HÌNH ẢNH SÀI GÒN 1975
Blog CHIA SẺ VUI BUỒN: Viết, đọc thơ văn là thú vui tao nhã. Xin chép lại nơi đây thơ văn của bè bạn, của tôi và sưu tầm những bài hay của các thi văn sĩ thành danh nổi tiếng, bên cạnh đó là những nhạc khúc, clips, hình ảnh đẹp … để chia sẻ với mọi người cùng tìm chút niềm vui. Anh Tú anhtu010168@yahoo.com.vn
2014/10/09
GỬI GIÓ CHO MÂY NGÀN BAY
Sáng tác: Đoàn Chuẩn - Từ Linh
Trình bày: Tuấn Ngọc
Trình bày: Tuấn Ngọc
“... Với bao tà áo xanh đây mùa thu
Hoa lá tàn, hàng cây đứng hững hờ
Lá vàng, từng cánh rơi từng cánh
Rơi xuống âm thầm trên đất xưa...”
Mùa thu với bao vẻ đẹp nên thơ của đất trời đã gieo cảm xúc
khiến nhạc sĩ Đoàn Chuẩn viết nên những giai điệu làm say đắm lòng người. Lá
đổ muôn chiều, Chuyển bến hay Tà áo xanh đều được coi là những
kiệt tác của âm nhạc VN. Trong số những tác phẩm viết về mùa thu của Đoàn
Chuẩn, không thể không nhắc tới Gửi gió cho mây ngàn bay. Một bức tranh
sinh động về thu Hà Nội đã được cố nhạc sĩ gửi gắm trong từng nốt nhạc và ca từ
đầy lãng mạn.
Đó là một mùa thu “lá vàng từng cánh rơi từng cánh” khiến
tác giả “thấy hối tiếc nhiều” vì “thuyền đã sang bờ, đường về không lối”. Trong
suốt cuộc đời, Đoàn Chuẩn sáng tác không nhiều, nhưng những tác phẩm của ông
đều nắm giữ vị trí quan trọng trong trái tim người yêu nhạc VN hơn nửa thế kỷ
qua. Năm nay, khi Hà Nội tròn 1000 năm tuổi cũng vào mùa thu, giai điệu của Gửi
gió cho mây ngàn bay một lần nữa lại vang lên như đem “mùa thu trần gian”
năm nào trở về. Khánh Ly, Tuấn Ngọc hay Thu Hà đều là những nghệ sĩ thể thiện
ca khúc này thành công.
VNExpress
2014/10/08
THOÁNG GIÂY QUAY VỀ
Nơi đây sông rạch vây
quanh
Bốn mùa cây lá màu
xanh “lặt lìa”
Nắng vàng chói lọi ngày
kia
Bữa nay mưa rớt đầm đìa
ruộng nương
Nón lá che tóc người
thương
Nóng, ướt anh gánh trên
đường tình yêu
Cầu Lộ thoáng dáng diễm
kiều
Tóc thề phất phới
trong chiều nắng phai
Ghiền tan trường đón
chờ ai
Vui nghe tiếng kẻn hằng
ngày báo tin.
….
Trời xa Thu rụng
quanh mình
Thoáng giây chạnh nhớ
bóng hình ngày xưa!
Anh Tú
October 8, 2014
LỄ XUẤT GIA Của Cô
Gái 17 Tuổi Người Hoa Kỳ
Ngày chủ nhật
10-8-2014 tại Thiền viện Chân Nguyên có một buổi lễ đặc biệt dành cho một gia
đình người Mỹ phát tâm qui y và xuất gia với Thầy trụ trì Thích Đăng Pháp. Viện
chủ Thiền viện Chân Nguyên. Người xuất gia là một cô bé xinh đẹp 17 tuổi tên là
KAYALA JARAMILLO và 2 người phát nguyện qui y là Cha và Mẹ của KAYALA, ông
KERAY JARAMILLO, và bà ARMIDA JARAMILLO, cả hai đều 62 tuổi đang cư ngụ tại
thành phố Ontario, California, Hoa Kỳ.
Ông Bà Jaramillo bố mẹ
của cô KAYALA.
Được biết gia đình JARAMILLO là một gia đình Hoa Kỳ có truyền thống tôn giáo không phải là Đạo Phật nhưng gia đình thỉnh thoảng cũng có đến chiêm bái và thỉnh sách Phật giáo bằng Anh ngữ về nhà đọc vì nghe nói tại Thiền viện có tượng Quán Thế Âm rất linh ứng và mầu nhiệm. đã cứu độ cho rất nhiều người khi có niềm tin và tâm thành kêu cứu đến Ngài, mọi tai ách, bệnh tật đều được cứu độ và chửa lành.
Như thường lệ vào mỗi chủ nhật có chương trình sinh hoạt Phật sự của Thiền viện bắt đầu lúc 7 giờ 30 sáng, khi phật tử của Đạo tràng qui tụ về, khởi đầu là tập thể dục Dưỡng sinh Hồng Gia, sau đó là Tam bộ Nhất bái và Thiền hành đến 9 giờ. Đặc biệt hôm nay vì là ngày Rằm tháng 7 là ngày Tự Tứ Vu Lan Thắng Hội báo hiếu Phụ Mẫu, mặc dù Thiền viện sẽ tồ chức lễ Hội Vu Lan vào tuần sau 17-8-2014 nhưng Phật tử cũng đến hành hương và chiêm bái hôm nay cũng khá đông. Lễ Quy y và xuất gia được tiến hành lúc 9 giời 30 sáng tại chánh điện, quả là một phước duyên lớn cho gia đình JARAMILLO vì có được sự trợ duyên của đông đảo đại chúng chứng kiến.
Cô Kayala trước giờ
xuất gia.
Buổi lễ Xuất gia của cô KAYALA được sự chứng minh của Hội Đồng Giáo Phẩm gồm Thầy Bổn sư của cô là Thượng Tọa Viện chũ, Thầy Thích Đăng Pháp và hai Thượng Tọa Thích Linh Quang, Phó Viện chủ và Thượng tọa Thích Linh Như, Quản chúng của Thiền viện cùng sự chứng kiến trong chánh điện với gần 100 phật tử. Sau nghi thức làm lễ Qui Y cho ông KERAY và bà ARMIDA JARAMILLO đến phần nghi thức xuất gia và xuống tóc cho cô KAYALA. Trước tiên Thượng tọa Thích Linh Quang và Thượng tọa Thích Linh Như có đôi lời bằng Anh ngữ đón chào và chúc mừng đến gia đình và bạn bè cùa cô KAYALA cũng như nói sơ qua các nghi thức quy y và xuất gia, kế đế là phần dâng hương của Hội Đồng Giáo Phẩm trước chánh điện, kế đến Thầy trụ trì dá kéo, tức cắt trọn chõm tóc thắc bính và sau đó là cắt sạch toàn bộ tóc của cô. Trong suốt thời gian cô được xuống tóc thì tiếng tụng niệm liên tục cùng tiếng mõ âm vang “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” của Phật tử hiện diện làm cho không khí trong Chánh điện thật trang nghiêm vi diệu.
Kể từ giây phút này gia đình Jaramillo có thêm pháp danh Phật:
- Ông KERAY JARAMILLO có pháp danh là NGUYÊN ĐẠT
- Bà ARAMIDA JARAMILLO có pháp danh là CHÂN THÀNH
- Cô gái17 tuổi KAYALA JARAMILLO từ nay là Sư Cô THÍCH NỮ CHÂN GIÁC
Hội Đồng Giáo Phẩm
chứng minh cùng gia đình Jaramillo và Sư Cô Thích Nữ Chân Giác.
Thượng tọa viện chủ
Thích Đăng Pháp, Thầy Bổn Sư của Sư Cô Thích Nữ Chân Giác.
Trong cuộc phỏng vấn của Đài truyền hình VNA.TV 57.3 sau đó, Thầy Trụ trì cũng là Bổn Sư của Sư Cô Chân Giác cho biết sẽ gửi Sư cô Thích Nữ Chân Giác lên Tu viện Vạn Phật Thánh Thành ở San Francisco, Bắc California để tiếp tục con đường học vấn và tu hành vì cơ sở phòng ốc của Thiền viện Chân Nguyên còn đang xây dựng. Khi nào Ngôi Tam Bảo của Thiền viện Chân Nguyên hoàn thành, nơi đây sẽ là một trung tâm Văn Hóa Phật Giáo có tầm vóc của người Việt tỵ nạn tại Hải ngoại, chừng đó Thiền viện sẽ tổ chức thường xuyên những khóa Tu học dài hạn và ngắn hạn cho chư Tăng Ni và Phật tử không phân biệt chủng tộc khắp nơi trên thế giới về tu học và sẽ thỉnh các vị Cao Tăng nổi tiếng trên thế giới về giảng dạy.
Sư Cô Thích Nữ Chân
Giác.
Trong năm vừa qua, trước nhu cầu tìm hiểu về Đạo Phật của rất nhiều người ngoại quốc kể cả các vị thức giả giáo sư Đại học tại Hoa Kỳ cũng đến Thiền viện Chân Nguyên để tìm hiểu Đạo Phật, do vậy năm 2013 Thiền viện có tổ chức 2 khóa học Thiền cho người Mỹ, Mể, Lào, Thái Lan, v.v... vào mỗi chiều thứ bảy từ 5 giờ đến 8 giờ tối., mỗi khóa khoảng 10 đến 12 tuần. Khóa thứ nhất có 16 thiền sinh đa số lả người trẻ Hoa Kỳ và cuối khóa có 5 thiền sinh người Mỹ phát tâm qui y. Khóa thứ hai có 17 thiền sinh và có 8 người Mỹ phát tâm xin qui y, ngày hôm nay thêm 2 người là ông NGUYÊN ĐẠT KERAY JARAMILLO và bà CHÂN THÀNH.ARMIDA JARAMILLO Như vậy có tổng cộng là 15 người Mỹ qui y và một vị xuất gia là Sư cô THÍCH NỮ CHÂN GIÁC. Do đó trên những sinh hoạt Phật sự của Thiền viện, ban Tu Thư thường kèm thêm những dòng tiếng Anh trong các thông báo hay thư mời phổ biến rộng rải trên trang webbside của Thiền viện Chân Nguyên để đến cộng đồng quốc tế chứ không còn riêng của Đồng hương và Đồng bào Phật tử chúng ta nửa.
Hiện tại Thiền viện Chân Nguyên sắp hoàn thành Trai đường (nhà ăn) có sức chứa khoảng 1200 chổ ngồi. và tầng trên là 30 phòng ngủ cho Phật tử và chư Tăng Ni về có nơi nghĩ ngơi để tu học, ngoài ra sẽ xây thêm 10 cái cốc (tịnh thất) dành cho chư Tăng Ni về nhập thất. Lễ Lạc Thành Trai Đường dự trù trong năm nay.
Ngôi Trai Đường sau
chánh điện sắp hoàn thành.
Thầy Trụ trì Thích Đăng Pháp cũng thường nói trước đại chúng trong những dịp lễ
là Thiền viện này không phải là của Thầy hay của các Thầy mà là của quý Phật tử
từ các nơi đóng góp tịnh tài tịnh vật mà thành. Với hạnh nguyện là để hoằng
dương Chánh Pháp cũng như để duy trì và phát triển Đạo pháp nơi hải ngoại này.
Đến khi hoàn thành ngôi Tam Bảo này, Thầy sẽ trao truyền lại cho thế hệ Tôn túc
trẻ để kế thừa và Thầy sẽ tiếp tục tu ẩn dật nột nơi sơn lam cùng cốc nào đó,
còn nếu ngôi Tam Bảo chưa hoàn thành, theo hạnh nguyện của Thầy thì kiếp sau
Thầy sẽ trở lại Thiền viện Chân Nguyên để hoàn thành Ngôi Tam Bảo rồi mới thanh
thản về cõi Phật.
Biết đâu từ một cơ duyên nào đó như hôm nay sẽ có nhiều thêm nửaChư Tôn Túc trẻ kề thừa sẽ nối tiếp theo bước chân của
Thầy Thích Đăng Pháp? Ước mong mọi Phật tử đều có căn lành thêm lớn, duyên lành
thêm lớn để thế hệ trẻ nối tiếp con đường của Trưởng Tử Như Lai hầu gìn giử và
phát huy Đạo Pháp được mãi mãi phát triển và tường tồn. Mong lắm thay!
