2012/01/01

*BUỔI SÁNG ĐẦU NĂM 

Sương lạnh mùa Đông bám dầy cửa kính
Mờ mờ dáng cây trụi lá xa xôi
Thật im vắng, rõ tiếng kêu máy sưởi
Buồn không tên lảng đảng lên ngôi.

Trông lên vách thấy bóng mình cô độc

Đã nhiều khi nhìn tờ lịch đầu năm
Tự hỏi sẽ được thêm bao lần nữa?
Bổng nao nao chút xao xuyến âm thầm!

Vuốt mặt vết nhăn tay nghe cảm giác
Tim đập nhanh đua giây phút trôi qua
Nhịp phổi mệt nhoài len trong hơi thở
Cái gì đây? Chào ngày mới ngọc ngà!

Miên man nghĩ, thời gian trôi êm ả
Quay nhìn ra ngoài nắng sớm lên cao
Sương trên kính bắt đầu tan thành nước
Hơi ấm mặt trời: sức sống dạt dào!

Xoa hai tay với nhau lên hơi ấm
Áp vào tim nghe tiếng đập nhịp nhàng
Nụ cười cháu thơ thức giấc vang vang
Chợt tìm thấy niềm tin yêu trở lại! 
Anh Tú
(Nguyễn Hồng Ẩn)
 January 1, 2012

2011/12/30

13-Tái Ngộ

Em bắc anh nam buồn quạnh quẽ
Từng giây mang nỗi nhớ mênh mông
Âm thầm đếm thời gian cô lẻ
Nghe sầu rơi tí tách trong lòng

Vào một mùa Đông đầy tuyết trắng 
Tìm em thăm viếng đêm ba mươi 
Lúc nhà thờ vọng chuông đêm vắng 
Mừng rỡ gặp nhau nơi xứ người.

Cứ tưởng ngàn năm ly biệt mãi
Từ chia tay bịn rịn quê nhà
Hai ta mỗi đứa đi riêng ngả 
Đùa hiểm nguy, đau nỗi cách xa . 

Anh Tú 
December 30, 2011

2011/12/10

CHUYỆN CHÚNG MÌNH

Một chín sáu mươi thập niên xưa cũ 
Có hai xóm nghèo cách một con sông
Nối liền nhau bởi cây cầu nho nhỏ
Nơi những chiều em đứng ngắm mây hồng.

Xóm bên này có chàng trai mong ngóng
Em xóm bên kia từng bước thong dong
Đi thăm chị, tóc dài bay trong gió
Khi trở về ngượng nghịu biết người trông.

Anh đi học một hôm ngang nhà Nhỏ
Mắt liếc tìm em để gởi nụ cười
Cùng ánh mắt thiết tha như lời ngõ
Lời ngõ gì chắc em rõ mười mươi!

Khi ánh mắt trao… tình thân từ đó
Hàng me xanh đã làm chứng hai ta
Cầu dốc anh leo, em bên dốc thả
Không ngại gì… vì tình quá thiết tha.

Nơi xóm cũ nay đất đai còn đấy
Mà cảnh vật/người xưa đã đổi thay
Nhưng tình chúng ta đậm đà mãi mãi
Phải không em tình xa cách …tình đầy?

Anh Tú
December 10, 2011

Diễn ngâm: HƯƠNG NAM

2011/11/25

Photo: Tom_LeFavour 1969
Hà Tiên Miền Nhớ

Trường nhỏ vùng biên cương ̣tổ quốc
Học trò hiền hậu rất thân thương
Gắn bó đời tôi cùng đất mới
Như tình nhân dấu ái miên trường

Tình dân hiếu khách và thân thiện
Nụ cười luôn nở đẹp trên môi
Xao xuyến lấn len tim khách lạ
Mới vào đời lạ lẫm chơi vơi.

