2015/09/21

You Are So Beautiful
Joe Cocker
Biết Rằng

Biết rằng đôi ta hai ngả
Mong sao vẫn nhớ gọi tên
Đành rằng phương trời xa lạ
Trăm ngàn ký ức mau quên.

Anh bên đường khuya rét mướt
Em vui  mật ngọt xứ người
Anh về gom ung lá ướt
Khói buồn cao vút trùng khơi !

Mai sau nếu không gặp lại
Mong em nhớ giữ chút tình
Dù rằng cách xa mãi mãi
Mặn nồng vẫn đọng trong tim.

Mưa bay ngang trời viễn xứ
Nước về phủ trắng đồng xa
Lật từng dòng thư ngày cũ
Bới tìm kỷ niệm đơm hoa.

Thôi đành vâng theo định mệnh
Tháng ngày phai nhạt mùi hương
Hai ta không đi không đến
Làm sao vào cửa thiên đường ?!


Dương Hồng Thủy
Chiến Tranh Việt Nam Và Tôi
Tác giả: Nguyễn Bắc Sơn
Lòng suối cạn phơi một bầy đá cuội
Rừng giáp rừng gió thổi cỏ lông măng
Đoàn quân anh đi những bóng cọp vằn
Gân mắt đỏ lạnh như tiền sắc mặt
Bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất
Dừng chân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hãy tựa gốc cây hãy ngắm mây trời …
Hãy tưởng tượng mình đang đi picnic
Kẻ thù ta ơi các ngài du kích
Hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo
Hãy tránh xa ra ta xin tí điều
Lúc này đây ta không thèm đánh giặc
Thèm uống chai bia thèm châm điếu thuốc
Thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh
Kẻ thù ta ơi những đứa xâm mình
Ăn muối đá mà điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem cuộc chiến như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Suy nghĩ làm chi cho lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau
Mượn trời đất làm nơi đốt hỏa châu
Những cột khói giả rừng thiêng uốn khúc
Mang bom đạn chơi trò chơi pháo tết
Và máu xương làm phân bón rừng hoang

2015/09/18

*Giữ Nhịp Con Tim*

Trăng rằm lấp lánh dòng sông
Có vì sao rớt gợn vòng sáng mơ.
Bến nước 
thơ thẩn ngồi chờ
ý tình để viết câu thơ giải sầu.

Rời nhau 
em đã đi đâu
để anh thao thức canh thâu hãi hùng.
Ngập hồn ảo giác mông lung
Cạn đêm còn nỗi nhớ nhung quay về!

Ái tình ngụp lặn bến mê
Trống chùa 
vang dội tư bề sáng im
gọi kêu giữ nhịp con tim
ấm dòng máu thắm nuôi niềm yêu thương.

Anh Tú
September 18, 2015
*Họa vận bài Chiều Thu của Phú Thạnh.


*Vào Thu

Một hôm bổng bắt gặp trên con đường hằng ngày thả bộ có nhiều chiếc lá còn tí màu xanh lăn lốc dưới chân, thời tiết dịu hơn và bầu trời hình như thấp xuống. Cuối nhặt một chiếc lá màu đẹp nhất, lá rơi mà vẫn đẹp làm sao, nâng niu trong tay, ngắm nghía với những ý nghĩ lan man sinh diệt của vạn vật …


Biến đổi không ngừng, nhiều hay ít. Có những biến đổi li ti mắt mình không thấy ngay nhưng trải qua một thời hạn nhất định nào đó một sự vật ta thấy khác xưa. Xấu hơn, đẹp hơn là một sự đánh giá tương đối tùy thuộc từng người.
Kìa những hàng cây xanh lá bây giờ lác đác điểm xuyết sắc màu…


Mùa thu trở lại. Mùa thu buồn. Mùa thu lãng mạn nên thơ. Bốn mùa tôi thích hết, "ba phải" chăng? Cũng chẳng sao! Dỉ nhiên tôi …mê thu! Tôi thấy hao hức trong lòng, ham sống để mỗi năm còn được ngắm thu, cả xuân, hạ và đông.




So sánh đời người như tứ thời, nếu vậy thì tôi bước đến ngưởng cửa …chờ trở về cát bụi như vào thu để rồi đến đông giáp vòng tuần hoàn, sợ hải chăng? Không sợ ... vì sau đông là mùa xuân sẽ đến. Kiếp người là những chuyến viển du.
Và có những sự việc ngoài tầm quyết định của mình thì tại sao lo lắng? Cứ vui và sống tới.

Vào Thu

Khi phượng rụng tàn hết bông
Ve đà im tiếng nắng hồng nhạt phai
Mặt trời lặn sớm từng ngày
Lá chờ thu đến đổi thay sắc màu.

Vòng quay trời đất ngọt ngào
Nghe quanh có tiếng thì thào cỏ cây
Đôi khi mây xám tầng mây
Mưa thu rơi nhẹ ngất ngây cõi lòng.