Phổ Nghĩa Võ Thiện Hiếu
Mùa Vu Lan 2014
Biết đâu từ một cơ duyên nào đó như hôm nay sẽ có nhiều thêm nửa
Phổ Nghĩa Võ Thiện Hiếu
Mùa Vu Lan 2014
Về Một Quảng Đời Của Trịnh Công Sơn
(Trịnh Công Sơn ; Thuở hàn vi ,qua lời kể lại cuả 1 bạn học
khi ở Trường Sư Phạm Qui Nhơn và làm nhà giáo tại Bảo Lộc)
Hai năm tại trường Sư phạm Quy Nhơn 1962-1964
Tôi học chung một khóa Sư phạm với Trịnh Công Sơn, khóa I,
ngày 22- 4-1962 khóa đầu tiên mở ra ở Quy Nhơn. Tên gọi là khóa Thường Xuyên 2
năm. Tiêu chuẩn thi vào ít nhất phải có Tú Tài I. Tuy nhiên, khóa ấy đa số thí
sinh đều đã có Tú Tài II, một số đã có một hoặc hai chứng chỉ Đại học. Trong số
300 giáo sinh được chấm đậu đa phần đều là người Huế, chiếm khoảng 60 phần
trăm, 40 phần trăm còn lại rải rác các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Nha Trang lên
tận các tỉnh cao nguyên như Đà Lạt, Lâm Đồng, Pleiku, KonTum...
Đa số chúng tôi lúc ấy đều là con nhà nghèo, hoặc học hành
dở dang hoặc không đủ khả năng tài chánh vào Sài Gòn hoặc ra Huế để vào Đại
học. Cho nên cố thi vào Sư phạm để chắc chắn trong hai năm sẽ có công ăn việc
làm nuôi bản thân và giúp gia đình. Nhắc lại ở đây, lúc ấy, Bộ Giáo Dục và Bộ Y
Tế rất thiếu nhân viên. Khóa nào vừa đào tạo xong là được bổ nhiệm liền, lương
lại tương đối cao. Trong khi những ngành khác như Công chánh,Nông Lâm Súc tốt
nghiệp ra trường, nằm nhà nhiều năm vẫn chưa được tuyển dụng.
Trịnh công Sơn theo ban Pháp văn, tôi theo ban Anh văn.
Những ngày mưa gió ủ ê,không đi ra ngoài được vì đất nhão, chúng tôi nằm khoèo
ở nhà, Sơn kể cho tôi nghe về cuộc đời Sơn, nhiều chuyện vui buồn lẫn lộn.
Chuyện gia đình Sơn là một trong những chuyện buồn. Cha mất sớm, gia đình khánh
kiệt, má Sơn phải chật vật lắm mới nuôi nổi bầy con. Sơn phải bỏ học, về lại
Huế, phụ giúp mẹ. Sư phạm Quy Nhơn là con đường ngắn nhất có thể giúp Sơn đạt
được ý nguyện này. Đơn giản vậy thôi!
Hiệu trưởng trường là thầy Đinh thành Chương. Trường Sư Phạm
và trường Kỹ Thuật Quy Nhơn được ngân sách Mỹ tài trợ xây cất rất qui mô và tân
kỳ, tọa lạc tại Khu Sáu, sát bờ biển, khoảng giữa đường từ phố Quy Nhơn đến
Ghềnh Ráng, nơi thi sĩ Hàn Mặc Tử an nghỉ ngàn thu. Đến một chút nữa là Quy
Hòa, Trại Cùi, ở đó có nhiều bà Xơ tận tụy một đời chăm sóc cho bệnh nhân mắc
phải chứng nan y, bệnh phong cùi. Lúc bấy giờ, thành phố Quy Nhơn hãy còn tiêu
điều, xơ xác. Ngay con đường chính Gia Long chạy từ Núi Một (ga xe lửa ) đến
bến Cảng hãy còn nhiều ngôi nhà đổ nát, vôi vữa hoang tàn trong chiến tranh
chưa có ai dọn dẹp. Đường Lê Lợi chạy từ trung tâm phố thẳng ra biển còn rất
nhiều nhà tranh, vách lá. Gợi lại một vài cảnh cũ để cho thấy chính phủ lúc ấy
có dụng ý khi cho xây hai ngôi trường đại qui mô, đem về đây hơn một ngàn giáo
sinh và học sinh kỹ thuật mỗi năm là để vực dậy nền kinh tế ở đây.
Để giới thiệu và quảng bá rộng rãi cho nhiều nơi biết tiếng
về trường Sư Phạm, Ban Giám Đốc trường cho thành lập Ban văn nghệ, sẽ trình
diễn một chương trình độc đáo chưa từng có ở Quy Nhơn từ trước đến giờ. Trịnh
Công Sơn được bầu làm trưởng ban chịu trách nhiệm tổng quát, Thanh Hải phó ban
thứ nhất chịu trách nhiệm về nhạc, Võ văn Phòng phó ban thứ hai chịu trách
nhiệm một vở kịch thơ nhan đề “Tiếng cười Bao Tự”. Tôi được chọn phụ trách phần
thổi sáo đệm thơ trong suốt vở kịch dài hơn 45 phút. Trong dịp này tôi mới biết
và quen Trịnh Công Sơn. Buổi trình diễn được dự trù đúng vào ngày Song Thất năm
đó (7/7/1962) chứ không phải đợi đến ngày mãn khóa như Đinh Cường nói.
Trong thời gian này,Trịnh Công Sơn sáng tác trường ca "
Tiếng hát Dã Tràng" hay gọi ngắn hơn là "Dã Tràng ca" làm tiết
mục mở màn mà cũng là tiết mục đặc sắc nhất, công phu nhất. Nhạc trưởng Trịnh
Công Sơn với ban hợp xướng do anh tuyển chọn gần 50 người, khổ công trong ba
tháng trời tập luyện đã thành công tuyệt vời trước sự ngac nhiên đầy thích thú
của quan khách và khán giả. Tôi không ở trong ban hợp xướng đó nên không thuộc
bài này chỉ nhớ lõm bõm câu được, câu mất xin ghi ra đây:
Tiếng Hát Dã Tràng
Dã tràng...Dã tràng... Dã tràng...
Dã tràng xe cát biển Đông, Dã tràng xe cát hoài công.
Trùng dương ơi...Trùng dương ơi vỗ sóng vào bờ ...
...Thôi còn gì nữa đâu, còn gì nữa đâu...Đời lên cơn đau...
Xuân , Hạ, Thu, Đông bốn mùa làm rét mướt...
Tôi gọi tên tôi giữa nước non ngàn...
Cũng trong thời gian học Sư phạm, anh còn sáng tác những
nhạc phẩm khác như Biển nhớ, Nhìn những mùa thu đi, Nắng Thủy tinh và một số
nhạc thiếu nhi cho chúng tôi sử dụng đi thực tập, dạy các em nhỏ. Những bản nhạc
ngắn, dễ hát, dễ nhớ như Ông Tiên vui, Ông mặt trời. Tôi xin ghi lại một bài
tượng trưng:
Ông Tiên vui.
Ông Tiên vui,ông có cái râu dài.
Đêm ông về nằm yên trên đỉnh mây.
Hôm em lên Ông chợt đi đâu vắng!
Lúc em về,em buồn đến ngẩn ngơ.
Ông Tiên vui Ông có cái căn nhà,
trên ngọn đồi hằng đêm Ông ghé qua.
Hôm em lên Ông chợt đi đâu vắng!
Lúc em về em buồn đến ngẩn ngơ.
Xin nhắc lại ở đây, Quy nhơn lúc ấy còn nghèo lắm. Cả thành
phố có mỗi một quán kem duy nhất, vừa bán kem, vừa bán cà phê thuốc lá, bia, trà.
Đó là quán Phi Điệp, nằm trên đường Phan Bội Châu, đối diện với hội trường Quy
Nhơn, nơi đã trình diễn văn nghệ. Mỗi buổi chiều hoặc tối, anh chị em nào có
tiền thì vào quán kêu một bình trà ngồi với nhau nhâm nhi nghe nhạc. Khá một
chút nữa thì kêu chai bia với một tô bò viên gân, ngầu pín của ông ba tàu đậu
cái xe phở trước cửa quán. Thế là sang lắm rồi. Còn những anh chị nào "bô
xu" thì ra biển ngồi ngắm trăng suông. Biển Quy Nhơn là biển bùn nên cát ở
đó màu vàng xỉn trông dơ dáy,không trắng như biển Nha Trang. Dọc theo bãi biển
là một hàng dương, chạy dài đến bệnh viện Nguyễn Huệ là xóm chài. Tuyệt nhiên
không có một lều quán hay kiosque nào bán cà phê, bia rượu gì cả. Trịnh Công
Sơn và Tôn Nữ Bích Khê có hẹn hò ra đó với ông Đinh Cường thì cũng chỉ để ngắm
trăng vàng vỡ vụn trên sóng biển mà thôi.
Ba năm tại BLAO, tức BẢO LỘC
Sau hai năm, mãn khóa, chúng tôi tốt nghiệp ra trường. Tôi
và Trịnh Công Sơn cùng bốn giáo sinh khác là Nguyễn thị Ngọc Trinh (Huế),
Nguyễn văn Sang, Trương khắc Nhượng, Đỗ thị Nghiễn (Nha Trang) cùng được bổ
nhiệm chung một Sự vụ lệnh đáo nhậm nhiệm sở Ty Tiểu Học Lâm Đồng. Sự vụ lệnh
mang số 961-GD/NV/38/SVL tạm thời tuyển bổ do ông Nguyễn hữu Quyến, Xử lý
thường vụ Hiệu Trưởng Trường Sư Phạm Quy Nhơn ký ngày 4/8/1964.
Sau hai năm tập sự chúng tôi được điều chỉnh tuyển dụng bằng
Nghị định mang số 596-GD/NV/BC/QĐ do XLTV Đổng lý Văn Phòng, Phụ tá chuyên môn
Phạm văn Thuật ký ngày 6/5/1966. Đến năm1967, chúng tôi mới được chính thức bổ
dụng bằng Nghị định mang số 687/GD/NV/3BC/NĐ kể từ ngày 1/9/1966 do T.ỤN Ủy
Viên Giáo Dục Đổng lý văn phòng Huỳnh ngọc Anh ký ngày 7/4/1967. Với chỉ số
lương 320 cộng thêm phụ cấp đắc đỏ vùng cao lúc bấy giờ,chúng tôi lĩnh được
5200 đồng, tương đương 2 lượng rưỡi vàng Kim Thành. Vật giá lại rất rẻ. Tiền
ăn, ở mỗi tháng chỉ hết 600 đồng. Chai bia con cọp 3 đồng. Một dĩa thịt bò lúc
lắc 4 người ăn giá 7 đồng. Tô phở 3 đồng, cà phê loại ngon 1 đồng. Cơm bữa với
ba món 6 đồng. Thời gian từ 64-67 chúng tôi sống sung sướng, tiêu pha rộng rãi
mà vẫn còn rủng rỉnh.
Tôi từ Nha Trang lên theo đường Nha Trang - Đà Lạt - Bảo
Lộc. Trịnh Công Sơn từ Huế bay vào Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn đi xe đò lên Bảo
Lộc. Không hẹn mà gặp lại nhau trên bến xe vắng vẻ, thưa thớt bóng người. Bõlao
- Bảo Lộc là đây sao? Một phố quận vào chiều thứ sáu sao mà vắng lặng, buồn hiu
hắt. Trời lại mưa lâm râm, lành lạnh. Hai chúng tôi, mỗi người một va li quần
áo nhẹ tênh. Lang thang tìm người hỏi thăm đường đến Ty Tiểu Học Lâm Đồng. Lúc
bấy giờ, Thị xã Đà Lạt biệt lập với tỉnh Lâm Đồng. Tỉnh Lâm Đồng chỉ có vỏn vẹn
hai quận: Blao (Bảo Lộc) và Djiring (Di Linh). Trước năm 1960, Tòa hành chánh
Tỉnh đặt ở Di Linh. Sau dời về Bảo Lộc mới mấy năm khi chúng tôi đến, nên trông
nó như một thị trấn nhỏ vừa mới bắt đầu tạo dựng. Chúng tôi tìm được đến Ty thì
trời đã sụp tối mặc dù chưa tới 6 giờ. Sương mù bốc lên từ mặt đất, bay là đà
dưới chân. Ty chỉ cách bến xe non nửa cây số. May mắn, lúc ấy bác lao công đang
khóa cửa chuẩn bị ra về. Khi biết chúng tôi là giáo viên mới đổi đến, bác ân
cần mời về ở tạm tại nhà bác qua đêm.
Đêm đó chúng tôi trải chiếu, chăn dưới thềm nhà, năm người
bạn trẻ, trừ anh Lãng nằm trên giường, tuổi chỉ từ hai bốn đến hai sáu,cùng
nhau trao đổi những câu chuyện quê hương đi dần từ Sài Gòn ra đến Huế rồi thiếp
vào giấc ngủ. Lúc bừng thức dậy là đã 9 giờ sáng.