Đến khi phải giã từ ly biệt
Chân đi lòng vẫn muốn không rời
 Dấu yêu kỷ niệm ghi vùng nhớ
Theo cùng tôi vạn nẽo đường đời.

Tô Châu, Đá Dựng, dừa ba ngọn
Thuận Yên, Mỹ Đức, núi Bình San
Bao địa danh là... bao dấu ái
Mãi mãi là niềm nhớ ngút ngàn!

Anh Tú
November 25, 2011

2011/11/16

Ảnh: Nhu Thuong Nguyen
12-FORGET ME NOT

Kỷ niệm cũ là một trời hoa mộng
Nhắc bao nhiêu lần là khổ bấy nhiêu
Trong tim anh em gái vẫn yêu kiều
Thường ngơ ngác ngước nhìn trời thương nhớ.

Đời nghiệt ngã anh đành xa xứ sở
Bỏ sau lưng làng xóm, những dấu yêu
Em biết không? Anh ra biển những chiều
Ngóng phương Tây, tìm bóng hình quê mẹ.

Thái Bình Dương thoảng vào cơn gió nhẹ
Hình như mang hơi thở của quê hương
Hơi thở ấy có phần của em thương
Anh thở lấy như món quà vô giá.

Anh như kẻ bị trợt chân té ngả
Xuống giòng sông lưu lạc xứ người
Không vì hái hoa mà bởi cuộc đời
Đã gởi lại cho em lời trăn trối:

“Đừng quên tôi” như của người hấp hối
Thiếu quê hương và thiếu cả người thương
Em
gởi tặng anh hoa Lưu Ly Thảo
Anh hồi âm em tâm sự đoạn trường!

Anh Tú
November 16, 2011

2011/11/11

 CHÚNG TÔI BA ĐỨA*

(Tựa cũ:Nguyễn Hồng Ẩn tìm bạn Ngô Thành Hoàng/Ngày đăng: 2011-11-18 09:53:24 tại tongphuochiep71.com)



Ngô Thành Hoàng, con trai lớn của Ông Ngô Thành Hộ Trưởng Ty Nông Vụ Vĩnh Long khoảng năm 1958, nhà ở kế bên Trường Nữ Tiểu Học, trên đường Hưng Đạo Vương.

Nguyễn Phú Thạnh tự Năm Ch..nhà ở ấp An Lương, xã An Đức, Quận Châu Thành, Tỉnh Vĩnh Long ̣(đơn vị hành chánh thời ấy), đã ...từng học ở Trường Tiểu Học Ngả Tư Long Hồ cùng tôi. Chúng tôi học lớp nhất (bây giờ là lớp năm) niên khoá 1953-1954.

Chúng tôi bộ ba chơi rất thân từ lớp Đệ Tứ ( lớp 9) trường Trung Học Nguyễn Thông niên học 1957-1958. Lúc đó trường vừa được dời xuống đường Gia Long mà sau này đổi tên là Tống Phước Hiệp. Thật ra Phú Thạnh và Hoàng là bạn với nhau trước đó. Chúng tôi thường tụ tập tại nhà của ba mẹ Hoàng; hai ông bà rất dễ thương cũng như người chị cả của Hoàng là Ngô Thị Nguyệt Hồng, em trai kế Ngô Thành Hiền và một số em út khác như Ngô Thị Nguyệt Hà, Ngô Thị Nguyệt Huỳnh và em út bé Guy.

Thời bấy giờ, từ Đệ Thất (lớp sáu) đến Đệ Tứ là chương trình Trung Học Đệ Nhất Cấp; từ lớp Đệ Tam (lớp 10) đến lớp Đệ Nhất (lớp 12) là chương trình Trung Học Đệ Nhị Cấp. Để hoàn tất chương trình Trung Học, học sinh phải thi đổ bằng Trung học Đệ Nhất Cấp ngay sau lớp Đệ Tứ, Tú Tài 1 ngay sau lớp Đệ Nhị (lớp 11) và Tú Tài 2 ngay sau lớp Đệ Nhất (lớp 12).


