2014/03/04

 RAU ĐẮNG ĐẤT*

Trời mưa nước ngập ruộng sâu,
Cá đồng về hội rủ nhau nhảy hầm
Mưa là mưa lũ mưa dầm
hẹn mùa, rau đắng mọc quanh thềm nhà.

Tộ cá rô kho
Tô canh rau đắng...
đượm làm sao tình nghĩa nhà quê
nhớ làm sao thuở còn bé bỏng
nhà ở xa trường qua mấy nhịp cầu tre
bấm ngón chân chai bờ đất ruộng
trời mưa trơn trợt lối đi về...

tới cổng,
mùi cá kho đã dậy
lạnh cóng tay, cơn đói réo trong lòng
em với chị vừa đi, vừa chạy
cùng tranh nhau kịp để...ngồi mâm
em ngồi bên cha,
chị ngồi cạnh mẹ
bới chén cơm đầy và đua cho lẹ
hạnh phúc reo mừng như tiếng chim ca.
cá rô non nấu canh rau đắng đất
là tình thương bồi đắp mãi không tròn
là những buổi cha dầm mưa khai ruộng nước
quần vo cao
áo bà ba rách nách
điều thuốc vồng ngấm nước tắt, lạnh run...
tay rổ xúc,
vai đeo đụt mướp
lũ đỉa trâu thèm máu hút bầm chân!
                                                                                                                        
là những buổi trời vui mây dẫn gió
trôi lang thang không biết đến phương nào
chiều dâng hương cuồn cuộn tiếp chân nhau
trên ruộng thấp bầy cò bay trắng xóa.
những khi nhàn hạ
mẹ nhổ rau đắng đất
đốt lấy tro lắng nước gội đầu
gió thật hiền lay lá trúc lao xao
mái tóc chị dài êm như sóng mạ
mẹ xăm xoi bắt chí
mẹ chăm chút chải gàu
xức dầu dừa óng mượt
cột đuôi gà nhỏng nhảnh đằng sau.                                                                                                                                                  
mẹ vuốt tóc chị trầm trồ khen đẹp
Ôi! Dòng tóc hiền thấm nghĩa cù lao!
mười lăm năm
thời gian con đủ lớn
và tóc Mẹ trải màu bông bưởi bông cau
cha lưng còng như tre gặp gió
cho lòng con nặng một niềm đau!
chị theo chồng về nơi xứ lạ
em linh đinh rày đó mai đây
thuở nhỏ mưa dầm băng mấy ruộng
bây giờ mưa ngại bước chân đi!.. 
chị về bên ấy,
ơ hờ gương lược biếng xăm xoi.
Tóc chị rối nù hong hong mùi bếp
Gió dẫn mây trôi nhìn chỉ ngậm ngùi
đường về biệt mù,
chồng con bận bịu ,
nơi quê xưa thung đường ươn yếu
mà nhớ thương như thả tóc lên trời...                                                 
em lang thang đầu sông cuối bãi
thèm một bữa cơm dưới mái gia đình
nhưng dĩa cá kho mặn mùi nhân ngãi
tô canh ngày nào cũng đắng vị công danh!
tộ cá rô kho
tô canh rau đắng
đời nhiều lận đận
nên mất rồi thời thơ dại dấu yêu
đã hết rồi thời tan học nghêu ngao
câu hát cũ bây giờ nghe nuối tiếc
khi mây trắng lưng trời bay mù như tóc
gió vờn trên lá cỏ
và đường đời sự nghiệp trắng đôi tay...
đêm trọ chập chờn giấc điệp
tình hoài hương ray rứt ngủ không yên
tiếng võng ai kẽo kẹt
giọng ru hời buồn điệu Vân Tiên:
"trời mưa nước ngập ruộng sâu
cá đồng về hội rũ nhau nhảy hầm
mưa là mưa lũ mưa dầm
cho Rau Đắng Đất mọc quanh thềm nhà!"
                                                            
mười lăm năm,
bao lần gió nam non thổi lòn hang dế
em đi từ ấy,
chân ruộng đồng chưa mòn gót phiêu linh
ăn quán ngủ đình,
nước sông gạo chợ...
bao lần đau những cuộc tình tạm bợ
bao nhiêu lần làm lữ khách qua sông!
chợt giật mình, trẻ nhỏ gọi bằng ông
bỗng nghe nhớ về nơi cố thổ...
nhớ rau đắng nấu canh
nhớ con cá rô kho tộ
nhớ chị tôi theo chồng năm lên mười sáu
tóc cột đuôi gà...khóc lúc vu quy!
chị trách hờn...cha mẹ đuổi chị đi.
Thân con gái ở nhà ngoài, ăn cơm nguội
Con chi đa đa kêu đâu bờ bụi
Thương cha mẹ già ươn yếu chẳng ai lo...
                                      