Đến sáng thứ hai, trình diện tại Ty để chờ bổ nhiệm, chúng
tôi gặp hầu hết các bạn khác từ các nơi cũng đã đến từ ngày thứ bảy, chủ nhật.
Sư phạm Quy Nhơn đủ mặt: Nguyễn thị Ngọc Trinh, Đỗ thị Nghiễn, Trương khắc
Nhượng. Sư phạm Sài Gòn: Nguyễn hảo Tâm, Nguyễn văn Ba, Nguyễn văn Tâm, Trần
văn Nghị. Nữ có các cô Nguyệt, Châu, Hải. Sư phạm Long An chỉ có một ngoe là
Ngô thanh Bạch. Ty trưởng đương thời là ông Trương cảnh Ngôn sắp về hưu. Tôi,
Trương khắc Nhượng, Đỗ thị Nghiễn và Nguyễn hảo Tâm được bổ về trường Tiểu học
Tân Bùi, cách Bảo Lộc 5km. Nguyễn thị Ngọc Trinh bổ về trường Nữ Bảo Lộc ngay
trung tâm phố. Nguyễn văn Ba ở tại Ty phụ tá kế toán. Riêng Trịnh Công Sơn được
biệt nhãn hơn, bổ về một trường Sơ cấp Thượng, ở sát nách Ty chừng non cây số,
với chức Trưởng Giáo. Nhắc lại ở đây, theo qui chế của Bộ Giáo Dục, một trường
chỉ có bốn lớp trở xuống gọi là truờng Sơ cấp. Người đứng đầu gọi là Trưởng
Giáo, không có phụ cấp chức vụ 200 $, nhưng vẫn phải đứng lớp. Trường từ năm
lớp trở lên là trường Tiểu học. Đứng đầu là Hiệu trưởng. Trường dưới chín lớp
vẫn phải phụ trách một lớp, có lãnh phụ cấp chức vụ. Từ 10 lớp trở lên,
Hiệu trưởng được miễn dạy. Ngạch chúng tôi là Giáo học bổ túc tập sự. Chỉ số
lương 320, do ngân sách Bộ Giáo dục đài thọ như đã nói ở trên. Sau khi phân bổ
xong, chúng tôi được Ty cho phép một tuần ở nhà để lo thu xếp nơi ăn chốn ở.
Thứ hai tuần tới sẽ trình diện nhiệm sở mới. Khi về đến nhà, chúng tôi bò lăn
ra cười với cái chức Trưởng Giáo của Sơn. Vì lần đầu mới được nghe cái chức
này, ai cũng liên tưởng tới các chức Trưởng lão hay Giáo chủ trong Ma giáo của
tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung.
Mấy ngày thong thả, chúng tôi đi dạo khắp nơi đểạ tìm nhà
trọ nhưng không nơi nào vừa ý. Nhất là nhà vệ sinh thì khiếp quá. Có ai đó mách
chúng tôi, ở về phía Ty công chánh có ngôi biệt thự vừa xây xong, chủ nhà ngỏ ý
muốn cho thuê, nhưng hơi đắt. Tôi và Sơn đến ngay. Nhà rất đẹp, tọa lạc trên
một khu quang đãng, thoáng tầm nhìn. Chủ nhà là một người đàn bà trạc ba mươi,
người mảnh dẻ, hiện là trưởng phòng kế toán của Ty công chánh Lâm Đồng. Sau khi
nói chuyện dăm phút chúng tôi bằng lòng thuê toàn bộ căn nhà, trừ cho bà và đứa
con gái một phòng để ở, với giá 1200 đồng một tháng. Trên đường về nhà Sơn lẩm
bẩm: “Đàn bà mà tên là Phi, lại lót thị. Thị Phi...Thị Phi !". Sơn tủm tỉm
cười một mình. Tôi biết Sơn đang nghĩ về bà chủ nhà, trẻ, sống một mình.
Chúng tôi rủ thêm hai người bạn nữa để chia phòng, bớt tiền.
Anh Nguyễn hảo Tâm và Nguyễn văn Ba đến xem nhà và đồng ý ngay. Tôi và Sơn có
công tìm nhà nên được ưu tiên ở căn phòng trước, có cửa sổ quay ra mặt đường.
Tâm và Ba căn phòng kế. Bà chủ cùng đứa con gái ở phòng trong cùng. Những ngày
chúng tôi sống trong ngôi "biệt thự" của bà Trần thị Phi thật là vui
nhộn. Cũng chính trong căn phòng có khuôn cửa sổ ngó ra con đường đất đỏ trước
mặt của căn nhà này, Trịnh Công Sơn đã sáng tác các nhạc phẩm: Chiều một mình
qua phố, Lời buồn thánh, Vết lăn trầm và Ca khúc da vàng.
Ngày lãnh lương đầu đời
Mới ngày nào vừa trình diện để nhận nhiệm sở, thoáng cái đã
đến cuối tháng lãnh lương. Ngày lãnh lương đầu tiên,chúng tôi ai nấy đều háo
hức đến Ty thật sớm để ký tên vào sổ lương, lãnh một món tiền lớn do chính tay
mình làm ra, món tiền mà từ xưa tới nay cá nhân tôi chưa hề cầm được trong tay.
Hai năm trọ học ở Quy Nhơn, cha mẹ tôi phải khó nhọc lắm mới dành dụm được 600$
hằng tháng để gửi cho tôi chi tiêu. Có tháng chậm tới ngày thứ mười mà tôi vẫn
không dám viết thư dục, vì tôi hiểu rõ hoàn cảnh của tôi: con nhà nghèo.
Lãnh lương xong, ra khỏi cửa, Sơn sải chân đi thật lẹ. Sơn
vốn cao, chân dài. Tôi thấp, chỉ tới tai Sơn, chân ngắn, nên phải nhảy ba bước
một, mới bắt kịp. Vừa thở, vừa kêu Sơn đợi. Sơn không đáp cứ cắm đầu đi thẳng.
Vừa vào phòng, Sơn khóa ngay cửa lại. Tôi ngạc nhiên coi anh chàng làm cái trò gì
đây. Sơn để nguyên quần áo, giầy vớ nằm vật ngửa ra đi văng, tay rút trong túi
quần ra cái phong bì tiền lương lúc nãy, xé phong bì, nắm hết nắm tiền 5200$
gồm giấy 5$, 10$, 50$ tung lên trên trần nhà. Giấy bạc mới tinh, phát ngân viên
Thành vừa lãnh từ kho bạc ra, rơi lả tả xuống người Sơn, rơi xuống đi văng. Sơn
hốt lên, tung trở lại. Sơn cười sằng sặc. Sơn cười ha hả. Tiếng cười nghe là
lạ. Nó pha lẫn niềm vui và nỗi phẫn hận. Rồi Sơn chửi thề: " Đù mạ mi ! Đù
mạ mi ! Tiền! Tiền!". Đó là lần đầu tiên tôi nghe Sơn chửi thề. Và cũng là
lần duy nhất suốt ba năm sống chung với nhau. Tôi để mặc Sơn tự do trong những
giây phút ấy. Tôi không muốn xen vào để quấy rầy Sơn đang đắm chìm trong thế
giới riêng tư của mình. Tôi yên lặng đếm số tiền của mình một cách chậm rải.
Từng tờ, từng tờ. Tôi để mười ngón tay tôi cảm nhận đầy đủ cái cảm giác sung
sướng đang rung lên từng chập với tiếng kêu sột soạt của những tờ bạc mới chạm
vào nhau. Cái âm thanh sao mà dễ thương thế. Cái mùi giấy bạc mới sao mà thơm
thế! Đầu tôi phát họa mau lẹ một kế hoạch. Hãy trích ra 3000$, ra bưu điện mua
ngay một cái “măng-đa” gửi về cho Má. Chắc Má mừng và vui lắm khi nhận được số
tiền này do thằng con gửi về. Thằng con do một tay bà nuôi nấng chắt chiu, dành
dụm từng đồng của gánh hàng đè nặng trên vai bà hằng ngày, để ngày hôm nay bà
sung sướng và hãnh diện âm thầm không dám thổ lộ cùng ai. Con bà đã thành ông
giáo!
Chiều hôm đó chúng tôi không ăn cơm nhà. Phải tự khao một
chầu linh đình mới được. Tại nhà hàng Ngọc Hương (bây giờ ông bà chủ quen mặt
chúng tôi quá rồi) có mặt đông đủ những ông giáo trẻ vừa mới có được thành
tích: một tháng công vụ. Đêm đó chúng tôi tưng bừng ăn uống, cười nói hả hê. Ra
về lúc chín giờ,điện cúp. Bá vai nhau đi khệnh khạng, xiên xẹo giữa phố vắng
dày đặc sương mù. Đến cuối dốc cầu, xếp hàng ngang, vạch quần,vừa đi vừa tè, vẽ
thành rồng, rắn loang lổ trên mặt đường nhựa. Ôi! một thời tuổi trẻ vô tư, hồn
nhiên.
Một thầy, một cô, một chó cái
Tôi không hình dung được lúc ông Cao Bá Quát làm Giáo thụ ở
Quốc Oai cái cảnh nó ra làm sao mà ông tả oán bằng những câu thê thảm:
Một thầy, một cô, một chó cái. Học trò dăm đứa, nửa người,
nửa ngợm, nửa đười ươi.
Nhưng cái cảnh ông Trưởng giáo Trịnh Công Sơn ngồi dạy học ở
ngôi trường Sơ cấp Thượng thì thật là vừa bi vừa hài. Mỗi buổi sáng, cái hoạt
cảnh ông đi dạy đã là buồn cười rồi. Tôi và Sơn có điểm giống nhau là không bao
giờ đeo đồng hồ. Tôi dạy buổi chiều nên tha hồ nằm nướng trên giường. Sơn phải
dậy sớm lúc bảy giờ để đến trường. Những ngày có mặt trời thì nhìn bóng nắng mà
đi. Những ngày sương mù hay mưa dầm thì lắng nghe tiếng kèn lính chào cờ ở một
đồn lính nào đó rất xa vọng lại văng vẳng. Te te...Tò tí te...Tò tí te... Sơn
xỏ vội chiếc áo ka ki màu vàng cụt tay (chiếc áo này tôi thấy mặc từ lúc còn ở
trường Sư phạm), đôi giầy ba-ta màu nâu, nách trái kẹp cuốn vở soạn bài cuộn
tròn, miệng ngậm ống vố, chân sãi bương bã đến trường. Trường không xa lắm, non
nửa cây số, Sơn lội bộ hằng ngày, trên con đường đất đỏ, càng lúc càng lên dốc.
Ngày nắng thì bụi đỏ mù trời, ngày mưa thì nhèm nhẹp. Đi một lúc phải tìm chỗ
nào có cây hay cục đá để gạt bớt đất nhão dính vào đế giày càng lúc càng nặng.
(Ấy thế mà ông Trịnh Cung đã tưởng tượng ra cảnh Trịnh Công Sơn gò lưng đạp xe
đến trường, xa năm, bảy cây số). Có hôm Sơn ngồi chờ mãi mà vẫn không nghe thấy
tiếng kèn đồng giục giã tò te, tí te, cứ ngồi ôm đàn tìm nốt nhạc. Đến khi
sương tan hết, mặt trời ló ra thì đã gần đứng bóng. Ba chân, bốn cẳng Sơn vội
vã như ngựa phi nước đại đến trường.
Một hôm tôi bỗng nảy ý định đến xem ngôi trường của ông
Trưởng giáo nó ra làm sao. Leo hết con dốc ngắn, ngôi trường hiện ra trên một
khoảng đất trống, xung quanh trơ trọi không một cây cối gì cả. Trường được ngăn
đôi thành hai lớp học. Mái tranh, vách đất, không cửa nẻo. Trong lớp, một bàn vuông
cho thầy, sáu bộ bàn ghế dài cho trò. Trên vách treo một bảng đen, màu đen bạc
thếch ở giữa. Chắc trải nhiều năm tháng không ai buồn sơn lại. Bụi đỏ bám khắp
nơi. Từ vách đến bàn ghế thầy lẫn trò. Tôi đến đó khoảng mười giờ. Học trò hầu
hết là các em bé người Thượng, chỉ xen lẫn vài em người Kinh, có lẽ con của một
vài gia đình lính đóng đồn gần đó. Tất cả đều bẩn thỉu. Có đứa ở trần, đánh độc
chiếc quần xà lỏn. Có đứa cũng đủ bộ nhưng màu đất đỏ đã nhuộm từ ống quần trở
lên nên không còn nhận ra được màu nguyên thủy của nó là màu gì. Thầy Sơn đang
ngồi tư lự, miệng ngậm ống vố, mắt nhìn lơ đãng về phía cánh rừng xa xa mặc cho
đám học trò làm gì thì làm. Một túm đang gò lưng trên bàn, méo mồm méo miệng
nắn nót viết bài theo trên bảng. Một túm đang bò lê bắn bi dưới đất. Cuối lớp
vài đứa đang dựa lưng vào vách, há mồm ngủ.