Có vài kỹ niệm khi chúng tôi dự thí các bằng này ở Cần Thơ.

-Lần đầu tiên “liều chỏng đi thi” thật hồi hộp và bối rối nhất là đến nơi xa lạ, không có bà con quen biết hướng dẫn. Ba của Hoàng đưa chúng tôi đến trọ tại một khách sạn ở bến Ninh Kiều. Là lần đầu ở khách sạn, ngơ ngác như “chú Mán về thành” nên có những chuyện buồn cười xảy ra. Đêm khuya, đang ôn bài vở, bụng đói meo mà làm biếng ra ngoài (hay nhát gan), bổng nghe tiếng “leng keng” rao hàng, ngỡ rằng có người bán hàng rong nên kêu lại. “Các chú muốn đấm bóp hả ?”. Hoảng hồn chúng tôi đóng sầm cửa lại, tắt đèn, im thin thít, chờ “ông đấm bóp” lầm bầm mắng (tưởng chúng tôi phá phách chớ đâu ngờ chúng tôi là ... ngố) đi xa mới dám mở đèn trở lại.

-Thầy dạy Toán cho chúng tôi là Giáo sư Nguyễn Văn Kỷ Cương (con của Giáo sư Nguyễn Văn Kỷ Mậu. Sau 1975, thầy Cương định cư tại Toronto, Ontario, Canada và mãn phần vào ngày 05 tháng ̣̣9, 2011).Tôi nhớ ngoài những lời dặn dò thông thường cần thiết cho một thí sinh, thầy còn cho chúng tôi một “bí kiếp”: mang theo kẹo để ngậm khi làm bài, chất ngọt của kẹo sẽ cung cấp ca-lô-ri cho cơ thể từ đó chúng ta sẽ làm bài thi tốt hơn. Nghe lời thầy tôi bỏ kẹo trong túi quần và quên mất. Sau đó cảm thấy nhớp nhúa nơi đùi thì nhớ lại mấy viên kẹo giờ đây chúng đã chảy thành nước đường.

Năm đó kết quả đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp của trường Nguyễn Thông rất cao, là lần đầu tiên nữa nên tiếng vang xa khắp nước. Thầy Hiệu Trưởng cho tổ chức tiệc mừng ngoài trời tại sân trường, nếu tôi nhớ không lầm.

-Lần đi Tú Tài 1, chúng tôi đã dạn dĩ hơn. Nhớ lại trong lần thi vấn đáp của môn Sử Địa, chúng tôi đã nghịch ngợm mà sau này nghĩ lại thật là “tàn ác và vô ý thức”, tội nghiệp cho nạn nhân vô cùng.(Tú Tài 1 hoặc Tú tài 2 phải thi hai lần: đậu kỳ thi viết xong mới phải thi tiếp kỳ thi vấn đáp). Chuyện là: khi chờ tới phiên của mình, nghe giám khảo hỏi một thí sinh “ Sông Cửu Long chảy ra biển nào?” .Câu hỏi rất dễ thế mà thí sinh này “ngồi lúc lắc”. Một đứa trong chúng tôi thấy vậy nên tức, buộc miệng nói nhỏ “vừa đủ nghe” (!):  “ Thì chảy ra Đại Tây Dương chớ ra đâu!” .Vô phúc thí sinh ấy nghe được bèn dùng để trả lời cho giám khảo...


Sau này chúng tôi mỗi đứa mỗi ngả ...thỉnh thoảng gặp nhau. Tôi thường gặp Thạnh nhiều hơn Hoàng. 