Đồng hồ gỏ nhịp thong dong
Đời người trôi nổi theo dòng thời gian
Ngại chi sinh diệt lo toan
Ngoài tầm …hãy để bình an tâm hồn.

Đợi thu từng phút bồn chồn
Chờ từng chiếc lá màu … xôn xao lòng.
Ưu phiền trước nếm đã xong
Tuổi vàng vui …chớ bỏ công đất trời!

Anh Tú
September 17, 2015
CHIỀU THU*

Chiều thu mưa rớt trên sông
Trôi theo nỗi nhớ cuộn vòng giấc mơ
Chảy ra biển khổ đợi chờ
Lênh đênh sóng nước thành thơ u sầu

Chiều thu em ở nơi đâu
Sao nghe thanh vắng đêm thâu hãi hùng
Mơ màng ảo mộng mông lung
Phất phơ cành lá…gót nhung trở về ?

Giật mình bừng tỉnh cơn mê
Gió thu mang mát bốn bề lặng im
Ruột mềm máu chảy về tim
Mùa thu chan chứa nỗi niềm nhớ thương…

Phú Thạnh
16/9/2015 
*Một ngày mưa bão
Chút Tình

Bao năm rồi cách biệt,
tưởng chừng như rất xa,
thầy tôi tuổi cũng già,
nụ cười móm mém lạ.

Bọn chúng tôi xa nhà,
bạn bè dăm đứa ba,
không có ngày gặp lại,
buồn chợt nặng hai vai.

Thôi, vui hết hôm này,
thầy trò gặp nhau đây,
chuyện xưa, nay ngắn dài,
rượu còn xin cứ say.

Say cho hết u hoài,
ngày mai lại chia tay.
trên vạn nẻo đường dài,
chút tình ấm bàn tay.

Thủy Trang
18/9/2015


NGÀY XƯA ĐI HỌC

Đã chớm vào thu, lá chuyển màu
Mây trời bàng bạc, gió xôn xao
Nhớ bài văn cũ " Hàng năm cứ..."*
Ký ức nằm yên bỗng dậy trào.

Xưa xửa mà sao như mới vừa
Hôm qua cắp sách lội trong mưa
Môi thâm, rét lạnh, lon ton chạy
Kịp buổi khai trường, mặc gió mưa.

Ai cũng một thời đứng..."thứ ba"**
Quãng đời tươi đẹp đã trôi xa
Bạn xưa, thầy cũ, nay còn mất
Chợt thoáng thu về, nhớ chuyện qua!

Một vé quay về với tuổi thơ***
Cho tôi sống lại chuyện trong mơ
Ngoài kia dông bão, mưa quăng quật
Tôi với mùa thu cứ dại khờ.

Trần Văn Dõng

*Một đoạn văn ngày xưa từng học: “Hàng năm, cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc”
**Chỉ học trò do câu “Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”
***Theo tựa cuốn sách: "Cho xin một vé đi tuổi thơ " của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.


2015/09/16

*Mừng Mưa Tháng Chín*

Lâu lắm vườn em thiếu vắng mưa
Lá  hoa héo úa cỏ lưa thưa
Ngày mong đêm đợi trong mòn mõi
Hạn hán lâu rồi đã đủ chưa?

Mừng rỡ vô cùng buổi sáng nay
Ngỡ rằng trong giấc mộng mơ say
Tí tách rì rào trên mái ngói
Tháng chín mưa về hạnh phúc dày.

Say ngắm màn sương phủ khắp trời
Lắng lòng đón nhận giọt rơi rơi
Là quà ân sủng cho nhân thế
Ban phát chan hòa đến mọi nơi.

Anh Tú
September 15,2015

*Nhân đọc cảm nghĩ của Holly Tiền trên FB:

Tháng 9 trời mưa. .trời mưa đừng dứt. ..
Sáng nay chợt bừng tĩnh giấc vì nghe tiếng mưa rơi. Em cứ ngỡ mình còn mơ nên chạy vội đến bên cửa sổ để nhìn ra ngoài. .trời đang mưa !!...ôi hạnh phúc quá! !..từng hạt mưa từng hạt mưa rơi xuống trên mái nhà, trên ngọn cây, trên mặt đường nhựa khô khan đã ướt đẫm tự bao giờ. Em đứng thật lâu say mê nhìn ngắm, đã lâu lắm rồi không nghe được tiếng mưa rơi trong khung cảnh im lặng và êm đềm như thế. Trời vẫn chưa sáng hẳn, mọi vật vẫn còn chìm trong bóng tối với cơn mưa thật nhẹ nhàng và đều đặn. Em cảm thấy sung sướng hơn bao giờ hết, cảm xúc tràn đầy. .em rất yêu thích trời mưa nhưng lại ở một nơi hạn hán như LA thì thật là bất công cho em quá! !..cảm giác như thế có thể đến được bao nhiêu lần? ? nhưng dù sao em cũng rất cảm ơn và yêu thích cơn mưa êm đềm và bất ngờ nầy đã mang đến cho em nhiều cảm xúc và cảm giác thú vị. ..