Thấy tôi vào, Sơn cười méo miệng: -Tới đây chi cha? - Tới
coi ông Trưởng giáo làm ăn ra sao cho biết, tôi cười cười - Còn ông già Thống
đâu? - Ông Thống dạy buổi chiều. - Có mấy lớp anh Sơn - Ba, tôi dạy lớp ba, ông
già Thống dạy lớp một và hai. - Học sinh đông không? - Thì ông thấy đó, bữa nào
không đi hái trà thì được hai chục, bữa nào cha mẹ nó cần thêm nhân công thì
mươi, mười lăm đứa.
Những đứa học trò thấy có người lạ thì cứ trố mắt nhìn. Sơn
gõ gõ cây thước lên bàn làm hiệu. Đám học trò ngưng hẳn cuộc chơi chờ lệnh
thầy. Sơn nói: “Hôm nay thầy có khách,cho các em về sớm”. Đám trẻ con mừng hớn
hở ra mặt, vội thu xếp sách vở, ùa ra khỏi cửa. Trong giây lát, tất cả trở về
trong yên lặng. Sơn ngồi trầm ngâm, nán lại thêm chút nữa, đảo mắt nhìn quanh
một vòng rồi tặc lưỡi đứng lên. Hai chúng tôi yên lặng xuống đồi. Trong thâm
tâm có lẽ mỗi người đang theo đuổi một ý nghĩ khác nhau. Sơn nghĩ gì? Tôi thì
nghĩ "May cho ông thi sĩ họ Cao ngày xưa, ngồi dạy học ở nơi khỉ ho, cò
gáy còn có một cô, một chó cái để an ủi. Ngày nay ông nhạc sĩ họ Trịnh cũng
ngồi dạy một nơi y như vậy mà không có gì bầu bạn ngoài một nỗi buồn cô
quạnh". Trên đường về, tôi gợi ý với Sơn nên nhập hai buổi lại thành một,
để có thêm ông già Thống cho vui .Sơn đồng ý là ý kiến hay.
Sau khoảng vài tháng đầu niên khóa 64-65, ông Trương cảnh
Ngôn về hưu, ông Lê cao Lợi, thanh tra kỳ cựu, có tu nghiệp ở Mỹ một thời gian,
được Bộ đề cử chức Ty Trưởng thay ông Ngôn. Đây là thời gian vàng son của Trịnh
Công Sơn. Ty trưởng Lợi, trung niên, có tâm hồn văn nghệ, thích thơ, nhạc, nên
đối với một người như Sơn ông dành cho nhiều dễ dãi. Đôi lúc nhắm mắt làm ngơ
cho Sơn dùng thì giờ dạy học làm việc riêng của mình. Việc này khiến một vài
giáo viên già, lâu năm trong nghề so bì.
Khi chúng tôi đặt chân lên Bảo Lộc, trời đã vào thu. Những
tháng đầu hãy còn lạ nước, lạ cái, không biết đi đâu, làm gì để hết thì giờ vì
chỉ phải dạy có một buổi, chúng tôi có suốt những buổi chiều lang thang. Cứ hết
"những bước chân âm thầm" trong khuôn viên trường Nông Lâm Súc im lìm
vắng vẻ với những tàn cây sao, cây gõ, cây gụ cao vút tận trời xanh, lại đến
đoạn đường quốc lộ I chạy xuyên qua con phố Blao lèo tèo vài quán ăn dọc đường
ngắn củn. Chúng tôi lại đi vòng bờ hồ cho đến khi chiều xuống hẳn, sương mù bắt
đầu xuất hiện trên mặt hồ, ban đầu mỏng rồi dầy dần, cho đến lúc che khuất một
chòm cây khô giữa hồ, chỉ còn thấy một thân cây khô với những cành khẳng khiu
vươn lên trơ trọi giữa khoảng trời mây. Đến lúc đó ai cũng cảm thấy mỏi chân và
muốn vào quán ngồi uống cà phê, hoặc uống bia nghe nhạc, chờ tối để về nhà tìm
giấc ngủ. Trong cái không gian và thời gian đó Trịnh Công Sơn cảm hứng sáng tác
nhạc phẩm Chiều một mình qua phố. Cái lạ là suốt thời gian gần ba năm làm nhạc
tại Bảo Lộc, những bản Chiều một mình qua phố, Lời buồn thánh, Vết lăn trầm và
tập Ca khúc da vàng, mặc dù đã có tiền nặng túi, Sơn vẫn không có nổi cây đàn
(hay Sơn không muốn mua?). Sơn dùng cây đàn ghi ta của cô Đỗ thị Nghiễn. Cây đàn
này đã giúp Sơn ghi lại những nốt nhạc mà Sơn thai nghén trong những lúc đi dạy
hoặc lang thang với chúng tôi ban ngày, tối về chúng tôi say sưa trong giấc ngủ
thì Sơn ôm đàn say sưa dò lại những âm thanh đang chập chờn ẩn hiện trong đầu
Sơn. Sau những đêm như thế, Sơn phờ phạc hẳn. Một giỏ rác đầy tràn những tờ
giấy bản dùng để quay ronéo Sơn chép vội những dòng nhạc vừa xuất hiện trong
đầu rồi chợt biến, vo tròn, ném, lại dò tìm. Sơn sợ làm ồn giấc ngủ của tôi,
nên phải chận phím để tạo những âm thanh câm.
Nhạc phẩm đầu tiên được ấn hành
Mặc dù trước đó Trịnh công Sơn đã có nhiều nhạc phẩm rất hay
như "Ướt mi", "Thương một người", "Biển nhớ",
"Nhìn những mùa thu đi"... nhưng chỉ chuyền tay nhau hát trong chốn
bạn bè, không có điều kiện hay vì những lý do nào đó Sơn không thể xuất bản để
phổ biến rộng rãi. Đến khi ở tại Blao, sau khi hoàn chỉnh nhạc phẩm "Chiều
một mình qua phố", Sơn quyết định mang đứa con của mình về Sài Gòn tìm nhà
xuất bản. Sơn ở rịt tại Sài gòn gần ba tuần lễ .
Ông giáo già Thống chạy chiếc xe gắn máy Sach cũ kỹ, già nua
không thua gì tuổi đời của ông, đến chỗ chúng tôi trọ, tìm Trịnh Công Sơn .
- Thầy ơi, thầy có biết ông Sơn ở đâu không ?, ông hỏi tôi.
- Ông ấy về Sài gòn rồi, ông ta không nói gì với ông sao?,
tôi đáp.
- ối giời ơi, tôi chết mất, một mình tôi phải ôm ba lớp suốt
ba tuần nay, ông rền rỉ.
- Thầy có biết lúc nào ông ấy về không?
- Không thể nào biết được.
- Thế thì tôi chết mất.
Nói xong ông thất thểu dắt xe ra ngõ. Tôi nhìn theo mà ái
ngại cho tuổi già của ông. Vài năm nữa là về hưu nên ông cố đeo cái nghề này
trong chốn đèo heo hút gió để mong được chút tiền hưu, an hưởng tuổi già. Tình
trạng này còn dài dài đến với ông và ông vẫn phải ôm ba lớp và ông vẫn rền rĩ
như mọi bận. Chúng tôi gọi đùa sau lưng, ông là " Con ngựa già
của...Trưởng Giáo Trịnh", nhại lại nhan đề một truyện ngắn trong nhóm Nhân
Văn Giai Phẩm miền Bắc.
Mấy ngày sau Sơn về. Phờ phạc, hốc hác. Tôi kể chuyện ông già
Thống đi tìm. Sơn nói là sẽ xin lỗi sau. Xong, Sơn ngủ vùi suốt ngày hôm đó.
Ngày hôm sau Sơn kể cho tôi nghe mọi việc về nhạc phẩm "Chiều một mình qua
phố".
Sơn nói: "Mình bán cho cha Duy Khánh. Chả trả có ba
ngàn đồng bạc, mình nài thêm, chả nói, nhạc Phạm Duy là đắt nhứt mà cũng chỉ
tới năm ngàn là cùng, ông là nhạc sĩ mới, giá vậy là cao lắm rồi". Sơn tặc
lưỡi nói tiếp : "Thôi cũng được, nhưng tiếc một điều là chả làm hư bài hát
của mình. Mình bán đứt bản quyền rồi đâu có ý kiến chi được”. Tôi thắc mắc: “Hư
là hư làm sao?". Sơn nói: "Nhạc của mình êm, nhẹ để diễn tả nỗi buồn
của những ngày lang thang trên phố vắng, đìu hiu, quạnh quẽ mà chả cứ rống lên
như bò rống. Sơn giả giọng Duy Khánh, tay nắm lấy da cổ họng giựt giựt ,miệng
rống lên "Chiều một mình qua phố...ố...ố...ố". Tôi không sao nín cười
được. Từ đó Sơn giải nghĩa cho tôi nghe về việc in ấn, tác quyền, phát hành,
đại lý, gom tiền... rất là nhiều giai đoạn nhiêu khê, tác giả một nhạc phẩm hay
một tiểu thuyết không thể nào tự mình làm được các việc đó, nên bị các nhà xuất
bản bắt chẹt, đành phải bán bản quyền cho họ. Bây giờ tôi mới vỡ lẽ ra. Bấy lâu
nay tôi cứ ngỡ các ông văn sĩ, nhạc sĩ có sách, có nhạc được in ra, đem bán
khắp nơi chắc là giàu lắm.
Dịp này, Sơn kể cho tôi nghe về hai người bạn ở Sài gòn mà
Sơn thường về ở chung, đi ăn, đi nhảy với nhau. Đó là Đinh Cường và Trịnh Cung.
Đến giờ phút ngồi viết những dòng này, tôi vẫn chưa gặp và biết mặt Đinh Cường
(trừ vài tấm hình trên Internet). Trịnh Cung thì tôi có thấy mặt một lần khi ông
ta ghé Blao thăm Sơn, tại phòng chúng tôi đang ở, khoảng đầu năm 1965 thì phải.
Hai hình ảnh của hai ông Trịnh thật tương phản. Ông họ Trịnh Công Sơn thì xuề
xòa, giản dị trong áo kaki vàng bỏ vô quần tergal, với đôi giầy bata màu nâu
muôn thuở (sau này có may thêm hai áo sơ mi, một nâu, một trắng bằng vải
Nylfrance). Dạo ấy, Sơn có thêm một biệt danh do chúng tôi đặt là "Chàng
nghệ sĩ nhứt y nhứt qưởn”. Có lẽ một năm Sơn mới hớt tóc một lần, tôi nghĩ vậy,
vì không bao giờ tôi thấy Sơn có đầu tóc mới. Vẫn mái tóc thưa, mềm chạy dài
xuống gáy. Hàng râu mép hung hung nâu, không phải râu, cũng không phải lông.
Khi dài thì Sơn lấy kéo cắt bớt. Hàng râu cằm lại càng khiêm nhường. Từ sợi nọ
sang sợi kia có thể mắc võng được, tôi hay đùa với Sơn như vậy. Còn ông họa sĩ
họ Trịnh kia (thựa ra Trịnh Cung tên thật là Nguyễn văn Liễu) thì đỏm đáng
trong bộ veston thời trang lúc bấy giờ, cà vạt hẳn hoi, giầy da láng bóng.
Trở lại câu chuyện "Chiều một mình qua phố". Sơn
hỏi tôi "Ông Lợi có nói gì không?" - "Không biết". -
"Nhưng ông đi lâu quá, tôi e cũng đã đến tai ông ta rồi”, tôi đáp. “Làm
sao bây giờ?”, Sơn hơi lo. Tôi trấn an “Không sao đâu. Chiều nay ông lên Ty
cười cầu tài một phát, nói vài lời xin lỗi rồi tặng ổng bản nhạc là xong
ngay".
Sơn thở phào nhẹ nhỏm. Sơn rút trong cặp ra hai bản, ký tặng
ông Trưởng Ty một bản, tôi một bản. Bản đặc biệt in trên giấy láng, hai lớp.
Ngoài bìa màu nâu,vẽ chàng nghệ sĩ tay trái xách đàn, tay phải vắt áo trên vai
đang lầm lũi xuống con đường dốc. Hình vẽ này chắc chắn không phải của Đinh
Cường hoặc Trịnh Cung, tôi nhớ vậy, vì nét vẽ chân phương không lập dị thường
thấy có khuôn mặt nhọn, người dài ngoẵng và hai tay thì thường kẹp vào đùi của
hai ông. Sơn ký tên đủ cả họ và tên dài theo hết bản nhạc theo chiều đứng. Cái
gạch ngang chữ T trên đầu kéo dài che hết cả ba chữ Trịnh Công Sơn (không có
hình con cá như ông Đinh Cường nói).