Lúc Thạnh học ở Kỷ Thuật Phú Thọ tôi đã tham gia vài lần picnic do Thạnh tổ chức (em của Hoàng là Ngô Thành Hiền có lần tham dự, lúc đó Hiền học y khoa chung nhà trọ với Lê Bửu Trân ở đại lộ Trần Hưng Đạo. Và hình như trong những buổi vui chơi ngoài trời này có một “pinic-viên” đã tình nguyện đi bên cạnh cuộc đời của Phú Thạnh cho đến hôm nay.

Vừa trước 1975, tôi có đến thăm Hoàng tại nhà của anh ở đường Hai Bà Trưng vùng Tân Định và mất dấu nhau từ đó.

Sau 1975, khi cuộc sống đã được ổn định “lần thứ hai”, Phú Thạnh và tôi đã cố gắng tìm Ngô Thành Hoàng, một người bạn thật tốt, thật hiền của chúng tôi nhưng vô vọng.

Tôi cũng ̣đã nhắn tin tìm chị Ngô Thị Nguyệt Hồng, bác sĩ Ngô Thành Hiền nhưng cũng chẳng có kết quả.

Hôm nay cuối thu trong tiết trời lạnh lùng của đông, ở tuổi “thất thập cổ lai hy”, thương mình nhớ bạn, viết lại vài hồi ức mập mờ còn sót lại trong tôi, gởi cho Phú Thạnh và cho một sự cầu may : mong có điều nhiệm mầu xảy ra để chúng tôi không tuyệt vọng ; đó là tin tức về bạn NGÔ THÀNH HOÀNG.



Nguyễn Hồng Ẩn <Anh Tú>

11-11-2011
*Bài này được viết trước khi Nguyễn Phú Thạnh qua đời <2017>

2011/11/09

TÌNH TÀN THU

Em xinh như chiếc lá 
Vẫn sắc màu cuối thu 
Rực rỡ khi chiều tím 
Đùa với gió vi vu. 

Anh mơ là cơn gió 
Lãng đãng vào cuối thu 
Vuốt ve từng chiếc lá 
Run rinh trong sương mù. 

Mơ cuộc đời êm ả 
Để tình yêu nên thơ 
Cho hai người nhung nhớ 
Hạnh phúc cùng ngu ngơ. 

Mơ trời luôn xanh thẳm 
Gió về từ biển khơi 
Tình gió lá vật vã 
Lá luyến cành không rơi. 


Anh Tú 
November 9, 2011 

2011/10/05

*CHO NHỎ NGÀY XƯA 

Nhỏ có biết chú trải nhiều cay đắng
Nên đã không quay trở lại cổng trường 
Chối bỏ tình yêu chối bỏ quê hương 
Mang thương nhớ lang thang đất khách. 

Bảy-Mươi-Lăm ngày bắt đầu xa cách 
Vướng tội tù vì lý tưởng tự do 
Thành tha hương vì là kẻ tội đồ 
Mất dấu nhau vì ai nay em biết? 

Bài Nhỏ-Ngày-Xưa quá ư tha thiết 
Biết tin em và biết cả lòng ai 
Xin dấu yêu trân trọng kể từ nay 
Ôi ! Hạnh phúc bất ngờ sao chất ngất! 

Câu chuyện này ta tưởng như đã mất 
Mà triền miên theo năm tháng mỏi mòn 
Không kết hợp chẳng qua là định mệnh 
Hẹn gặp nhau khi về với nước non!


Anh Tú
October 5,2011

2011/09/19

*TIẾNG MƯA ĐÊM

Có đêm giấc ngủ sâu, nồng, 
Mưa đêm đánh thức, nỗi lòng ngổn ngang. 
Tâm tư trôi giạt lang thang 
Trở về ngày tháng ngút ngàn xa xưa. 

Âm thanh ma quái đêm mưa 
Dầy vò tim héo người chưa vẹn tình! 
Có đêm giấc ngủ lặng thinh 
Nỗi lòng thầm kín một mình xót xa. 