2015/09/15

" Điệp Luyến Hoa"của Tô Đông Pha

Đây là một bài từ, không phải bài thơ. Bài từ nầy có tên là ” ĐIỆP LUYẾN HOA ” , nên phía sau tựa ĐIỆP LUYẾN HOA khỏi phải viết thêm chữ từ nữa.

花退殘紅青杏小,      Hoa thối tàn hồng thanh hạnh tiểu,
燕子飛時,               Yến tử phi thời,
綠水人家繞。            Lục thủy nhân gia nhiễu.
枝上柳棉吹又少,      Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu,
天涯何處無芳草。      Thiên nhai hà xứ vô phương thảo.
牆裡鞦韆牆外道,      Tường lý thu thiên tường ngoại đạo,
牆外行人,              Tường ngoại hành nhân,
牆裡佳人笑。           Tường lý giai nhân tiếu.
笑漸不聞聲漸悄,     Tiếu tiệm bất văn thanh tiệm tiểu,
多情卻被無情惱。     Đa tình khước bị vô tình não !


3. Điệp Luyến Hoa : LUYẾN là Luyến ái, là Yêu, nhưng ta không thể dịch là ” Bướm Yêu Hoa “ được, mà phải dịch  là ” BƯỚM VỜN HOA ” . Môt thể loại từ phát xuất từ đời Trung Đương và Thịnh hành ở Tàn đường. Đây là bài từ vừa tả cảnh vừa tả tình và đặc biệt là có những câu rất nổi tiếng và thịnh hành cho đến hiện nay, như những câu sau…
” Hoa thối tàn hồng, thanh hạnh tiểu ” : Hoa xuân đã tàn úa trong khi trái hạnh xanh còn nhỏ, cảnh giao mùa giữa cuối xuân đầu hạ, một kết thúc một bắt đầu. Hiện tượng tự nhiên thường thấy trong thi từ ca cổ, nhưng cũng gây cho người đọc cái ý nghĩ thương cảm trong cảnh xuân tàn.
” Yến tử phi thời, lục thủy nhân gia nhiễu ” : Khi chim én bay lượn trên những nóc gia có dòng nước xanh vây quanh. Hình ảnh chim én là biểu tượng còn xuân, chim én chỉ làm tổ ở những nơi có người ở, nên Nhân Gia và Dòng nước xanh ở đây là biểu tượng của đầm ấm hạnh phúc, của lạc quan trong cảnh xuân tàn với ” Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu “: Càng ngày trên cành những hoa liễu trắng xóa bay như tuyết rơi lại ngày càng it đi. Và đây là câu nổi tiềng nhất của bài từ :
” Thiên nhai hà xứ vô phương thảo ” .
( Chân trời góc bể ) Thiên hạ nơi nào mà chẳng có cỏ non. Câu nầy được nhân gian sử dụng rộng rãi để khuyên những thanh niên nam nữ thất tình : Nơi nào mà chả có cỏ non, bị người tình phụ bạc, biết đâu ta sẽ lại gặp được người tình khác tuyệt vời hơn !… và một câu nữa cũng rất nổi tiếng là câu kết của bài từ nầy :
” Đa tình khước bị vô tình não ” !
Người đa tình thường bị những người vô tình làm cho phiền não !. Giai nhân trong tường đánh đu, vui đùa một cách vô tư thoải mái, đâu biết rằng tiếng cười vui của mình đã vô tình làm cho kẻ đa tình đứng ngoài tường tương tư tự chuốc lấy phiền não cho riêng mình !
Sẽ viết riêng một bài nói về ” Cuộc đời Hôn nhân và Tình ái của Tô Đông Pha ” sau.

4. Diễn nôm :

BƯỚM VỜN HOA

Hoa tàn rả cánh, hạnh non cành,
Khi én lượn quanh,
Quê người nước chảy lòng thêm chạnh.
Dương liễu đầu cành gió cuốn nhanh,
Cỏ non xanh rợn chân trời xanh.
Kín cổng cao tường,
Ngoài tường kẻ qua đường,
Trong tường người đẹp,
Tiếng cười dòn tan dần dần khép.
Ngoài tường hành nhân ngỏ hẹp
Vô tình người đẹp trong tường
Đa tình thường bị vô tình vấn vương !

Lục bát :

Hoa xuân nay đã tàn hồng,
Trái xanh vừa nhú, én không lượn cành.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Lơ thơ tơ liễu trên cành nóc gia .
Cỏ non xanh ngát bao la,
Trong tường ngoài ngỏ la đà hai nơi.
Người đi xa tận chân trời,
Lòng còn vướng bận tiếng cười đông lân.
Tiếng đu tiếng nói nhỏ dần,
Vô tình làm chết người dưng bên ngoài .
Khéo đa tình khổ vì ai ?!