Chiều hôm đó, ở Ty về, Sơn hớn hở khoe với tôi: "Lúc vô
Ty, mấy nhân viên văn phòng ái ngại cho tôi, chắc thế nào cũng bị ông Trưởng ty
Lợi quạt một trận tơi bời vì tội bỏ nhiệm sở. Tôi cũng hơi lo. Nhưng lúc gặp
ổng trong văn phòng riêng, tôi chìa bản nhạc ra trước và nói mấy lời phân bua
lý do vắng mặt cùng lời xin lỗi. ổng cầm bản nhạc chăm chú xem, không nói gì.
Lúc đó hơi yên tâm. Cuối cùng ông ta nói "Cám ơn anh bản nhạc, nhưng từ
rày về sau đừng bỏ trường nữa, tội nghiệp ông Thống. Và tôi cũng sẽ khó đối xử
với các giáo viên khác. Về âm nhạc mong anh thành công nhiều hơn".
Cô nữ sinh tên Ngà, tiếng kèn đồng và lời buồn thánh
Khoảng đầu tháng tư năm 1965 chúng tôi đau buồn tiễn biệt
người bạn trẻ Nguyễn văn Ba về bên kia thế giới. Ba là người ngoan đạo. Mỗi
buổi sáng, đúng 5 giờ, dứt hồi chuông, là anh đã ra khỏi nhà để đến nhà thờ dự
lễ nhứt, trong khi chúng tôi còn quấn kỹ trong chăn. Rất chăm chỉ, không sót
một ngày. Hôm đó, anh về Sài Gòn để thăm gia đình,Việt cọng đắp mô ở đèo
Madagui. Chưa có quân đội đến gỡ, anh tình nguyện xuống gỡ, thì mìn nổ giết anh
chết ngay tại chỗ.
Cái chết của Nguyễn văn Ba, ấy thế mà lại giúp Sơn hoàn
thành một bản nhạc bất hủ khác: Lời buồn thành. Số là trước đó, cứ trưa thứ
sáu, sau khi bãi học, Sơn đi thẳng ra bến xe, lấy vé về Sài gòn. Xe nhỏ Minh
Tâm, chỉ bốn tiếng đồng hồ là Sơn đã tiếu ngạo ở thành phố hoa lệ. Mười hai giờ
trưa chúa nhật, Sơn lại leo lên xe đò, đánh một giấc. Năm giờ chiều đã có mặt
tại bàn bi da Cà phê Ngọc Trang. Sau cái chết của Nguyễn văn Ba, Sơn rét, không
dám về Sài Gòn hằng tuần nữa. Những ngày bó gối nằm nhà, Sơn thường ngồi tư lự
trước bàn viết duy nhất dành cho cả hai soạn bài dạy, nhìn ra con đường đất đỏ.
Mùa này, bông lau nở trắng xóa khắp nơi, dọc theo con đường dốc chạy dài từ
trong buôn ra tới quốc lộ, băng ngang trước nhà chúng tôi. Buổi chiều, những
cơn gió nồm thổi nhẹ tới từng cơn, lướt qua rừng bông lau, xô chúng ngã nghiêng
xuống, rồi chúng bật dậy, tạo thành những âm thanh xào xạc nhè nhẹ, đều đều,
buồn buồn. Chiều xuống dần, những vạc nắng cuối cùng chiếu xiên trên ngọn bông
lau, lấp lánh sáng ngời. Gió lắng dần, không gian trở nên im ắng, tĩnh mịch.
Chợt tiếng kèn đồng xa xa vẳng lại, lúc nghe, lúc mất thật hiu hắt buồn. Đó là
lúc cô nữ sinh hàng xóm, cô Ngà, đúng giờ đi lễ. Chuông nhà thờ đang dồn dập
từng hồi thúc giục con chiên đến giáo đường. Thật đúng như tên đặt, da cô trắng
ngà, người mảnh mai với mái tóc thề chấm ngang vai, khuôn mặt phảng phất như
Đức mẹ Maria. Rất dịu dàng trong dáng đi, mỗi buổi chiều cô đi lễ, đều đi ngang
nhà chúng tôi. Hai tay ấp quyển Kinh Thánh trước ngực, đầu hơi cúi xuống, lặng
lẽ, khoan thai bước. Đã bao lâu rồi, cái hình ảnh rất đẹp ấy, cái mầu áo dài
trắng nổi bật trên nền đất đỏ, thấp thoáng ẩn hiện trong đám lau trắng, đã đi
ngang nhà chúng tôi bao nhiêu chiều rồi mà chúng tôi không hề hay biết. Thật
uổng phí! Chẳng là, cứ ba giờ chiều là chúng tôi đã túc trực quanh mấy cái bàn
bi da để dành chỗ rồi chơi cho đến khi tắt điện mới mò về, thì làm sao có thì
giờ để biết bên hàng xóm có người đẹp. Cái tên Ngà mãi về sau, theo dõi, lắng
nghe mấy đứa em cô gọi mới biết. Từ ngày Nguyễn văn Ba chết chúng tôi buồn vì
thiếu vắng một người bạn, nên không còn hứng thú trong những buổi lang thang
nữa. Ngồi nhà suốt một tuần nên mới phát hiện ra bên hàng dậu có người ngọc. Cả
ba : Sơn, Tâm và tôi bắt đầu theo đuổi. Nhưng cả ba đều không thành công. Lý
do: tuổi trẻ ham chơi nên không bỏ hết thì giờ để đeo đuổi, thứ nữa là sĩ diện,
quan trên trông xuống người ta trông vào, thầy giáo mà đi chọc gái thì ê càng
quá. Tuy nhiên với tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ, Sơn đã thành công khi
đưa tất cả những âm thanh mơ hồ của ngàn lau,của tiếng kèn đồng, tiếng chuông
nhà thờ cùng dáng yểu điệu của cô Ngà hòa nhập với gió chiều nhè nhẹ để cấu
thành chất liệu tuyệt vời tạo nên nhạc phẩm "Lời buồn Thánh".
XUẤT XỨ VÀI NHẠC PHẨM - NHỮNG MỐI TÌNH MỘT THOÁNG MÂY BAY
Ngoài những nhạc phẩm như "Biển nhớ"," Nhìn
những mùa thu đi","Dã tràng ca"...Sơn sáng tác ở Quy Nhơn năm
62-64, "Chiều một mình qua phố"."Lời buồn Thánh","Vết
lăn trầm"...Sơn làm tại Bảo Lộc thì tôi biết rõ xuất xứ và thời gian như
đã lượt qua ở trên, tôi còn biết thêm một vài nhạc phẩm khá hay liên quan đến
những mối tình, mà anh gọi là "một thoáng mây bay" do anh kể lại, nay
một chuyện, mai một chuyện. Thường thường những chuyện này được kể trong những
chiều trời mây u ám, mưa rả rích, dai dẳng. Hai anh
em chúng tôi đem đàn, sáo ra hòa điệu. Rồi cũng chán. Lại cà
phê. Khói thuốc mịt mù, mờ khuôn cửa kính. Anh kể chuyện hấp dẫn, có duyên. Bất
cứ chuyện gì anh kể tôi cũng đều thấy hay. Có khi khôi hài cũng rất dí dỏm. Vừa
nói, vừa ra điệu bộ, làm cho câu chuyện rất sống động, lôi cuốn người nghe từ
đầu đến cuối.
Diễm của "Diễm xưa"
Hai chị em, người chị là Bích Diễm, người em là Dao ánh, Sơn
kể, hai chị em đều đẹp và quí phái, nhưng tôi theo cô chị. Mối tình học trò kéo
dài từ khi tôi còn ở Huế cho đến lúc tôi vào Sài gòn trọ học. Cha mẹ Diễm khó
và không thích tôi. Nhưng tôi vẫn cứ đeo đuổi hình bóng của Diễm và Diễm cũng
chưa tỏ vẻ gì xa lánh tôi. Năm đó tôi thi trượt Bac IỊ Diễm thi đậu, vào Sài
Gòn để vào đại học Văn khoa. Còn tôi thì lại về Huế, bỏ ngang việc học vì gia
cảnh. Phần buồn, phần tự ái tôi không còn liên lạc với Diễm nữa và Diễm có lẽ
thấy tôi lâu quá không thư từ, thăm hỏi, nghĩ rằng tôi đã quên, nên Diễm cũng
lơ luôn. Đâu biết rằng đó thời gian tôi đau khổ nhất. Tôi đã nén mọi khổ đau
trong im lặng. Sự đau khổ và nổi nhớ nhung dày vò tôi từng đêm,tôi đã viết nên
bài "Diễm xưa" để trút bớt nỗi đau khổ trong lòng. Nhưng lạ một điều
là khi tôi viết xong nhạc phẩm này, lòng tôi lại thanh thản,nhẹ nhàng. Tôi cảm
thấy vơi đi rất nhiều nỗi nhớ và tình yêu trong lòng tôi bây giờ chỉ còn một
chút mong manh như sương, như khói. Nó không còn nồng nàn,mãnh liệt như trước.
Một dịp tôi vào Sài Gòn, tìm đến cư xá Diễm đang nội trú với ý định tặng nàng
bản nhạc để làm kỷ niệm một thời thơ mộng của tuổi trẻ, rồi thôi. Nhưng không
gặp, tôi nhờ mấy người bạn gái đang đứng ở cổng trao lại giùm cho Diễm. Khi tôi
đi được một quãng thì nghe tiếng Diễm từ trên ban công gọi theo “Anh Sơn! Anh
Sơn ơi! Anh Sơn !”. Nhưng tôi không ngoái lại. Tôi cắm đầu đi thẳng. Tiếng gọi
Anh Sơn, anh Sơn vẫn còn nghe văng vẳng sau lưng. Từ ấy đến nay, tôi tự nhủ
lòng sẽ không bao giờ gặp lại.
Tôn Nữ Bích Khê và Biển nhớ
Nhóm học sinh Nha Trang khăn gói ra Quy Nhơn học Sư phạm có
mười một người, bảy nam và bốn nữ. Các nữ giáo sinh gồm có Mân thị Dưỡng (em
gái kề của Mân Thiệu tức nhạc sĩ Thanh Châu,tác giả nhạc phẩm “ Thư gửi người
lính chiến”); Nguyễn thị Tảo, Tảo học chung lớp Đệ nhất B3, Võ Tánh
với tôi; cô Kiều thị Đợi và Tôn Nữ Bích
Khê. Bích Khê có hai người em gái cũng tên Khê, đó là Thuần Khê và Cẩm Khê.
Bích Khê dáng người nhỏ, tròn lẳn, nước da ngăm đen như Trịnh Công Sơn, thường
đánh tóc rối thành một búi lớn ngược ra sau đỉnh đầu. Mang guốc cao gót, nhọn,
hiệu Đakao, đi chân sáo. Đứng xa nhìn Bích Khê đi trông giống như con sáo nhỏ
đang ngảy nhót trong sân. Cái búi tóc nhảy tưng tưng theo nhịp bước, người ta
có cảm tưởng có lúc nó sẽ kéo người chủ nó té ngửa ra sau. Bích Khê không đẹp
nhưng rất có duyên, quyến rũ. Bích Khê cũng ở trong ban hợp xướng. Người lĩnh
xướng là Nguyễn thị Ngọc Trinh... Tôi không biết rõ chuyện tình của Sơn và Khê
bằng ông Đinh Cường, mặc dù học chung hai năm với nhau. Bởi vì hầu như ngày nào
cũng có nhiều cô đến nhà trọ của Sơn. Sau khi bản Biển nhớ được sáng tác và tập
dượt để ra mắt buổi văn nghệ thì giáo sinh sư phạm mới lưu ý tới Bích Khê và
bàn tán, vì tình cờ hay cố ý, Sơn đã viết "trời cao níu bước sơn khê"
trong lời nhạc. Về sau, 1970, tôi được thuyên chuyển về Nha Trang, gặp lại Bích
Khê nay đã yên bề gia thất, chồng nàng tên Chương, thợ sửa máy lạnh, có cửa
hàng mua, bán - sửa chữa tại đường Quang Trung, đối diện với hiệu ảnh Photo Vỹ.
Sau 1975, hai vợ chồng trở nên giàu có hơn xưa. ở Blao tôi có hỏi Sơn về sự
liên quan giữa nhạc và người. Sơn nói chỉ là bạn như những người bạn khác. Chữ
sơn khê chỉ là tình cờ.