Theo tháng năm, khổ dài ra.
Niềm riêng khó nói: ước mơ lỡ làng! 
Tiếng mưa xao xác, ngỡ ngàng, 
Tỉ tê, thánh thót, vang vang đêm trường! 

Xin mưa dừng rớt vấn vương
Để trần ai giảm đau thương khổ sầu!

Anh Tú 
September 19, 2011

2011/09/13

PHỐ XƯA

Phố xưa đã vắng em rồi,
Chim ngưng tiếng hót, mây trôi lưng chừng
Đường Gia Long*, bước ngập ngừng.
Tìm ai không thấy rưng rưng lệ trào.

Quay về ngày tháng năm nào:
Môi em hồng thắm, tóc ngào ngạt hương.
Guốc khua đường nhựa đến trường,
Gió tung vạt trắng vấn vương lòng mình.

Hỏi gió, gió cứ lặng thinh
Hỏi mây, mây biết mối tình của tôi?

Anh Tú
September 13, 2011
*Tên đường của một thành phố

2011/08/05

“NHÀ TRỌ"

Lê sẽ không còn đi học vất vả trên Con đường dài chín cây số mỗi ngày nữa mà chỉ một lần mỗi cuối tuần đi về nhà mà thôi vì cuối cùng người thân đã tìm được một nơi ở trọ cho Lê.
Thân-nhân của Lê không có người quen ngoài chợ và càng không có khả-năng tài-chính để mướn nhà. Được sự gợi ý của một người quen, thân-nhân của Lê tiếp-xúc với ông Năm, chủ một lò rèn tại một xóm lao-động nghèo ven sông Cửu.Cái lò rèn nằm ngay bờ sông, ọp ẹp, bụi bậm, dơ bẩn, trống trước trống sau, chỉ có một “phòng” nhỏ với vách lá cũ-kỹ để chứa dụng-cụ. Qua trao đổi biết hoàn-cảnh của Lê, ông Năm tốt bụng thương tình cho bạn tạm trú để đi học: một ghế bố đặt trong phòng dụng-cụ, đem củi gạo nồi niêu để tự nấu ăn, tắm rửa thì dùng nước sông, vệ-sinh thuở ấy có cầu tiêu công-cộng cũng ở ven sông, đêm về học-hành dùng đèn dầu lửa…
Từ “nhà trọ” đến trường chỉ cần đôi mươi phút một lượt đi/về, Lê cảm thấy hạnh-phúc vô cùng khi so-sánh với con đường chín cây số gian-nan đầy bất-trắc.
Bà con quanh lò rèn đột-nhiên có thêm người láng giềng thư-sinh mặt trắng lúc nào cũng “ở rút” trong “phòng” bởi tự ti mặc cảm, nỗi hổ-ngươi vì hoàn-cảnh hàn-vi cũa mình, nhưng Lê biết rằng, qua ánh mắt, họ thương hại mình nhưng không khinh khi. Chỉ thời-gian rất ngắn sau đó bà con đã tỏ ra thật thân-thiện, chuyện trò thăm hỏi và sẳn-sàng giúp-đở Lê những gì cần giúp. Sư đón tiếp nồng ấm của xóm nghèo đã cho bạn thật nhiều an-ủi, nhiều sức mạnh hơn nữa để quyết-tâm học-hành thành-công.
Có cần phải viết ra đây những bửa cơm hẩm qua ngày của Lê không? Gạo, củi, muối, nước mắm người đở đầu cho kèm thêm hai mươi đồng bạc thời đó mà một tờ tuần báo có tiểu-thuyết Châu Về Hiệp Phố (có hai nhân-vật chánh là Hoàng Ngọc Ẩn, Lệ Thuỷ) của tác-giả Phú Đức thời đó đã là ba đồng thì một cái hột vịt là thức ăn tiêu-chuẩn với cơm cho một ngày của Lê. Dù vậy người học-trò nghèo này vẫn cảm thấy thật may-mắn, hạnh-phúc, thầm nghĩ người cha vắng số đã phù-hộ để có những người tốt bụng hổ-trợ con đường học-vấn của mình.