Đỗ Chiêu Đức

 15/09/2015 

2015/09/10

Quen Hơi*

“Chim quyên ăn trái nhản lòng
Lia thia quen chậu vợ chồng quen hơi”
Nhiều năm tình đầy không vơi
Bỗng dưng vĩnh biệt bời bời tâm cang!

Bình minh nắng đến ngỡ ngàng
Trưa trời đứng bóng, hỏi nàng nơi đâu?
Chiều rơi mây nhuộm màu sầu
Đêm cô đơn giũa thêm sâu vết buồn.

Công phu sáng: tiếng trống chuông
Vang vang cuối xóm len luồn đầu thôn
Chợt nghe thèm một nụ hôn
Chập chờn ảo giác bồn chồn hồn tôi!

Chim quyên bay mất lâu rồi
Mà sao còn mãi bồi hồi nhớ thương
Đã rơi vào lưới tình trường
Thoát ra không thể! Vấn vương suốt đời!

Anh Tú
September 10, 2015
*Tặng bạn ...vắng bóng hiền thê.

Họa 1:

Nghĩa Tình*

( Cảm họa từ QUEN HƠI của Anh Tú)

Người đi xa vắng não lòng
Đã hơn năm tháng vẫn còn nhớ hơi
Chìm trong tĩnh lặng chơi vơi
Cố quên nhưng mãi rối bời ruột gan!

Sáng ra ai chẳng ngó ngàn
Trưa nghe thanh vắng ngỡ nàng đi đâu!
Chiều buông ủ rủ đợi sầu
Đêm về thao thức canh thâu u buồn.

Đôi khi nhầm lẫn tiếng chuông
Tưởng rằng em gọi anh luôn mê hồn
Bình minh chí những hoàng hôn
Bơ vơ ngơ ngác dập dồn trong tôi

Người đi cũng đã xa rồi
Tình chồng nghĩa vợ ngút trời tiếc thương
Hắt hiu trong cõi vô thường
Mong em siêu thoát , anh vui cả đời!

Phú Thạnh
11/9/2015
*Để cám ơn bạn hiền

Họa 2:


Bên Đời Quạnh Hiu

Người xưa đau xé cõi lòng
"Xếp tàn y lại, mong còn chút hơi"
Đêm về chiếc bóng chơi vơi
Với tay, gối lạnh, bồi hồi ruột gan.

Đèn chong, bóng đổ, ngở ngàng
Phòng không, lẻ bạn, bóng nàng nơi đâu?
Xa nghe tiếng cuốc gọi sầu
Bên đời hiu quạnh, thêm sâu nổi buồn.

Chùa bên vẳng lại tiếng chuông
Như ru, như nhủ, xã buông tâm hồn
Cuối đời như thể hoàng hôn
Màn đêm phũ xuống, khơi buồn trong tôi.

Người đi, nay vĩnh biệt rồi
Rứt ray kẻ ở, một trời tiếc thương
Ngày xưa Phật nói vô thường
Mà sao vẫn thấy vấn vương suốt đời !


Trần Văn Dõng
Sept 11,2015

2015/09/05

Ngỡ Xa Mà Gần*

Xa anh ủ dột trăng ngà
Nhớ hoài hình bóng tưởng xa mà gần
Tâm tình chợt thấy ngại ngần
Thương người năm cũ tâm thần lơ ngơ.
Bâng khuâng gởi gấm câu thơ
Trao về bên ấy vu vơ lỗi thời:
Mong anh theo gió ngàn khơi
Hong tình ấm lại tuyệt vời dặm xa !

Dương hồng Thủy
September 5, 2015
*Họa vần Vời Vợi Xa của Anh Tú

2015/09/04

*LỚ NGỚ ĐÔI DÒNG


Cây viết trong tay bất động
Trên bàn tờ giấy bơ vơ
Đầu óc bỗng nhiên trống rỗng
Mông lung! Chán nản! Thẩn thờ!

Nhịp thở phập phồng còn đó
Bình yên sao được lòng trần
Thay đổi đen xanh trắng đỏ
Khó lòng gội rửa nhân thân!

Làm bộ vạch đường, rẽ nẻo
Nực cười điên đảo gian ngay
Tim nóng mà tình lạnh lẽo
Kinh đêm, ác khẩu vào ngày.

Phải trái ác hiền khó biết
Ta bà rối rắm khùng điên
Lớ ngớ đôi dòng chữ viết
Mong lòng tìm chút bình yên.