Nhìn những mùa thu đi
Bản "Nhìn những mùa Thu đi” cũng trong trường hợp tương
tự. Trong lớp tôi đã có ba cô Thu rồi. Các lớp khác cũng hai hay ba Thu, nên
không biết Thu nào đã đến với Sơn hay Sơn đã yêu Thu nào. Mỗi khi có cô Thu nào
đi ngang, bọn chúng tôi hát ghẹo "Nhìn những lần thu đi, anh nghe hồn anh
đau đớn...”. Mãn khóa, chia tay. Không ai có thì giờ để ý đến chuyện của ai.
Chăm chú, hồi hộp đợi danh sách bổ nhiệm, xem cuộc đời đưa đẩy số phận mình đến
phương trời nào.
Ca khúc da vàng
Sau vụ bị rao tìm trên đài phát thanh Đà lạt và bị quở trách
tại Ty, Sơn trở nên cần mẫn hơn, khuôn phép hơn. Sơn ít đi lại Sài Gòn - Đà
Lạt. Thỉnh thoảng có đi thì cũng về kịp sáng thứ hai để đi dạy. Trong thời gian
này Sơn nhận được rất nhiều thư. Phong nào cũng dày cộm. Sơn dạy buổi sáng, nên
người nhận thư là tôi. Nhìn con dấu bưu điện tôi biết thư được gửi đi từ Huế.
Đấy là thư bạn của Sơn... Từ lúc đọc những lá thư dày cộm đó, Sơn bỗng nhiên
thay đổi hẳn tâm tính. Lúc nào cũng có vẻ bồn chồn, lo lắng. ít đi lang thang
những buổi chiều nữa. Có lúc ngồi trước bàn, thẫn thờ, mắt đăm chiêu nhìn qua
cửa sổ hằng giờ, yên lặng với khói thuốc. Có khi điếu thuốc từ lúc châm đến lúc
tàn chỉ rít một hai hơi. Chiếc gạt tàn đầy ứ, tràn ra bên ngoài. Sơn mua khóa
về khóa chặt va li để cất những thư ấy. Có cái Sơn đem ra sân đốt ngay sau khi
đọc.
Sau đó, Sơn lại thường xuyên đi Đà Lạt hơn. Khi hai, khi ba
ngày Sơn kể tôi nghe về một trang trại ở Phim Nôm, gần Đức Trọng, một quận của
Tuyên Đức. Sơn ở đó với vài người bạn (Sơn không kể tên) bàn chuyện làm ăn. Có
lần Sơn rủ tôi làm chung, mỗi tháng lương là mười ngàn.
Hết hè, tôi vẫn còn luyến tiếc thời gian ba tháng trôi qua
quá mau. Trở lại căn phòng trên Bảo Lộc, tôi hết đổi ngạc nhiên, khi thấy Sơn
đã có mặt ở đây rồi. Căn phòng bừa bộn, bẩn thỉu. Toàn là tàn thuốc. Bao thuốc
Bastos xanh trống không xếp đầy chung quanh tường, cao gần tới đầu gối. Sơn nằm
dài trên đi văng, mùng vẫn buông, ám khói vàng khè. Dưới gầm bàn, giỏ rác đầy
ứ, toàn là giấy quay rô nê ô xỉn vàng, vo tròn, vất đầy mặt đất. Xác cà phê khô
đóng mốc xanh, trắng vương vãi chổ này một nhúm, chỗ kia một tụm. Tôi nhìn Sơn
ái ngại. Sơn xanh hẳn. Khuôn mặt hốc hác. Người đã ốm lại càng gầy thêm. Gầy
rạc. Bộ đồ pijama trở nên rộng thùng thình, đen xỉn, nhàu nát. Có lẽ ba tháng
nay không giặt! Nhưng nét mặt lại lộ vẻ vui. Vừa xếp dọn lại chỗ nằm của mình,
tôi vừa trò chuyện với Sơn. " Ông làm gì mà nằm ép rệp ở đây đến ba tháng
lận? Không buồn à?". Sơn phấn khích chìa tập nhạc ra khoe với tôi :
"Công trình ba tháng đó”. Tôi cầm xấp bản thảo liếc qua trang đầu có nhan
đề “Ca khúc da vàng", lật thêm mấy tờ bên dưới lại thấy những tựa rất lạ:
Gia tài của mẹ, Đàn bò vào thành phố, Người già em bé, Người con gái Việt Nam
da vàng v.v... với những lời ca lạ lẫm, khác hẳn những lời trong tình ca đến
180 độ. Tôi ngờ vực có một cái gì đó đã thay đổi con người của Sơn nhưng chưa
xác định được rõ ràng nó là cái gì.
Tối đó Sơn hát cho tôi nghe một vài bài tiêu biểu trong tập
"Ca khúc da vàng". Đến những đoạn như “gia tài của Mẹ, một bọn lai
căng. Gia tài của Mẹ, một lũ bội tình" hay như "đại bác đêm đêm dội
về thành phố, người phu quét đường dừng chổi lắng nghe" hoặc như "tôi
có người yêu chết trận đêm qua, chết thật tình cờ", tôi bỗng nổi da gà.
Lời ca thật xúc động, nó xoáy sâu
vào tim người nghe rồi chuyền lên óc làm cho rúng động tâm can, tỏa lan
dần khắp cơ thể làm cho bải hoải tứ chi.
Dần dà trong bọn chúng tôi ai ai cũng biết Sơn vừa sáng tác
một tập nhạc mới. Lại chia làm hai phe. Lúc đó đâu đã có từ “phản chiến” để chỉ
loại nhạc này. Chúng tôi ngâm nga hát mỗi bài vài ba câu. Phe thích thì cứ
"Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây,hai mươi năm nội
chiến từng ngày", ca cẩm suốt ngày. Phe chê thì bảo " Xì...nhạc Việt
cộng, cha nội Sơn theo Việt cộng rồi". Tuy nhiên, sau đó lại quên lãng đi.
Chúng tôi lại vẫn bù khú bi da, cà phê, xập xám, vui vẻ ồn ào như xưa.
Thời gian sau, Sơn rất bận rộn. Đi đi, về về Sài Gòn - Đà
Lạt liên tục. Thường xuyên bỏ trường hơn trước, nhưng thời gian không lâu. Có
khi hai, có khi ba ngày. Ông già Thống từ ngày được ông trưởng giáo hào phóng
cho 100 điểm, há miệng mắc quai, không còn biết than thở với ai, đành ngậm bồ
hòn làm ngọt. Sơn cho tôi biết là đang chuẩn bị in tập "Ca khúc da
vàng" và hé cho tôi biết thêm là giới sinh viên thích lắm, họ đang yêu cầu
có những buổi hát ngoài trời gọi là "du ca". Và Sơn cũng nói đến một
vài cái tên sinh viên ... sẵn sàng giúp Sơn thực hiện những buổi trình diễn ấy.
Những điều Sơn kể cùng những cái tên xa lạ không ăn nhập gì với đời sống đang
tươi đẹp của tôi, nên từ tai này qua tai kia, chốc lát tôi quên hết. Khi Sơn
đi, tôi còn khối bạn bè để vui chơi. Nào Tín, nào Đạo, Bạch, Lãng, Tâm mập, Tâm
lùn, Hinh, Sang, Thao, Hiện, Rầm, Nhượng ...Tuần này xuống Tân Hà, đến nhà ông
hiệu trưởng Ngọc, hạ cờ tây. Tuần sau kéo nhau vào ấp Lam Sơn, hai bên đường
vào ấp, trồng toàn hoa đào, nên còn có cái tên thơ mộng là Đào Hoa thôn, đến
nhà ông Tề ngắm phong lan. Lại có lúc, cùng các cô, chúng tôi dạo suối Đại
Bình, cách Blao chừng vài cây số. Cứ thế tuổi trẻ của tôi,ngoài việc dạy dỗ các
học sinh, đã trải qua những ngày tháng tươi vui, đáng sống ở cái quận lÿ bé nhỏ,
mà mới ngày nào tôi gặp Sơn ở bến xe một buổi chiều cuối tuần đìu hiu có mưa rã
rích,buồn thúi ruột.
CHIA TAY
Hè 1967, chúng tôi đang mỗi người một nơi nghỉ hè, bỗng đồng
loạt nhận được điện khẩn của Ty, nhắn lên gấp để nhận lệnh nhập ngũ. Phía dưới
còn bị chú hàng chữ : Nếu trình diện trễ hạn sẽ bị đưa ra trường hạ sĩ quan
Đồng Đế. Thế là chúng tôi không hẹn mà gặp nhau một ngày tại Ty. Tay trái nhận
lệnh Tổng động viên, tay phải nhận phong bì ứng trước một tháng lương để có
tiền ăn đi đường, lên đường nhập ngũ. Không thấy Sơn đâu. Hỏi anh Thành phát
ngân viên, anh cho biết Sơn đến hôm qua lãnh lương đi rôì. Tối hôm đó chúng tôi
gồm: Đạo, Hinh, Sang, Nghị, Nhượng, Bạch, Tâm lùn, Ngọc (Lãng sốt rét, Thao què
giò được miễn) và tôi, uống một bữa thật say. Ai cũng ví mình là Kinh Kha đang
ở bên bờ sông Dịch một đi không trở lại. Chỉ tiếc không có ai là Cao Tiệm Ly thổi
đưa khúc sáo lên đường. Chúng tôi đang lúc ngà ngà, ôm nhau hát bài "Những
ngày xưa thân ái" của Phạm thế Mỹ, cứ lập đi, lặp lại điệp khúc “Chỉ còn
tay súng nhỏ, giữa rừng sâu giết thù, những ngày xưa thân ái xin gửi lại cho
nhau" rồi cùng nhau khóc, khóc như trẻ thơ, khóc tự nhiên không một chút
xấu hổ. Sáng hôm sau tỉnh dậy chỉ còn lại vài mạng, say quá chưa tỉnh nổi, còn
bao nhiêu thì đã đi rồi. Tôi ra bến xe, nhìn lại quang cảnh, vẫn y như cũ,
không có gì thay đổi, nhưng hôm nay sao thấy buồn quá đỗi. Cái gì cũng có vẻ xa
vắng, bơ thờ. Khi xe chạy ngang bờ hồ, tôi thì thầm "Giả từ Bảo Lộc mến
yêu, biết bao giờ gặp lại nhau!". Xe khuất dần, tôi cố ngoái lại lần chót
, chỉ còn thấy ngọn cây khô chết giữa hồ. Nước mắt tôi lại ứa ra.
Nguyễn Thanh Ty
2014/10/07
VỀ
Về thôi, ta ơi !
Trời đã chiều rồi, ngày lên men tím
Sao ta còn đứng bên bờ hoàng hôn
lòng ngẩn ngơ say
Ham chơi cho mấy cũng một đời !
Ta về ngồi bên vách đá
Nghe vó thời gian trong tiếng nước reo
Câu, chữ bao giờ hóa thạch,
Hồn cốt về đâu trong cõi nhân gian ?
Về thôi, ta ơi !
Bước xuống yên nào, cho bầy ngựa tung bờm qua sông
Cất tiếng hí vang,
Thức dậy một mùa cỏ úa.
Bao năm em chèo con thuyền góa bụa
trên dòng thanh xuân
Lấm tấm thời gian
rụng xuống bờ vai bạc.
Ta đưa tay hứng giọt nắng vàng
Thời gian lóng lánh chảy tràn ban mai.
Ta về đi thôi,
Về đi
Như lá rụng hiên nhà.
Văn Triều
ĐỐI DIỆN VỚI CÁI CHẾT VÀ CHẾT
AN LÀNH
Đối diện với cái chết
trong một trạng thái an bình là một vấn đề khó. Theo ý nghĩa thông thường,
dường như có hai cung cách để đối phó với rắc rối và khổ đau. Thứ nhất, đơn
giản là cố gắng tránh rắc rối, đặt nó ngoài tâm thức chúng ta, mặc dù thực tế
vấn đề vẫn ở đấy và không giảm thiểu. Một cung cách khác để đối phó với vấn đề
này là nhìn một cách trực tiếp vào rắc rối và phân tích nó, làm cho nó quen
thuộc với chúng ta và làm cho rõ ràng rằng nó là một phần trong đời sống của
tất cả chúng ta.
Tôi đã đề cập đến chủ đề thân thể và bệnh tật. Bệnh tật xảy
ra. Đấy không phải là điều gì đấy ngoại lệ; đấy là một phần của tự nhiên và sự
thực của đời sống. Nó xảy ra vì thân thể ở đấy. Dĩ nhiên chúng ta có quyền để
tránh bệnh tật và đớn đau, nhưng thay cho những nổ lực ấy, khi bệnh tật xảy ra,
tốt hơn là chấp nhận nó. Trong khi chúng ta nên làm mọi nổ lực để chửa trị một
cách nhanh chóng như có thể, chúng ta không nên có thêm những sự đè nặng tinh
thần. Như đại hành giả Ấn Độ, Tịch Thiên đã nói: “Nếu có một phương cách để
vượt thắng khổ đau, thế thì không cần phải lo lắng; nếu không có cách nào để
chiến thắng đớn đau thế thì lo lắng không ích gì.” Loại thái độ hợp lý ấy là
lợi ích vô cùng.
