỉ có quyền cho bà và ba đứa con của bà đi.
Hiện tại bà có tới bảy đứa! tôi thật không thể giúp bà”
Khi người ta phải
phấn đấu cho sự sống chết thì can đảm và khôn ngoan ở đâu bất chợt hiện ra. Tôi
nhẹ nhàng nói:
“Tôi hiểu thưa đại tá. Tôi không trách ông. Nhưng đây là những đứa cháu tôi
nuôi từ nhỏ giống như con tôi vậy. Nếu ngài không cho chúng đi thì mẹ con
tôi cũng xin ở lại.”
Vị đại tá bối rối
nhìn tôi. Có lẽ ông đã biết rằng rồi thì VN sẽ mất, rồi thì một làn sóng người
sẽ cuồn cuộn ra đi. Sớm một vài ngày, bốn đứa trẻ nầy có thấm gì đối với số
người đang rần rộ chen lấn ngoài kia. Ông thở dài, ngồi xuống ghế ký cái công
văn eight months pregnant wife and seven children of US citizen need to
be evacuated rồi đưa cho tôi. Chúng tôi theo dòng thác người nhớn nhác ra
đi.
Tôi sẽ không kể lể
dài dòng về cuộc di tản của chúng tôi tuy rằng với cái bụng bầu 8 tháng, 7 đứa
nhỏ từ hai tới mười ba tuổi, không một người đàn ông bên cạnh thì chuyến
hành trình nầy không phải là một cuộc du lịch nhàn hạ. Nhưng so với những khổ
não, những đau thương, những thảm cảnh mà đồng bào ta gánh chịu sau nầy với các
cuộc vượt biên thì thật nó chẳng thấm tháp vào đâu.
2. Hoa Kỳ.
Chúng tôi tới Camp Pendleton ngày 15 tháng 5 năm 1975. Anh đang đóng quân
ở Ferndale, một tỉnh lẻ nhỏ nhắn hiền hoà chỉ có bảy ngàn dân, cách San
Francisco sáu tiếng đường xe về hướng bắc. Lúc đó chiến tranh lạnh giữa
Hoa Kỳ và Nga Sô vẫn tồn tại nên đây là một căn cứ hải quân rất quan trọng nằm
trên một ngọn đồi cao ngó ra biển. Các đài radar tối tân được đặt cùng khắp để
theo dõi các tàu ngầm xâm phạm bất hợp pháp vào hải phận Mỹ và California.
Khí trời California lúc đó là 75 độ mà mọi người lạnh cóng. Đêm thứ
hai tại camp, anh lái xe một lèo 16 tiếng để đến đón mẹ con tôi. Mười một giờ
khuya một người lính Mỹ đến lều để dẫn tôi lên văn phòng nơi anh đang làm thủ
tục.
Bạn có biết lúc đó tôi giống ai không?
Không Giống Ai Hết!
Đây là một người đàn bà 36 tuổi, tóc hơi dính chùm lại vì
cát bụi, mặt hõm vào, gò má bị nám, mặc một cái áo dài xanh bên hông chỉ gài
được một nút ở dưới nách vì thai bụng quá lớn, ngoài khoác một áo bầu thùng
thình màu trắng, đầu trùm cái mền xám cột thắt dưới cằm, chiều dài mền thả phấp
phới sau lưng. Le lói hơn nữa là người lính Mỹ trẻ thấy tôi run cầm cập nên cởi
cái áo lính trận ra, trước mặt đầy những túi để dao găm, lựu đạn v…v và trùm
lên tôi. Tôi bước vào căn lều. Bàn làm việc nằm cuối phòng và anh đang đứng cúi
xuống ký giấy tờ.
Chưa bao giờ trong đời tôi lại bước những bước chân nhẹ nhàng, nặng nề, tủi hổ,
hoang mang, giải thoát, run sợ như lúc đó. Đây là lúc bắt đầu cho những ngày
tươi sáng với xum hợp thương yêu, với nhà lầu chọc trời, với ngựa xe rộn rả,
với tương lai đại học hay là lúc chấm dứt cho dòng sông Hậu hiền hòa với hàng
dừa nặng trái, lúc từ giã những hàng me xanh thân yêu Trần Quý Cáp, lúc
quay lưng lại với bến Ninh Kiều đằm thắm xinh tươi, lúc quì lạy cha mẹ quê
hương nói lời vĩnh biệt?