Anh Tú
September 4, 2015

2015/08/29

*Cành Mua Góc Vườn Quê*
Vì nước non rời nhà... bỏ xứ
C cành mua tím góc vườn quê
Nắm níu gia đình quay ngó lại
Nụ cười chàng hứa hẹn quay về.

Duyên số định ...đôi tim kết chặt
Thuở căm thù ngoại xâm dâng cao.
Chàng quyết hy sinh xua đuổi giặc
Nàng luôn chia sẽ những thương đau.

Chàng chiến trường xa, nàng ở lại
Nhọc nhằn nuôi trẻ lệ đôi hàng.
Ngưỡng mộ những tình yêu vĩ đại
Bài thơ này viết đón Vu Lan.

Anh Tú
August 29, 15
*Viết khi nhớ những người tôi kính yêu

2015/08/28

SÔNG*


Nhiếp ảnh: Trung Nguyễn
Trình bày: Út Bằng Lăng
*Hình ảnh của quê-hương Vĩnh Long mến yêu.

2015/08/26

Tự Dưng Tháng Bảy 

Tudungthangbay

(Cảm qua bài thơ Tháng Bảy Buồn & Mai Em Về của YDT)

Cánh cò bay vút lên không *
Trái tim đỏ thẫm trên đồng lúa thơm
Bếp chiều xao cọng chổi rơm
Khói tro than gợn theo bờm lửa reo

Ngồi kề tháng bảy mưa treo
Cỏ vương mùi đất, còn nheo mắt người!
Chuông không ai gióng, mà trôi…
Trút tình vào ngọn gió mồ côi xanh.

Em về, thăm lại vườn anh
Có nghe lá thở trên cành thu buông?
Trăm năm, một giấc mơ buồn…
Nhón chân là hái được vuông trời sầu.

Tự dưng mà ngẫu nhiên đâu
Cánh chim lạc giữa hôm nào. Hiện lên…
Ta tìm bóng mẹ, gặp em
Như em tìm mẹ bên thềm người xưa…

Phong Tâm
19.08.2015
*Thơ Huy Giao

2015/08/25

Lâm Bích Thủy: Đi Tìm BẾN MY LĂNG trong thơ YẾN LAN

PDF.InEmail

Không biết tự bao giờ cái không gian mơ, thực đầy tình người của một bến sông tên là Bến My Lăng đến và lắng lại trong tôi...? Phải chăng một sáng nọ, khi tôi học lớp 10, thấy ông anh họ hí hoáy vẻ trên sổ tay cái tựa của một bài thơ là Bến My Lăng. Chữ Bến My Lăng anh viết bằng bút máy Trường Sơn, nét chữ thanh mảnh, mực xanh mờ dần rất nghệ thuật. Xa xa anh vẻ vài bụi cỏ có hoa nở đỏ li ti lã lướt …tôi thấy thinh thích; nhưng không biết mình thích nỗi gì?! chỉ nói: “Anh viết đẹp nhỉ!” Anh cười và hỏi: “Em biết bài thơ này của ai không?”. "Không"- tôi trả lời gọn lỏn. Vì lúc ấy bạn ơi, tôi không quan tâm đến công việc của cha mình - nhà thơ Yến Lan - đâu. Rồi sau đó, tôi lại được nghe chị cùng cơ quan - người Huế kể: "Bài thơ của ba em, trước đây, ở Huế, có một họa sĩ rất mê, anh ta đã thể hiện hình ảnh về cái Bến My Lăng bằng bức tranh vô cùng nên thơ, và lãng mạn! Bức tranh ấy hiện có thể ở đâu đó trong nhà của một gia đình thuộc dòng dõi quan lại ở Huế".

nha-tho-yen-trang
Nhà thơ Yến Lan

Vậy, nó là cái bến nào ở quê - An Nhơn - Bình Định của tôi? Cái bến ấy có gì lạ mà khiến bao kẻ muốn tìm về chiêm ngưỡng, thưởng thức? Sự thưởng thức về cái bến ấy, mỗi người mỗi vẻ cảm nhận, suy luận tả ra thật tinh tế và đáng yêu:
Theo nhà thơ Thanh Thảo: “Bến My Lăng - hình như ở trong mơ, dưới ánh trăng bạc xám, ám ảnh trên Thành cổ Đồ Bàn. Có thể là một bến sông của một cô gái người Chàm, của một ông lái đò không tên, không tuổi, quên quá khứ, không nghĩ tới tương lai, ông lái đò của thời khắc hiện tại, của dòng sông trôi chảy. Bến My Lăng ở đâu? Có lẽ bến sông ấy chỉ có trong thơ Yến Lan, trong những tầng sâu nhớ quên của nhà thơ. Đừng giải thích, đừng định vị:
Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách    
Rượu hết rồi ông lái chẳng buông câu”.
Ở đời đủ giàu như Thạch Sùng, thì cũng không qua được cái trăm năm đong đưa, như đùa, như thật “Chỉ những câu thơ còn xanh”. Yến Lan mãi còn Bến My Lăng của ông, cái bến riêng của linh hồn ông, với tiếng gọi đò tha thiết, tiếng gọi đò như đến từ cõi khác, từ một đời sống khác: ”Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách / Gọi đò-thôi, run rẫy cả ngành trăng (Trích trong BĐNS -21  “Nhà thơ của một bến sông” - Thanh Thảo).
Còn Từ Quốc Hoài trong:  “Yến Lan - cốt cách một đời thơ” đã chắc chắn rằng: “Bến My Lăng là nỗi niềm khắc khoải về một quyền năng huyền nhiệm, khả dỉ mang lại hạnh phúc cho con người. Bến My Lăng giống như một giấc mơ. Một ông lão lái đò u buồn đợi khách trên một bến sông đầy trăng. Không có khách, ông thả hồn chơi vơi tận “bến trăng cao”, tự làm thanh bạch mình ở cái “bến trăng” trong tâm tưởng ấy. Chàng kỵ mã nhung y hào nhoáng, có vẻ một kiếm sĩ không phải là người khách mà ông lái đò mong đợi.
Ông lão vẫn say trăng đầu gối sách 
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng… 