Bây giờ tôi muốn nói về cái chết. Chết là một phần của đời
sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay
vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó. Trên tin
tức, chúng ta thường thấy những vụ ám sát và chết chóc, nhưng một số người
dường như nghĩ rằng cái chết chỉ xảy ra cho những người khác, không phải cho
chính họ. Loại thái độ như thế là sai lầm. Tất cả chúng ta có cùng thân thể,
cùng da thịt con người, và vì thế chúng ta sẽ chết. Dĩ nhiên, có một sự khác
biệt lớn giữa cái chết tự nhiên và cái chết do tai nạn, nhưng một cách căn bản
cái chết sẽ đến chẳng chóng thì chầy. Nếu ngay từ đầu thái độ của chúng ta là,
“Vâng, cái chết là một bộ phận của đời sống chúng ta,” sau đó có thể dễ dàng
hơn để đối diện. Vì thế có hai loại tiếp cận khác nhau để đối diện với một vấn
đề. Một là chỉ đơn giản né tránh nó bằng việc không nghĩ về nó. Thứ khác hiệu
quả hơn là đối diện một cách trực tiếp vì thế chúng ta đã ý thức về nó. Một
cách tổng quát, có hai loại rắc rối hay khổ đau: với một loại, có thể là bằng
việc tiếp nhận một loại thái độ nào đấy, người ta sẽ có thể thật sự giảm thiểu
sức mạnh và mức độ của khổ đau và băn khoăn. Tuy nhiên, có thể có những loại
rắc rối và khổ đau khác, những loại mà tiếp nhận một loại thái độ nào đấy và
một cung cách suy nghĩ có thể không nhất thiết giảm thiểu mức độ của khổ đau,
nhưng điều ấy vẫn chuẩn bị cho chúng ta đối diện với chúng.
Khi những điều bất hạnh xảy ra trong cuộc đời chúng ta có
hai kết quả có thể. Một khả năng là tinh thần bất ổn, băn khoăn, sợ hải, nghi
ngờ, chán nản, và cuối cùng suy nhược, và, trong trường hợp tệ hại nhất, ngay
cả tự tử. Đó là một cách. Một khả năng khác, là do bởi kinh nghiệm thảm họa,
chúng ta trở nên thực tiển hơn, chúng ta trở nên gần với thực tế hơn. Với năng
lực của khảo sát, kinh nghiệm bi thương có thể làm chúng ta mạnh mẽ hơn và gia
tăng sự tự tin và tự quả quyết. Sự kiện bất hạnh có thể là nguồn gốc của sức
mạnh nội tại.
Sự thành công của cuộc đời và tương lai của chúng ta, như
tôi đã từng nói, tùy thuộc trên động cơ và quyết tâm hay lòng tự tin cá nhân
của chúng ta. Qua những kinh nghiệm khó khăn, đời sống đôi khi trở nên đầy đủ ý
nghĩa hơn. Nếu chúng ta nhìn vào những người từ lúc bắt đầu cuộc sống của họ,
đã có mọi thứ, chúng ta có thể thấy rằng khi những sự việc nhỏ bé xảy ra, họ đã
mau mắn đánh mất hy vọng hay tức tối. Những người khác, như thế hệ những người
ở Anh Quốc, trải qua Thế Chiến Thứ Hai, đã phát triển những thái độ tinh thần
mạnh mẽ hơn như một kết quả từ những khó khăn của họ. Tôi nghĩ, người đã có
nhiều những kinh nghiệm khốn khó có thể đứng trụ vững vàng hơn trong khuôn mặt
của những rắc rối hơn là những người chưa bao giờ trải nghiệm khổ đau. Từ góc
cạnh này, thế thì, một khó khăn nào đấy có thể là một bài học tốt cho cuộc đời
của chúng ta.
Bây giờ có phải thái độ này chỉ là một cách để lừa gạt chính
mình? Một cách cá nhân, tôi đã đánh mất quê hương và tệ hại hơn nữa, trong quê
hương tôi có nhiều sự tàn phá, khổ đau, và bất hạnh. Tôi đã dành không chỉ phần
lớn đời sống của tôi mà cũng là phần quan trọng nhất cuộc sống của tôi bên
ngoài Tây Tạng. Nếu quý vị nghĩ về điều này từ góc cạnh đó mà thôi, hiếm mà có
điều gì là tích cực. Nhưng từ một khía cạnh khác, chúng ta có thể thấy rằng do
bởi những bất hạnh này, tôi đã có một loại tự do khác, chẳng hạn như cơ hội để
gặp gở những người khác nhau từ những truyền thống khác nhau, và cũng gặp gở
những nhà khoa học từ những lĩnh vực khác nhau. Từ những kinh nghiệm đó, đời
sống của tôi đã được làm phong phú thêm rất nhiều và tôi đã học nhiều thứ đáng
giá khác. Do vậy những kinh nghiệm bi thương của tôi cũng có những khía cạnh
giá trị.
Nhìn vào những vấn nạn từ những khía cạnh khác nhau thật sự
làm nhỏ đi những gánh nặng tinh thần hay những sự thất vọng. Theo quan điểm của
nhà Phật, mọi sự kiện có thể được thấy từ nhiều, rất nhiều khía cạnh khác nhau.
Rất hiếm hay không thể có một sự kiện có thể là tiêu cực từ tất cả mọi quan
điểm. Do thế, thật hữu ích khi điều gì đấy xảy ra để cố gắng nhìn nó từ những
khía cạnh khác nhau và rồi chúng ta có thể thấy những khía cạnh tích cực hay
hữu ích. Hơn thế nữa, nếu điều gì đấy xảy ra, rất lợi ích để thực hiện một sự
so sánh ngay lập tức với một sự kiện nào khác hay với những sự kiện của người
khác hay quốc gia khác. Điều này cũng rất lợi lạc trong việc duy trì sự hòa
bình trong tâm hồn của chúng ta.
Bây giờ tôi sẽ giải thích, như một thầy tu Đạo Phật, đối phó
với cái chết như thế nào? Đức Phật đã dạy những nguyên tắc về Bốn Chân Lý Cao
Quý, đầu tiên là Sự thật về Khổ đau. Sự thật về Khổ đau được dạy trong phạm vi
của ba đặc trưng tồn tại, thứ nhất là vô thường. Khi nói về bản chất của vô
thường, chúng ta phải hiểu trong tâm rằng có hai trình độ. Một là trình độ thô,
khá rõ ràng và là sự chấm dứt việc tiếp tục một đời sống hay một sự kiện. Nhưng
bản chất vô thường được dạy trong sự liên hệ với Bốn Chân Lý Cao Quý liên quan
đến những khía cạnh vi tế hơn của vô thường, bản chất nhất thời của sự tồn tại.
Giáo huấn của Đức Phật về những khía cạnh vi tế hơn về bản
chất vô thường của sự luân hồi hướng đến việc thiết lập một sự đánh giá về bản
chất bất toại tự nhiên trong sự hiện hữu của chúng ta. Nếu chúng ta thông hiểu
bản chất của vô thường một cách đúng đắn, chúng ta sẽ thấu hiểu là nó bộc lộ
rằng bất cứ sự tồn tại nào được sản sinh một cách ngẫu nhiên, đấy là, những thứ
hình thành như một kết quả của nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên), hoàn toàn
tùy thuộc trên nguyên nhân và điều kiện cho sự tồn tại của chúng.
Không chỉ thế, mà ngay chính nguyên nhân và điều kiện sản
xuất ra chúng cũng mang đến sự tan rả và chấm dứt của chính những thực thể đó.
Do vậy, trong những hạt giống nguyên nhân của những sự kiện là hạt giống của sự
chấm dứt và tan rả của chúng. Khi điều này được liên hệ đến sự thấu hiểu về bản
chất vô thường của những tập họp uẩn, thân thể và tâm thức, thế thì ở đây,
nguyên nhân liên quan đến thể trạng si mê của tâm thức, mà đấy chính là gốc rể
của sự tồn tại, và điều này biểu lộ rằng chính sự tồn tại vật lý của chúng ta,
sự tồn tại thân thể của chúng ta, là bị khống chế rất nhiều bởi thể trạng si mê
của tâm thức.
Nhưng đấy là bởi sự phản chiếu thứ nhất trên những trình độ
thô thiển của vô thường mà người ta cuối cùng đưa đến một sự đánh giá về những
thể trạng vi tế của vô thường. Và bằng điều này, người ta sẽ có thể đối diện và
chinh phục sự chấp trước về tính thường còn hay sự hiện hữu ngoại tại của đặc
tính chính mình hay tự ngã, bởi vì sự chấp trước này vào tính thường còn đã
thúc đẩy chúng ta bám víu vào chính “đặc tính hiện tại” hay những vấn đề của cả
cuộc đời riêng ta mà thôi. Bằng việc giải tỏa sự kìm kẹp của chấp trước dai
dẳng trong chúng ta, chúng ta sẽ ở trong một vị thế tốt đẹp hơn để nhận thức
những giá trị của việc làm vì những đời sống tương lai của chúng ta.
Một trong những lý do tại sao mà tỉnh thức về cái chết và vô
thường là rất thiết yếu trong sự thực hành của nhà Phật là việc quan tâm đến
thể trạng tâm thức của chúng ta tại thời điểm lâm chung có một hệ quả rất lớn
trong việc quyết định hình thức nào của tái sinh mà chúng ta có thể sẽ tiếp
nhận. Cho dù nó là một thể trạng tích cực hay tiêu cực của tâm thức, người ta
sẽ có một tác động to lớn. Do vậy, sự thực hành của Đạo Phật nhấn mạnh tầm quan
trọng vô cùng của sự tỉnh giác về cái chết và vô thường.
Mặc dù mục tiêu chính của một cấp bậc tỉnh giác cao độ về vô
thường để rèn luyện chính mình vì thế vào thời điểm lâm chung người ta sẽ ở
trong một thể trạng tâm linh đạo đức và tích cực, và sẽ bảo đảm cho một sự tái
sinh tích cực, cũng có những lợi ích khác. Một trong những tác động phụ tích
cực của việc duy trì một cấp bậc tỉnh thức cao độ về cái chết là nó sẽ chuẩn bị
cho chúng ta đến một mức độ tối đa như thế, khi người ta thật sự đối diện với
cái chết, người ta sẽ ở trong một vị thế tốt hơn để duy trì sự hiện diện tâm
thức của người ấy. Đặc biệt trong mật tông tantra, hành giả quan tâm rằng thể
trạng tâm linh mà người ta trải qua tại thời điểm lâm chung là cực kỳ vi tế, do
bởi trình độ vi tế của thần thức, nó cũng có một năng lực to lớn và tác động
trên sự tương tục tinh thần của hành giả. Do vậy trong sự thực hành mật tông,
chúng ta thấy có nhiều nhấn mạnh đặt trong những thiền quán liên hệ cái chết và
cũng như cá nhân tại thời điểm lâm chung không chỉ duy trì sự hiện diện tâm thức
của người ấy, mà cũng là ở trong vị thế để sử dụng thể trạng vi tế ấy của thần
thức một cách hiệu quả đối với việc nhận ra con đường [thực chứng con đường tu
tập].
Đấy là bởi điều này, chúng ta thấy nhiều thiền quán mật
tông, một cách kỷ thuật được biết như “thiền quán bổn tôn du già ” bởi vì chúng
là những thiền quán về những bổn tôn, liên hệ đến tiến trình hòa tan, phản
chiếu trên sự hòa tan của những yếu tố mà hành giả trải nghiệm vào thời điểm
lâm chung. Trong thực tế, theo quan điểm mật tông, toàn bộ tiến trình của tồn
tại [luân hồi] được giải thích trong dạng thức của ba giai tầng được biết như
“chết”, “trung ấm thân”, và “tái sinh”. Tất cả ba giai tầng tồn tại này được
thấy như những thể trạng hay biểu hiện của thần thức và những năng lượng phối
hợp hay đẩy thần thức tới, vì thế thể trạng trung ấm và tái sinh không gì khác
hơn là những cấp độ đa dạng của thần thức và năng lượng vi tế. Một thí dụ của
những thể trạng dao động có thể được thấy trong sự hiện hữu hằng ngày của chúng
ta, khi mà suốt hai mươi bốn giờ một ngày chúng ta đi qua một chu kỳ của ngủ
sâu, thời gian thức giấc và tình trạng mơ ngủ. Sự tồn tại hằng ngày của chúng
ta trong thực tế được đặc trưng bởi ba giai tầng này.