Thời-gian sau, có Dì Hai trong xóm với căn nhà lá nhỏ , buôn bán cá tép dưới chợ tỉnh để độ nhật, gia-đình nghèo tiền bạc nhưng giàu lòng nhân-ái, kêu bạn đến ở với Dì. Dì nói:”Có gì ăn nấy với Dì, chớ cháu ở cái nhà trọ này mãi xem tội quá!” Dì cho Lê tình thương như con / cháu ruột thịt. Từ đó Lê càng cố-gắng học thật tốt hơn nữa và kết-quả kỳ thi bằng Trung-Học Đệ-Nhất-Cấp (cuối niên-học lớp Đệ tứ hay lớp chín) đã đạt được thứ hạng cao.
Đến đây, người thân đở đầu cũng có vẻ không muốn Lê học tiếp-tục nữa nhưng thời điểm này làm sao mà bạn bỏ cuộc được. Dầu sao thì tình-thế hiện-tại vẫn thuận-tiện cho Lê kiên-trì tiến bước lên hơn dạo trước.
Vẫn ở nhà Dì Hai cho hết niên-khóa lớp Đệ Tam (Lớp mười), Dì Hai quyết-định dọn nhà về quê nên bán căn nhà nhỏ cho gia-đình kế bên với điều-kiện là vẫn để cho Lê ở tiếp-tục cho đến khi tốt-nghiệp Tú-tài. Lê thường tâm-sự chuyện này với đôi mắt lưng tròng: “Sao mà có người tốt bụng giúp mình tận tình vô vị lợi như vậy!”
Quới-nhân xóm nghèo này thật nhiều! Không lâu sau đó Lê được Cô Dượng Năm chủ đất khu này, nơi mà Cô Dượng đã quãng-đại cho cả chục gia-đình từ trong các làng quê trốn chạy chiến-tranh thời Pháp thuộc cất nhà trú-ngụ, kêu Lê lên nhà Cô Dượng ở. Cô Dượng đã đối xử với bạn như người thân, các con của Cô dượng xem Lê như người anh cả trong nhà.
Sau này khi đã ra đời rồi Lê vẫn xem nơi đây là nhà, luôn nhớ về và viếng thăm khi có dịp. Mối thâm tình đó đã trở thành ruột thịt tự bao giờ và kéo dài cho đến ngày nay.
Sau hơn nửa thế-kỷ vật đổi sao đời, người xưa dần biến mất, cảnh cũ đổi thay, nhưng xóm nghèo này đã là nơi chốn thân thương của Lê kể từ ngày bạn bước chân vào cơ ngơi làm ăn của Ông Năm Lò Rèn hiền-lành tốt bụng mà mỗi lần nhớ đến thì người và cảnh vật vẫn còn nằm im trong góc tim của Lê vội-vàng trỗi dậy. 


Anh Tú
August 5, 2011






2011/07/30

CON ĐƯỜNG XƯA

Trên đường xưa em đi
Anh theo ngắm tóc thề
Mơ chút tình phu thê
Em ngoái nhìn cười mĩm
Thằng cha gì lì ghê!

Thế mà nghĩa phu thê
Kết đôi ta gắn bó
Hạnh phúc thật tràn trề
“Mình ơi!” Mình có biết
 Anh yêu mình đê mê!

Rồi mình bỗng bỏ đi
Con đường giờ vắng vẻ
Anh gậm nhm biệt ly
Nhìn đường tim đau nhói
Mơ lại thuở xuân thì!

Anh Tú
July 30, 2011

Mời thưởng thức ca khúc Con Đường Tình Ta Đi:

2011/07/24


BIỂN GỌI

Âu Cơ mang năm mươi con xuống biển
Hơn bốn ngàn năm hùng cứ Biển Đông
Nhìn chân trời xa lấp lánh vầng hồng
Hãy nhớ biển trời này là Tổ Quốc.