Bài thơ khép lại một Bến My Lăng đầy trăng lạnh, và đã bao trăng ông lái buồn đợi khách. Bài thơ có sức ám ảnh. Ngôn ngữ thơ nhẹ bổng như được chiếu sáng lung linh bởi ánh trăng huyền ảo. Nhưng cái tình của bài thơ thì rất thật. Chính cái tình ấy đã neo Bến My Lăng vào lòng người ngay từ khi mới ra đời.”
Với Nhà nghiên cứu văn học hiện đại, Khổng Đức - bạn của cha tôi, đã viết: Nói đến thơ Yến Lan là hình như người người nghĩ ngay đến bài “Bến My Lăng”. Bài thơ được tác giả thực hiện vào thuở 16, 17 tuổi (khoảng năm 1933). Xưa Hoài Thanh đã phê là: “… có cái không khí lạ nhưng nhẹ nhàng dễ khiến người ta thích…”. Thật vậy, bài thơ có những đặc điểm: Ý thơ mới lạ không mô phỏng cổ nhân Đông Tây, nội dung là mô tả cảnh sông nước một đêm trăng, có một ông lái đò ngóng đợi khách sang sông, nhưng khi đợi thì không đến và khi khách đến thì người lái đò ngủ quên. Chữ, câu thơ vững chắc, hình ảnh tươi sáng… Nhưng thẩm thơ như thế chỉ là lướt qua hình thức và nội dung khác nào cởi ngựa xem hoa. Thưởng ngoạn thơ đúng nghĩa thì phải đào sâu hơn nữa, nghĩa là phải tìm hiểu do động cơ hay cảm hứng nào mà Yến Lan có bài thơ đó, muốn thế phải ngược thời gian đi vào thân phận cuộc đời trẻ thơ của anh vậy"…
Vậy kẻ hậu thế nghĩ thế nào khi đến với Bến My Lăng?
Đó là một tối, vô tình bấm chọn kênh thì tôi bỗng nghe MC Thanh Bạch đang nói tới bài thơ trên kênh HTV9 của chương trình Vầng trăng cổ nhạc. Anh dẫn khán giả đến với bài thơ bằng lời mở đầu: “Trong nền Văn học Việt Nam có rất nhiều bài thơ tả về trăng, nhưng bài thơ tả về trăng hay nhất là “Bến My Lăng” Và khi nói đến Bến My Lăng thì phải nói đến Yến Lan và nói đến Yến Lan thì phải nói về Bến My Lăng… 

Cảm nhận về “Bến My Lăng” còn nhiều lắm; nhưng với nội dung một bài báo, tôi không thể đưa hết vào được; có lẽ để các bạn tự tìm hiểu sẽ thú vị hơn.
Thế Bến ấy ở đâu nhỉ? Người ta nói rằng, nếu đi dọc hết các sông trên đất Bình Định cũng không thể tìm ra một địa danh nào có tên Bến My Lăng. Hình ảnh mờ ảo của cái Bến ấy chỉ có trên thi đàn mà người đời không thể quên mỗi khi nhắc đến Yến Lan - mà cha tôi đã sáng tạo ra cái bến sông phi thời gian, phi không gian này. Nó có thể là cái bến để đợi ai và ai đợi cũng không rõ nữa; nhưng người yêu thơ đã và sẽ bị ám ảnh bởi vẻ đẹp huyền diệu của một bến sông trong một đêm trăng vàng trên dòng sông Côn quê hương của nhà thơ, nó vào tâm thức con người như lá Diêu Bông trong thơ Hoàng Cầm.