Tiếng bước chân tôi làm anh quay lại. Anh bước tới ôm lấy tôi. Tôi cố gắng để
khỏi ngất đi, quì xuống sàn nhà, tay ôm lấy mặt và nghẹn ngào: “Oh My God
honey, I lost my family, I lost my country, I lost everything!” rồi tôi khóc
nức nở. Anh quì xuống ôm đầu tôi. Anh cũng khóc. Tất cả người Mỹ trong phòng
đều rưng rưng.
Ngày 13 tháng 6 năm 1975 tôi sanh cháu Jimmy. Tháng 9 tựu trường, tôi gởi hai
đứa nhỏ nhất cho cô bạn,đi làm phụ giáo lớp một trường tiểu học Ferndale, hai
đô la rưởi một giờ.
Hè 1976, tôi đứng bán hot dog trong hội chợ và ba thằng lớn thì đi dọn rửa phân
ngựa trong trường đua. Lúc đó chánh phủ Mỹ còn giàu nên cứ hai năm là các quân
nhân được dổi tới một trạm binh khác. Tôi thấy tụi nhỏ rất buồn và sợ rằng sự
dời chỗ thường xuyên sẽ làm tụi nó hụt hẫng vì xa bạn nên khuyên anh giải ngũ.
Và chúng tôi dọn xuống miền nam California, tỉnh La Habra.
Tôi thì để tất cả sự nghiệp lại ViệtNam, anh thì trước khi biến cố ViệtNam xảy
ra, đã bị thua lỗ tất cả vốn liếng trong một vụ hùn hạp mở tiệm in với một nhóm
dân sự nên chúng tôi hoàn toàn… sạch sẽ. Khi đi mướn nhà ở đường Dexford,
La Habra, chúng tôi chỉ dẫn theo bốn dứa nhỏ nhất, hai trai hai gái. Chủ
nhà là một người đàn ông Mỹ dễ thương, khi biết anh vừa giải ngủ thì rất vui vẻ
nói:
“Ô, căn nhà nầy có ba phòng lớn, thật là lý tưởng cho gia đình ông bà với hai
trai hai gái. Tôi rất vui lòng cho ông bà mướn”.
Chúng tôi dở khóc dở cười. Anh là người ít nói và chậm chạp nên tôi bèn duyên
dáng cười cười nhìn ông:
“ Thưa ông, nếu tôi nói với ông là chúng tôi có tám đứa con thì ông có tin
chúng tôi không?”
Lần nầy thì chủ nhà nhìn chúng tôi dở khóc dở cười. Ông ngẫm nghĩ một lát rồi
nói:
“Thôi được, tôi đồng ý cho ông bà mướn. Mỗi tháng tôi sẽ đích thân đến thâu
tiền nhà. Hy vọng là mọi sự sẽ tốt đẹp”.
Ông đâu có biết rằng tên tôi là Lệ Hoa nghiã là một bông hoa mỹ lệ, đẹp đẽ chớ
chẳng phài là nước mắt của hoa nghe bạn. Vì thế tôi thích trồng bông, thích
vườn tược. Tôi sanh ra và lớn lên ở Cần Thơ, bà con sống ở Ô Môn, Thới Lai ,
Phong Điền, Cờ Đỏ nên mỗi mùa hè chị em tôi thường về vườn đi cầu khỉ, chèo
ghe, bắt ốc gạo, hái vú sữa. Cái chất vườn nam bộ đã ăn sâu vào máu tôi nên
hiện giờ nhiều người còn cho rằng tôi không có vẻ gì là văn minh như người
ViệtNam sống ở Mỹ. Biết sao!
Sau khi dọn vô,
tôi và các con hì hục cuốc đất, đổ phân và biến cái sân trống rỗng của ông
thành ra một cái vườn đầy hoa vạn thọ (đây là để honor má tôi vì bà rất thích
bông vạn thọ). Tháng sau khi ông tới thu tiền nhà thì ông ngẫn ngơ và phán một
câu “Tôi không cần phải tới tận nhà thâu tiền nữa, bà cứ viết check gởi cho tôi
là được. Cám ơn bà về những bông vạn thọ.”