Để kẻ cướp xâm lăng không thể được
Mẹ Âu Cơ sầu đau khổ héo hon
Cha Lạc Long Quân nguyền rủa cháu con
Hèn nhát không giữ non sông gấm vóc.

Biển Đông gọi bằng sóng vang gió lộng
Thuyền ra khơi vang tiếng thét Lạc Hồng
Hãy đem máu xương bảo vệ non sông
Biển đảo là đất Tổ Tiên ta đó!

Anh Tú (NHA)
July 24, 2011

2011/07/07

Phi Trường Ở Lại

Luyến lưu tiển bước ai đi
Có đôi con mắt ướt mi âm thầm.
Chân mây cánh sắt xa xăm
Phi trường ở lại tháng năm đợi chờ
Mong ngày tái ngộ từng giờ
Để vơi niềm nhớ… vào mơ gặp người!
Trong lòng  có chút hổ ngươi
Vì thương …dẫu có chê cười cũng cam!

Anh Tú/NHA
07/07/2011
CON ĐƯỜNG CHÍN CÂY SỐ.

Cũng con đường dài chín cây số ấy nhiều người đi/về quá dễ-dàng thế mà Lê, bạn của tôi, phải gian-nan vất-vả.
Lê mồ-côi cha sớm, mẹ nghèo, được một người thân đở đầu giúp cho đi học.
Thời thập niên 1950 sau khi đậu Tiểu-học, người bà con ấy không muốn cho Lê tiếp-tục học lên. Những bà con lối xóm góp lời bàn ra: Cho nó ở nhà tập làm ruộng rồi lớn lên chút nữa thì cưới vợ cho xong, học bao nhiêu đó đủ rồi! Đây cũng là một nếp sống của nông-dân thời ấy (đặc-biệt còn  áp-dụng khắc-khe với phái nữ) họ chuộng nghề ruộng rẫy, bình-dị, chắc-chắn hơn là học-hành tốn kém, xa vời biết có thành-công hay không?
Bạn tôi buồn rười-rượi nhưng vốn ham học, tính tình này hình như nằm sẳn trong máu của chàng, đã âm-thầm đi thi tuyển vào lớp đệ-thất. Thời đó trường lớp rất hạn-chế chỉ có một trăm tuyển-sinh cho hai lớp đệ-thất nên Lê không được may-mắn như mong muốn.
Chuyện “làm ruộng, lấy vợ sớm” khiến bạn tôi vô cùng sợ hải và tuyệt-vọng. Còn nước còn tát, được thầy hướng-dẫn, bạn lại đi thi lớp tiếp-liên cũng ngoài chợ tỉnh. Lần này thần may-mắn gọi tên. Ngày biết được trúng tuyển, vui buồn/lo-lắng lẫn lộn; buồn lo vì ở ngoài chợ tỉnh thành “tứ cố vô thân”, chỗ đâu mà trọ học và tiền đâu để chi-phí sách vở, cơm nước. Người thân có còn tiếp tục giúp đở cho mình nữa không?
Ngày tựu trường đã đến, sáng sớm phải ra chợ làng để đi xe đò đến lớp với giỏ cơm tẻ nấu sẳn mang theo. Thấy Lê ham học, vẫn “lỳ lợm” đến trường, người thân không đành ngăn cản lại cho một ít tiền để đi xe, mua sách vở. Lúc bấy giờ có người chủ chiếc xe đò thương tình cho bạn quá giang buổi sáng: Lê đứng ké né ở bợ xe lên xuống ở phía sau xe. Buổi chiều khi tan học thì xe đã nghỉ chạy, bạn đành…đi bộ về khi hoàng hôn rơi xuống. Từ trường về nhà dài chín cây số, có nhiều đồn“bót” …và còn phải qua vài cây số đường vườn nữa mới về đến nhà, xa diệu-vợi …phải làm sao đây? Lầm lũi đi khi chậm/khi nhanh, nước mắt lưng tròng buồn cho