Theo cha tôi - đó chính là bến đò Trường Thi của con sông Cửa Tiền, cách thị xã An Nhơn - Bình Định nơi nhà thơ sống khoảng mấy dặm đường. Con sông chảy trước mặt Cửa Tiền là sông Tân An một chi lưu của sông Côn đổ ra đầm Thị Nại. Bên kia sông là xã Nhơn Hòa, bên này là xã Nhơn Hưng,  thuộc huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Nhìn tổng thể, ta thấy bến đò Trường Thi đẹp mà buồn đến nao lòng, nhưng nó đã chảy vào lòng người như một niềm hoài niệm. Cái tựa Bến My Lăng, khiến bao người suy luận. Có người cho rằng, vì mê cô gái tên Lan (tức bà xã ông sau này) nên nhà thơ gọi chệch từ Mê Lan thành My Lăng. Nhưng với tôi, được cha kể vài nét sơ khai, thuần khiết sự ra đời của bài thơ rằng:

“Khi cha mới 6 tuổi, cuộc sống nghèo khó đã cướp đi sức lực và tuổi trẻ của bà nội tôi. Lúc đó, bà ốm nặng lắm, không ăn được gì ngoài bánh canh tôm. Chợ xa, phải qua một lần đò. Chú bé 6 tuổi đi chợ mua bánh canh về, đứng đợi ông lái ở bờ bên sang đón. Song, hồn ông lái đã đi vào giấc ngủ mất rồi làm sao nghe được tiếng gọi đò yếu ớt của chú bé. Chú đợi mà lòng canh cánh sợ bánh canh nguội, sợ trẻ chăn trâu chặn đánh đổ hết bánh canh, về mẹ không còn gì ăn, nên chú hối hả gọi ông lái đò - là cậu ruột; hàng ngày vẫn neo đậu ở bờ bên kia dù có khách hay không. Đôi bờ sông quá rộng, chú bé tha thiết, giục dã, hối hả gọi đò. Tâm trạng ấy đã đi vào tìm thức của ba tôi từ khi ấy. Lớn lên, có thêm chút triếc lý, cộng với thực tế của cuộc sống, cha đã viết ra tiếng gọi đò đầy cảm cảnh “Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả/ Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi”; “Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách / Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng”.

Khi tôi hỏi về nghĩa bóng, cha cười, rằng: “Viết bài thơ này ba muốn nói về hạnh phúc của con người. Đời người, ai cũng có quyền mơ ước. Có người mơ về vật chất, tiền tài danh vọng. Có người chỉ mơ được sống trong một gia đình mà niềm vui được sẻ chia. Hạnh phúc là khi người ta ước gì được nấy, dù điều ước đó rất nhỏ bé. ví như thằng Bờm, tài sản chỉ có cái quạt mo mà phú ông muốn có. Gặp lúc đói quá, nó chỉ mơ đổi cái quạt của nó lấy nắm xôi cho đỡ đói lòng chứ đâu dám mơ đến ba bò chín trâu hay cao sang mỹ vị v.v...

Còn ông lái đò ở Bến My Lăng của cha thì ước sao ngày nào cũng có khách, dù chỉ một người, để được làm cái nhiệm vụ của người lái đò. Thời trước, người dân sống ở bến sông này khổ lắm, họ không tiền qua chợ mua sắm nên bến lúc nào cũng đìu hiu, vắng vẻ. Ông lái đợi, đợi mãi mà chẳng ai quá bộ qua. Sự chờ đợi làm ông mỏi mệt, chán chường nên thả hồn bay mất đến độ mơ ước của ông đến trong tầm tay mà không biết. “Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã / Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly”. Trong thời khắc chớp nhoáng ấy, ông lái đò đã để vuột mất niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà mình đã mơ, đã chờ, đã đợi “Suốt cả bao trăng”.
Đề cập đến cái triết lý của bài thơ, ba tôi thêm: “Hạnh phúc không phải lúc nào cũng phụ thuộc bên ngoài. Hạnh phúc phải do bản thân mình tạo ra thì mới ý thức được nó đáng quí như thế nào và mới biết tôn trọng, gìn giữ nó. Đừng bao giờ chờ đợi người khác mang hạnh phúc đến cho mình. Không có điều ấy đâu, mà nếu có thì không bền vững bằng hạnh phúc do chính sự lao động của mình xây nên. Người xưa đã dạy “Đừng há miệng chờ sung rụng”.

Vậy chữ My Lăng có thể hiểu là “Bến sông trăng”. Chẳng thế mà thơ của ba tôi chứa rất nhiều trăng. Ngay từ ngày mới lọt lòng mẹ, ông đã được ánh trăng vàng ngàn đời vây phủ, chở che.
Quê ngoại bên kia bãi cát vàng
Mẹ tôi về, lỡ chuyến đò ngang
Cơn đau trở dạ không giường chiếu
Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng.
Hay:
Võng mẹ ru hời dưới mái hiên
Hương đồng cỏ nội-mặc, kề bên
Tôi nằm trong vũng ca dao lạnh
Đón những vầng trăng mẹ vớt lên.