Một vài người quen xúi tôi xin đi làm waitress vì nghề nầy tiền lương chẳng bao
nhiêu nhưng tiền tip thì …ăn chết không hết. Trời ơi tôi nghĩ tới cái viễn cảnh
, anh sẽ đi làm, tôi sẽ đi làm lại còn tiền hưu trí từ quân đội nữa thì quả
nhiên là... ăn chết không hết! Tôi vội vàng vác đơn tới tiệm Red Lobster gần
nhà xin việc. Người manager hỏi bà có làm waitress bao giờ chưa? Dạ chưa. Bà có
khi nào làm chủ nhà hàng chưa? Dạ chưa. Cứ bà có bà có bà có…, dạ chưa dạ
chưa dạ chưa… và thế là tiền ăn chết không hết chỉ là mộng ảo.
Tôi mua tờ báo thấy rao là “Chương trình CETA của chánh phủ sẽ trả tiền trường
cho một năm học để giúp bạn học các nghề văn phòng như thơ ký, kế toán,
phụ tá hành chánh v.v… Mỗi tuần chương trình sẽ tặng bạn bốn chục đô để
di chuyển và sau khi tốt nghiệp sẽ kiếm việc làm cho bạn…”. Tôi nói với anh đây
chắc hẳn là một sự lường gạt vì làm gì lại có sự tốt đẹp như thế. Anh thì
lớn lên đã nhập ngũ, phần nhiều thời gian nếu không lang thang trên biển cả thì
cũng đóng quân ở một xứ khác ngoài Mỹ nên đối với xã hội dân sự cũng có chút bỡ
ngỡ. Tôi hăng hái tới cơ quan xin vào chương trình thơ ký. Người phụ trách
chương trình thấy tôi là người tị nạn, chồng lại là cựu quân nhân, hình dạng có
vẻ nghèo nên thương tôi. Sau khi nói chuyện và đọc cho tôi viết một đoạn
anh văn , bà nhận tôi vào chương trình thơ ký. Khi tôi lui cui làm giấy tờ, bà
dịu dàng hỏi:
“Bà có giỏi toán không? Làm nhân viên kế toán thì nhiều lương hơn thơ ký thường
và rất dễ kiếm việc làm.”
Tôi không dám trả lời vì không biết “toán” của bà thuộc về loại gì nên ngập
ngừng:
“Dạ tôi cũng không biết chắc.”
Bà lấy ra một bài thi toán đưa cho tôi. Ái dà, bà ơi. Có phải là bà đang chà
đạp cái trường Gia Long của tôi không? Tôi là học sinh đệ nhất A đây nha bà, dù
tôi không được như bà Dương Nguyệt Ánh ngày nay phát minh ra cái gì là bom tìm
nhiệt thì ba cái 25% của 100 là bao nhiêu, 1/3 của 75 có lớn hơn 2/3 của
40 không v.v.. là cái chuyện nhắm mắt cũng trả lời được.
Một năm sau tôi được giới thiệu vào làm cho công ty nhà hàng Dennys, bộ phận kế
toán xuất nhập.
Làm việc bảy năm tại Dennys tôi đã học được biết bao điều về gia đình, xã hội,
dân tình Mỹ. Trong những buổi ăn trưa tôi học đan áo, học móc khăn, học cách
nấu món ăn Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, học cách dạy con, cách đối xử với chồng, học
cách không bao bạn ăn để rồi kể lể khi giận hờn nhau, mà mạnh ai nấy móc
túi trả phần mình và tình bạn thì không bao giờ sứt mẻ.