Khi nói về những sự phân biệt được thực hiện trong mật điển
Tantra giữa những trình độ vi tế và thô thiển của thức và tâm, tôi nghĩ điều
quan trọng để giữ trong tâm những gì chúng tôi muốn nói qua “thức tinh thần”
một cách chính xác. Thông thường người ta có ấn tượng rằng khi chúng ta nói về
‘thức tinh thần thứ sáu ‘ có một loại nào đó của loại thức tự trị mà nó hoàn
toàn độc lập với thể trạng của thân thể và trong một cách nó là thứ tương đương
với linh hồn. Nhưng đây là một sự thấu hiểu sai lầm. Cá nhân tôi nghĩ rằng nếu
thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta sẽ thấy rằng hầu hết các thể
trạng tinh thần và chức năng tinh thần của chúng ta có những yếu tố vật lý
tương liên trực tiếp. Không chỉ những ‘thức cảm giác ‘, mà cũng nhiều những gì
chúng ta gọi là thức tinh thần có những căn bản sinh học và là liên kết một cách
mật thiết với những tình trạng của thân thể, giống như những nhà khoa học nói
rằng não bộ và hệ thống thần kinh là những căn bản sinh học chính yếu của nhiều
kinh nghiệm ý thức của chúng ta. Do thế, khi những tình trạng thân thể ngừng
lại, những chức năng tinh thần này cũng chấm dứt.
Nhưng câu hỏi thật sự là: điều gì làm cho nó có thể cho
những căn bản vật lý hay những tình trạng sinh học cho phát sinh một sự kiện
tinh thần của tỉnh thức? Phật Giáo đặc biệt là mật tông tantric , sự giảng giải
hướng tới những gì được biết như là thể trạng Linh Quang vi tế, là điểu có thể
được xem như độc lập với căn bản sinh học. Và chính thể trạng Linh Quang này
của tâm là trình độ vi tế nhất của thức là điều khi nó tương tác với căn bản
sinh học sẽ cho phát sinh tất cả ý thức và những sự kiện nhận thức của chúng ta.
Có những biểu hiện nào đấy của sự tồn tại về những gì được
gọi là thể trạng Linh Quang của tâm. Có những dấu hiệu mà thông thường có
khuynh hướng có khả năng hơn cho những hành giả tôn giáo. Thí dụ, trong cộng
đồng Tây Tạng lưu vong, có những trường hợp khi người ta được tuyên bố là chết
lâm sàng, đó là, chức năng của não bộ đã ngừng và não bộ đã chết nhưng sự phân
hủy chưa bắt đầu, và họ duy trì trong tình trạng ấy nhiều ngày cho đến khi kết
thúc. Thí dụ, ngài giáo thọ quá cố của chính tôi, Kyabje Ling Rinpoche, đã duy
trì trong tình trạng đó đến 13 ngày. Ngài được tuyên bố là chết lâm sàng và đã
trải qua sự chết của não bộ, nhưng thân thể của ngài tiếp tục duy trì tươi
nhuận và không phân hủy trong 13 ngày.
Bây giờ phải có một sự giải thích nào đấy cho điều này. Sự
giải thích của Đạo Phật là trong tình trạng ấy, cá nhân chưa thật sự chết mà
đúng hơn là trong tiến trình của cái chết. Phật Giáo sẽ giải thích rằng mặc dù
mối quan hệ thân-tâm có thể đã ngừng dứt hiển nhiên, ở trình độ thô, nhưng nó
chưa chấm dứt ở cấp độ vi tế. Theo mật điển đặc biệt được biết như Bí Mật Tập
Hội (Guhyasamaja Tantra), khi một con người đi qua tiến trình của cái chết, có
một giai đoạn nào đó của hòa tan. Từ sự tan biến đó vào trong thể trạng Linh
Quang có một chu trình đảo ngược và khi chu trình đó đạt đến một giai tầng nào
đấy, một đời sống mới bắt đầu được gọi là tái sinh. Sau đó sự tái sinh duy trì
và con người một lần nữa đi qua một tiến trình của hòa tan. Có thể nói rằng,
chết ở giai tầng trung gian khi những yếu tố tan biến vào trong Linh Quang và
từ đấy tái sinh khởi vào trong một hình sắc mới. Vì vậy, chết không gì khác hơn
những điểm trung gian này khi những yếu tố sinh học đa dạng của con người hòa
tan vào trong điểm Linh Quang.
Khi quan tâm đến tiến trình tan biến thật sự của những yếu
tố đa dạng, mật điển đề cập những giai tầng khác nhau của hòa tan và những dấu
hiệu phối hợp với chúng. Thí dụ, trong trường hợp hòa tan của những cấp độ thô
hơn của những yếu tố, có cả hai dấu hiệu nội tại và ngoại tại và những biểu
hiện đánh dấu sự hòa tan. Khi đi đến những yếu tố vi tế, chỉ có những dấu hiệu
nội tại chẳng hạn như ảo ảnh,v.v…
Đã có một sự quan tâm lớn mạnh trong những nhà khoa học, những người đang thực hiện những nghiên cứu về cái chết, đặc biệt những dấu hiệu nội tại và ngoại tại. Như một Phật tử, tôi nghĩ thật rất quan trọng cho chúng ta để cảnh giác về những khảo sát của những nhà khoa học đang làm. Tuy nhiên, chúng ta phải có thể phân biệt giữa những hiện tượng vẫn tiếp tục vượt khỏi những phương pháp phân tích khoa học hiện hữu và những hiện tượng có thể thấy như bị bác bỏ bởi những phương pháp và sự khảo sát của khoa học hiện hữu. Tôi nói rằng nếu những hiện tượng nào đấy có thể thấy như bị chứng tỏ là sai bởi khoa học qua sự khảo sát khoa học và phương pháp khoa học, tôi nghĩ như những Phật tử chúng tôi phải quan tâm tôn trọng những kết luận này.
Đã có một sự quan tâm lớn mạnh trong những nhà khoa học, những người đang thực hiện những nghiên cứu về cái chết, đặc biệt những dấu hiệu nội tại và ngoại tại. Như một Phật tử, tôi nghĩ thật rất quan trọng cho chúng ta để cảnh giác về những khảo sát của những nhà khoa học đang làm. Tuy nhiên, chúng ta phải có thể phân biệt giữa những hiện tượng vẫn tiếp tục vượt khỏi những phương pháp phân tích khoa học hiện hữu và những hiện tượng có thể thấy như bị bác bỏ bởi những phương pháp và sự khảo sát của khoa học hiện hữu. Tôi nói rằng nếu những hiện tượng nào đấy có thể thấy như bị chứng tỏ là sai bởi khoa học qua sự khảo sát khoa học và phương pháp khoa học, tôi nghĩ như những Phật tử chúng tôi phải quan tâm tôn trọng những kết luận này.
Như cái chết trở nên điều gì đấy quen thuộc với chúng ta,
khi chúng ta có một tri thức nào đấy trong tiến trình của nó và có thể nhận ra
những biểu hiện nội tại và ngoại tại, chúng ta phải chuẩn bị cho nó. Theo kinh
nghiệm của riêng tôi, tôi vẫn không tin tưởng rằng tại thời điểm của cái chết
tôi sẽ thật sự áp dụng tất cả những sự thực tập này đối với những gì tôi đã
chuẩn bị. Tôi không bảo đảm! Tuy nhiên, thỉnh thoảng khi tôi nghĩ về cái chết,
tôi có một sự sôi nổi nào đấy. Thay vì sợ hãi, tôi có một cảm nhận về sự tò mò
và điều này làm nó dễ dàng hơn cho tôi chấp nhận cái chết. Tôi tự hỏi tôi có
thể áp dụng những sự thực tập này đến mức độ này. Dĩ nhiên, sự băn khoăn duy
nhất của tôi nếu tôi chết ngày hôm nay là, “Ô, những gì sẽ xảy ra ở Tây Tạng?
Nền văn hóa Tây Tạng sẽ ra sao? Thực trạng của sáu triệu người Tây Tạng sẽ ra
sao? Đây là sự quan tâm chính của tôi. Về mặt khác, tôi không cảm thấy sợ hãi
cái chết. Có lẽ, tôi có một loại tin tưởng mù quáng nào đấy! Vì thế, thật là
tốt lành để giảm thiểu sự sợ hãi cái chết. Trong sự thực tập cầu nguyện hằng
ngày, tôi quán tưởng mười tám bổn tôn du già khác nhau và mười tám cái chết khác
nhau. Có lẽ khi cái chết đến tất cả những sự chuẩn bị của tôi có thể thất bại.
Tôi hy vọng là không!
Thế nào đi nữa, tôi nghĩ rằng phương pháp đó rất hữu ích
tinh thần trong việc đối phó với cái chết. Ngay cả nếu không có đời sống tương
lai, cũng có một số lợi ích nào đấy nếu nó làm nhẹ bớt sự sợ hãi. Và bởi vì ít
sợ hãi hơn, người ta có thể chuẩn bị một cách đầy đủ. Giống như cho chiến trận,
không có chuẩn bị sẽ tạo cơ hội tốt cho thất bại, nhưng nếu chúng ta chuẩn bị
đầy đủ, thì sẽ có cơ hội phòng thủ. Nếu chúng ta chuẩn bị một cách trọn vẹn,
rồi thì tại giờ phút lâm chung, chúng ta vẫn có thể duy trì sự hòa bình của tâm
thức. Chính sự hòa bình của tâm vào thời điểm lâm chung là nền tảng cho việc
trau dồi một động cơ thích đáng và đấy là một sự bảo đảm tức thời cho một sự
tái sinh thánh thiện, của một đời sống tốt đẹp hơn sắp tới. Đặc biệt đối với
những hành giả của Đại tối thượng Mật thừa, chết là một trong những cơ hội hiếm
hoi để chuyển hóa tâm vi tế hành tuệ trí.
Như đến những gì trong kho tàng cho chúng ta sau khi chết,
Phật Giáo nói về ba cõi luân hồi, một cách kỷ thuật được biết như “vô sắc
giới”, “sắc giới”, và “dục giới”. Cả săc giới và dục giới có một tầng trung
gian trước khi người ta có sự tai sinh, được biết như “trung ấm thân”. Tất cả
những gì của điều này hướng tới là mặc dù sự kiện ‘chết’ cung cấp cho chúng ta
cơ hội tốt nhất để sử dụng cấp độ vi tế nhất của ý thức, chuyển hóa nó thành
một con đường của tuệ trí, ngay cả nếu chúng ta không thể tận dụng cơ hội ấy
một cách có hiệu quả, thì có một tầng trung ấm mà nó mặc dù thô thiển hơn thời
điểm lâm chung, cũng vi tế hơn nhiều thần thức lúc tái sinh. Do vậy, có một cơ
hội khác. Và ngay cả nếu chúng ta có thể nắm lấy cơ hội này, thì có một sự tái
sinh và một vòng luân hồi tiếp tục.
Vì thế nhằm để nắm lấy cơ hội kỳ diệu phù hợp tại thời điểm
lâm chung, sau đó, trong tầng trung ấm thân, chúng ta trước nhất cần tự rèn
luyện mình để có thể sử dụng những thời điểm ấy. Cho điều ấy, Đạo Phật đã dạy
những kỷ năng đa dạng để có thể cho phép chúng ta áp dụng những kỷ năng thiền
quán nào đấy trong mỗi giấc ngủ, giấc ngủ sâu, và những tình trạng tỉnh thức.
Kết luận, tôi nghĩ rằng tại thời điểm lâm chung, một tâm hòa
bĩnh tĩnh lặng là thiết yếu bất kể chúng ta tin tưởng trong điều gì, cho dù là
Đạo Phật hay tôn giáo nào đấy. Tại thời điểm lâm chung, con người không nên tìm
kiếm sự giận dữ, thù hận, v.v… Điều này là rất quan trọng ở trình độ thế đế của
tập quán trần gian. Tôi nghĩ ngay cả người vô tín ngưỡng cũng thấy rằng tốt hơn
là qua đời trong một tình trạng hòa bình tĩnh lặng. Như vậy thật là hạnh phúc
hơn. Cũng thế, đối với những ai tin tưởng thiên đàng hay những khái niệm khác,
tốt nhất cũng là giả biệt thế gian một cách yên bình với tư tưởng thượng đế của
họ hay tin tưởng trong những năng lực cao thượng. Đối với người Phật tử cũng
như những truyền thống cổ xưa của Ấn Độ thừa nhận sự tái sinh hay thuyết nhân
duyên nghiệp quả, tự nhiên trong thời điểm lâm chung, một thể trạng đạo đức của
tâm thức là lợi lạc vô cùng.
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Geshe Thupten Jinpa
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 17/08/2011
Facing Death and Dying Well trích trong the Art of Living
Ẩn Tâm Lộ ngày 23/08/2011
Ẩn Tâm Lộ ngày 23/08/2011
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)