Trăng đi từ tóc, đi vào máu
Như sữa tuôn dòng chảy khắp thân,
Tôi yêu trăng quá, mê trăng quá
Như má yêu môi, đến đến….gần

Tôi đã thành người mắc  “bệnh trăng”
Chiều mây sớm nắng mỗi bâng khuâng
Chỉ riêng báo hiệu niềm vui đến
Khi ứng lòng đêm một ngấn hằng.
“Trích Bệnh trăng” (Rút trong tập Mưa bay)

Cuối tháng 3 năm 1985, đoàn làm phim tư liệu của nhà thơ Nguyễn Thụy Kha về An Nhơn, có nhà thơ Thanh Thảo, nhạc sĩ Văn Cao, nhạc sĩ  Nguyễn Trọng Tạo. Đoàn gặp nhà thơ cũng thắc mắc về cái bến trong tâm tưởng này. Nhà thơ Yến Lan đưa ngón tay gầy vẽ lên chiếu và giải thích như lời giải thích trên. Đoàn hiểu ra vì sao nhà thơ đặt tựa bài thơ là Bến My Lăng.  Sau đó, bộ phim phát hành có tên “Yến Lan – Một bến sông trăng”. Xin giới thiệu bài thơ Bến My Lăng:
My Lăng nằm không, thuyền đợi khách
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách
Ông lái buồn để gió lén mơn râu

Ông không muốn run người ra tiếng địch
chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao
vì đìu hiu, đìu hiu trời tĩnh mịch
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.

Trôi quanh thuyền những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời nhưng chỉ rải trăng… trăng
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh
để đêm buồn vây phủ bến My Lăng 
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi

Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách
để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng

Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng…

Nhiều người còn cho rằng, có một khía cạnh khiến mọi người, nhất là người Bình Định yêu thích bài thơ; là do âm thanh mà nhà thơ đã khéo léo đưa vào đầy kịch tính, đậm tình nhân văn - đó chính là tiếng gọi đò tha thiết của chàng kỵ mã trong một đêm đầy trăng. Theo sự hiểu biết rất hạn hẹp của tôi thì trong giai đoạn từ 1930 đến 1945 có hai bài thơ chứa đựng những âm thanh.
- Bài thứ nhất; chứa những âm thanh dồn dập “hối hả”, những âm thanh như oán trách, những âm thanh làm run rẫy cả ngành trăng - là tiếng gọi đò mãi mãi vang vọng trên “Bến My Lăng” của nhà thơ Yến Lan: “chàng gọi đò, gọi đò như hối hả/ sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi”.

- Bài thứ hai, là những âm thanh não nùng của hàng trăm con quạ, giữa đêm khuya đang ngủ, bỗng có tiếng động đã thức dậy cất tiếng kêu hoảng loạn, ầm ỹ. Những con quạ này, đập cánh ào ào trong đêm tối “bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng”. Tiếng quạ kêu thật rùng rợn, thật ấn tượng. Đó là tiếng quạ trong “Đêm thu nghe quạ kêu” của Quách Tấn. Cái tiếng của cả một bầy quạ kêu từ bờ tre trên sông Côn nằm trên chặng đường từ An Vinh đi về Phú Phong đã gây cho Quách Tấn một ấn tượng mạnh mẽ làm cho cả đời ông nhớ mãi. Chỉ nghe tiếng quạ kêu mà ông đã viết một bài thơ Đường rất nổi tiếng.
Nhưng, nếu so sánh tiếng quạ kêu của nhà thơ Quách Tấn với tiếng gọi đò của Chàng Kỵ Mã áo xanh của nhà thơ Yến Lan, thì nhiều người ưa tiếng gọi đò của Yến Lan hơn. Nó thể hiện sự độc đáo mà nhà thơ Yến Lan đã gieo vào lòng người đọc, khiến họ nhớ mãi về cái bến hoang tưởng trong hư vô của thị trấn An Nhơn không dứt. Khiến họ liên tưởng đến tiếng ếch kêu đã làm Tú Xương giật mình ngỡ là tiếng gọi đò trước đây: “Đêm nghe tiếng ếch bên tai/ giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò” .. Tất thảy những điều đó đã khơi dậy một niềm tự hào về mảnh đất của quê hương Bình Định ở nơi sâu, tận đáy lòng nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Liễn, bằng 2 câu đối dưới dạng 4 câu thơ viết tặng nhà thơ Yến Lan:
Bến My Lăng, bến ấy ở đâu?
Trời tĩnh mịch, trăng rơi vàng, thuyền đợi khách

Đất Bình Định đất này lạ nhỉ!
Rượu ân tình, hoa tư tưởng - xứ lên men.

L.B.T