Những người bạn ngoại quốc mới nầy giúp tôi hoàn thiện ngôn ngữ, hiểu rõ những
tiếng lóng, sử dụng thành thục những thành ngữ, trả lời điện thoại một cách
chuyên nghiệp. Giúp tôi biết nói cám ơn với con cái. Biết dằn lòng không mở thư
của chúng ra kiểm soát. Biết chỉ dẫn chúng tự thực nghiệm cuộc đời hơn là bao
che lầm lỗi. Biết nói xin lỗi khi phạm phải sai trái. Biết văn minh không
phải là mặc áo hở ngực hở mông mà là tuân thủ theo hiến pháp. Biết tự do không
phải là mạnh ai nấy làm mà là kính trọng nhân vị của chính mình và của đồng
loại. Biết thành công là nhờ vào sự mẫn cán, học hỏi, cầu tiến chớ không nhờ
vào nịnh bợ lấy lòng. Biết các sắc dân khác cũng đầy thương yêu và nhiều đau
khổ. Biết kính trọng người Mỹ đen. Biết thương yêu người Mễ nghèo. Họ cười lăn
lóc với cái accent Á đông của tôi nhưng họ không chê tôi dốt nát. Họ chỉnh sửa
lại những tiếng tôi dùng sai trật nhưng không có ý khinh khi. Họ không đánh giá
tôi cao vì tôi đến từ gia đình trưởng giả như tôi khoe khoang. Họ không nhìn
tôi thấp kém vì tôi thuộc third world country như báo chí thường đăng tải. Họ
nhìn tôi giống như họ, một người vợ, một người mẹ đang cố gắng kiếm tiền một
cách lương thiện để giúp chồng nuôi dạy đàn con.
Chín muơi phần trăm nhân viên kế toán là đàn bà. Đây là những bà mẹ, bà vợ ban
ngày làm toàn thời gian, chiều về nấu ăn chăm lo con cái, cuối tuần giặt giũ,
lau chùi nhà cửa, dạy con làm bài tập, đi chợ, đi chơi với gia đình. Họ
sống bình thường mà còn giỏi hơn tôi là đằng khác.Vậy mà khi xưa tôi cứ nghĩ
đàn bà Mỹ là đồ bỏ. Tôi mang tội khinh người. Khi ở ViệtNam tôi ít khi
nào giặt quần áo cho tôi, cho chồng, cho con. Tôi chưa khi nào lau chùi
cầu tiêu, thức khuya dậy sớm cho con bú, kiểm soát từng bài văn điểm toán cho
con. Tất cả đều có anh tài xế, chị vú, anh bồi, chị bếp, cô giáo dạy kèm. Biết
bao người đã than trời trách đất rằng sống ở đây sao mà cực quá, xã hội gì mà
sướng đâu không thấy chỉ thấy cái gì cũng tự mình làm, thời gian hưởng
thụ chẳng bao nhiêu mà làm việc thì quay tròn như chong chóng chẳng lúc nào
ngừng. Cực ơi là cực. Chỉ chăm chăm muốn về ViệtNam hưởng thụ.
Bạn ơi, bạn hãy dừng chân một bước. Bạn hãy mỉm cười cầm từng món đồ dơ bỏ vào
máy giặt, nhìn vết bẩn trên chỗ đầu gối và hình dung lại gương mặt mếu máo đáng
yêu của con nhỏ khi té quị xuống bải cỏ, nhớ lại ánh mắt chờ
mong tin tưởng của con khi mẹ đến đỡ lên. Bạn hãy nhìn cả nhà húp xột
xoạt chén canh bầu, cùng chia nhau miếng sườn nướng, cuộn chả giò. Bạn hãy cúi
xuống đứa bé đang nở nụ cười ngây thơ chờ mong bình sữa bạn đang đu đưa trước
mặt. Bạn hãy vừa xào món tàu hủ vừa trả lời thằng con đang cắm cúi làm bài tập
bên kia bàn là Los Angeles không phải là thủ phủ của California con ơi.
Thủ phủ của CA là Sacramento hoặc square of three is not three, its
nine. Và năm phút sau đứa con vui vẻ đứng dậy: “Thank you mom( or dad). My home
work is done”.
Đây mới chính là lúc bạn sống, là lúc mà bạn xuyên thủng qua lớp giáp để
linh hồn và huyết nhục bạn và gia đình cùng hoà quyện vào nhau. Đây chính là
lúc hột mè trí tuệ nảy nở trong các con do bạn gieo xuống, lúc hạt giống tình
yêu thẩm thấu vào linh hồn chúng do bạn cày cấy vào.Chúng sẽ lớn lên với ân cần
bạn gởi vào chén cơm, với giúp đỡ bạn xẻ chia trong bài tập, với thương
yêu bạn vuốt thẳng áo quần, với mồ hôi bạn chảy dài trong trận đấu.Và vợ chồng
bạn có cùng một trận tuyến, cùng một hướng nhìn.