số phận côi-cúc hẩm-hiu, cháng thầm vái van mặt trời đừng lặn sớm. Đi được nửa đường thì trời chạng vạng, đồn đã đóng cửa, lính canh kêu đứng lại, nghe rõ tiếng súng đạn lên nòng…Bạn mếu máo la lớn lên kể lể sự tình để xin lính mở cửa đồn và may mắn quá họ thông-cảm cho đi qua. Không còn thời gian để về nhà nên Lê đành vào nhà người chị bà con ở gần nơi đó xin tá-túc qua đêm . Người chị cho ăn, cho chỗ ngủ. Đêm về trằn trọc không biết ngày mai mình phải làm sao đây? Tiếp-tục về nhà thì mất buổi học, không về thì thân nhân sẽ lo lắng còn có thể bị la rầy nữa! Sự ham học thắng nên sáng sớm lại xin quá giang xe đò đến lớp với giỏ cơm mới mà người chị đã nấu cho. Hôm nay khi tan học may sao có người bạn cho Lê đi nhờ xe đạp nên kịp về đến nhà.
Nói về giỏ cơm tình-nghĩa: cơm tẻ kèm một cái hột vịt hoặc vài con cá lòng tong kho khô hoặc con khô cá sặc đã là cao-lương mỹ-vị; đôi khi chỉ có miếng dưa leo cùng tí “khô quẹt” (nước mắm nấu cho “sắc” lại) cũng xong. Lê tự biết rằng những giỏ cơm đơn-sơ này không tự trời cao rơi xuống mà từ mồ-hôi công sức, thắm đậm tình thương của người thân dành cho mình nên dặn lòng phải làm sao đừng phụ lòng mọi người.
Trở lại câu chuyện…Như Trời thương người học trò có chí, thời-gian ngắn sau đó trường Trung-học nhận thêm một trăm tuyển sinh nữa và Lê lần này có tên trong danh-sách. Người ta nói sự may-mắn ít khi có hai lần (họa vô đơn chí, phước bất trùng lai) thế nhưng chàng lại ngoại-lệ: vào đệ-thất và những ngày kế tiếp có những người bạn quý thương tình giúp-đở, thay nhau cho Lê quá giang xe đạp về nhà. Sự quyết-tâm đi học như thế đã làm xúc-động mọi người và không thể lợi-dụng lòng tốt của những bạn quý mãi, cuối cùng người thân đở đầu phải kiếm chỗ trọ cho chàng.
Lê luôn khắc cốt ghi tâm biết ơn những người thân, những bè bạn có tấm lòng thương bao-la đã giúp-đở mình.
Sau những thay đổi của dòng đời nghiệt-ngã, bạn bè cũng chưa có dịp gặp lại nhau. Hy-vọng một ngày nào nhờ trời chúng tôi còn khoẻ mạnh có dịp hội-ngộ trước khi bàn-giao hẳn thế-gian này cho thế-hệ tiếp nối.
Con đường chín cây số vẫn còn đó nhưng thời gian đã mặc cho nó chiếc áo mới hơn. Nó sẽ mãi trường tồn trong lòng đất nước Việt mến yêu, gắn bó với những thế-hệ con Rồng cháu Tiên tiếp nối nhau của miền đất Lục tỉnh bên dòng Cửu Long hiền-hoà, con sông lừng danh Đông Nam Á.

Chỉ chín cây số đường xa
Mà bao kỹ-niệm thiết-tha một thời!


Câu chuyện nhà trọ của Lê rất đặc-biệt và cũng là một ngả rẽ giúp bạn tôi tiếp-tục tiến bước được trên con đường học-hành để gây dựng tương-lai. 


Anh Tú
July 7, 2011