Trong suốt mấy chục năm sống trên đất Mỹ tôi thỉnh thoảng bị kỳ thị chung
bởi những người lạ vì tôi là người Á đông nhưng chính bản thân tôi,
tôi chưa hề gặp sự kỳ thị nào có lẽ vì tôi đã sớm hoà nhập vào xã hội nầy, tôi
quên bỏ cái ý tưởng tự cao, nhìn cái gì của người cũng cho là không bằng
ViệtNam. Đàn ông, đàn bà, ấm thực, ngôn ngữ, văn hoá, phong tục, đối xử, giáo
dục, gia đình… cái gì Mỹ cũng thua ViệtNam hết, đừng cho con cái giao thiệp
thân mật với trẻ con Mỹ mà bị hư, không dạy được! Tôi thì nghĩ là không có khu
vườn nào hoàn toàn, không có ít nhiều cỏ dại. Tôi thành thật học hỏi, công bình
so sánh, loại bỏ điều xấu, áp dụng điều tốt và biết ơn những bài học mới mẻ,
những đối xử nhân đạo, những giúp đở trân quí mà tôi và gia đình đã hưởng nhận.
Và khi quì trước mặt đấng tối cao, lòng tôi thanh thản khi tự biết mình là một
người biết ơn và trả ơn với tất cả trái tim.
Tôi đã từ bỏ quê hương điêu tàn, đã quay lưng với tương lai đen tối. Tôi đã
chọn một nơi khác để cất nhà, một miếng đất khác để gieo hạt. Tôi đã dùng nước
sông của họ để tưới tẩm, dùng đồi núi của họ để chăn nuôi. Tôi đã dùng chất xám
của họ để tiến thân, dùng lòng tốt của họ để sống còn. Tôi không bao giờ quên
dòng máu Việt trong tôi nhưng tôi sẽ không ngồi đó nhìn non nước nầy, dân tộc
nầy với một ánh mắt hờ hững, dửng dưng, một thái độ vô ơn, rẻ rúng. Tôi sẽ
không coi đây chỉ là một mảnh đất tạm dung và ngồi khóc thương cho một khung
trời đã mất, mơ tưởng về một dĩ vãng đã tàn phai. Tôi sẽ hòa vào các chủng
tộc khác nhau, rơi lệ khi thấy tòa nhà chọc trời sụp đổ, đau thương khi nhìn
xác lính được chở về, hân hoan khi nghe bài quốc ca trong các cuộc tranh tài.
Tôi sẽ dạy các con cùng tôi nhận nơi nầy làm quê hương, sẽ đem tất cả khả năng
lao động hay học vấn đóng góp vào sự thịnh vượng chung của quốc gia nầy.
Thay vì trồng cây cổ thụ tạm thời trong một cái chậu nhỏ để nó chỉ
được lớn èo uột trong bóng râm, tôi và gia đình muốn đào một hố
sâu, đổ đầy phân bón, tưới tẩm nó với tất cả ân cần, săn sóc nó với tất
cả sức lực để cho rễ mạnh nó ăn sâu vào lòng đất, cho tàn xanh nó tỏa rộng khắp
không gian. Chúng tôi không tạm dung. Chúng tôi mọc rễ và yêu thương quê hương
nầy. Rồi một ngày nào đó, ở bên kia góc trời có cần tới một bóng mát bình
an, chúng tôi sẽ chiết bớt một nhánh cổ thụ đem về…
Chúng tôi chỉ có thể làm như thế khi chúng tôi nhận nơi nầy làm quê hương.
Lệ Hoa Wilson
*Tác giả đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011. Bà là
một Phật tử, pháp danh Tâm Tinh Cần, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa,
sinh năm 1940 tại Cần Thơ. Hai bài viết đầu tiên của bà là tự sự của một
phụ nữ Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Ky. Cưới nhau: 1972.
Tới Mỹ năm 1975. Từ 1985, hai vợ chồng mở v/p Di Trú và Thuế Vụ tại Long
Beach. Bài viết mới nhất là một hồi ức về mảnh đất tạm dung và quê hương yêu
dấu. Tựa đề được đặt lại theo nội dung bài viết.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)