...chị gói một nắm tro
dặn em gội đầu cho mượt
xức dầu dừa cho mướt
đừng để "mủn vùa" khô khốc rễ tre
mười lăm năm,
mới hiểu lời chị dặn
thì đã bao lần mấy dề rau đắng
mọc quanh thềm nhà...trỗ bông trắng...rồi khô!
Đã mấy mùa nước ngập chân đê
Con cá rô mấy lần ra sông lớn
Cha không còn dầm mưa coi ruộng
Không còn ai giành nữa chuyện...ngồi mâm!
Bao năm dài không một lời thăm  
Thôi thì kể như nước sông chảy ra biển cả...
thằng em nhỏ tóc vẫn chừa "ba dá"
như "mủn vùa" mẹ gọi lúc lên ba?
Con rô đồng ôm trứng tháng mưa
chờ đến lúc thả con về ruộng
chị ngồi nhớ mỗi chiều mỗi sớm                                                                                                                                                                                           
 thả nỗi buồn theo lọn tóc bay.
Không hẹn mà cùng bấm lóng ngón tay
hai số dư không biết đường nào đếm!..
em muốn kể quảng đời lận đận
ba muơi năm dài bao nỗi nhớ mong...
Ngày về nhà chị
ngủ đêm đầu tiên
nghe rạo rực không thể nào yên giấc
dưới mé thềm rêu mọc đầy rau đắng đất
con dế mèn thôi kể chuyện phiêu lưu
nén tiếng thở dài
sợ rung giọt đèn lu
muốn được ngủ say trong vòng tay chị
lời trách móc sao y như mẹ
cái hồi còn thơ trẻ bên nhau!
                             
Ai buộc đời mình vì một cọng rau
ai khôn lớn qua cầu đi hút bóng
nhìn quãng đồng xa một làn khói trắng
cũng bâng khuâng nhớ lắm quê mình
bỗng nghe thèm rau đắng nấu canh...

Nguyệt Lãng


2014/03/03

HAI CÂU TRẢ LỜI THÂM THÚY NHẤT LỊCH SỬ


Tổng Thống Pháp Charles De Gaulle
Tổng Thống Pháp Charles De Gaulle

1.ĐUỔI MỸ VỀ NƯỚC:
Vào đầu thập niên 60 , trong cuộc họp với các nhà lãnh đạo Châu Âu để thỏa hiệp sống chung hòa bình với các nước CS Đông Âu. Tổng Thống Pháp Charles de Gaulle muốn lấy lòng CS nên đã đơn phương quyết định rút ra khỏi Liên Minh Phòng Thủ Bắc Đại Tây Dương ( NATO ).
Ông ta nói với Ngoại trưởng Dean Rusk của Tổng Thống Kennedy : " Tôi muốn Quân Đội Hoa Kỳ PHẢI RÚT RA KHỎI NƯỚC PHÁP CÀNG SỚM CÀNG TỐT".
Ngoại Trưởng Rusk nhìn thẳng vào mặt Tổng Thống De Gaulle từ tốn hỏi : " Thưa Tổng Thống ! lệnh này có bao gồm luôn cả các Quân Nhân Hoa Kỳ từng được chôn cất tại đây hay không ?"(Chúng ta biết lính Mỹ tử trận nhiều nhất là trong cuộc đổ bộ lên bờ biển Normandie cùng với quân Canada năm 1944 để Giải Phóng Nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của Đức Quốc Xả trong Đệ Nhị Thế Chiến ...).
TT De Gaulle nín lặng không trả lời. Tiếp theo là một sự yên lặng như tờ. Yên lặng đến đổi có thể nghe cả hơi thở người đối diện.

2-TRÌNH SỔ THÔNG HÀNH:
Cụ già Người MỸ 84 tuổi , Robert Whiting tới Paris bằng phi cơ.
Tại văn phòng Sở Di Trú phi trường, vì già cả chậm lụt, nên cụ phải mất thời gian lục tìm sổ thông hành trong xách tay.
Thấy cụ cứ lục lọi , nhân viên Sở Di Trú sẳng giọng với cụ : " Thưa Ông ! Ông đả từng đến nước Pháp bao giờ chưa ? " .
Cụ Whiting khai : " Trước đây tôi đả từng đến nước Pháp rồi."
" Vậy ông có biết là ông Cần Phải Sẵn Sàng Để Xuất Trình Sổ Thông Hành không? ".
Cụ già Hoa Kỳ trả lời  : " Trước đây khi tôi đến Pháp tôi không cần phải xuất trình Sổ Thông Hành gì hết cả ..." 
Nhân viên Di Trú nổi nóng : " Xin Ông nói chuyện cho đàng hoàng một chút. Chuyện vô lý ! Người Mỹ bao giờ củng phải xuất trình Sổ Thông Hành khi tới Pháp.
Cụ Whiting đua mắt nhìn nhân viên Di Trú thật lâu rồi nhẹ nhàng giải thích : " Thật vậy sao ! trước đây khi tôi đổ bộ lên bãi biển OMAHA nước Pháp trong ngày D day năm 1944 để giải phóng nước Pháp thoát khỏi sự thống trị của Đức Quốc Xã , tôi ĐÃ KHÔNG TÌM THẤY MỘT NGƯỜI PHÁP NÀO Ở ĐÓ ĐỂ MÀ TRÌNH SỔ THÔNG HÀNH CẢ ...".
Yên lặng như tờ. Yên lặng đến đổi có thể nghe làn gió thoảng nhẹ nhàng xuyên qua cửa sổ phi trường.

Khuyết danh

GẶP NÀNG TRONG MƠ*

Ta gặp nàng thơ trong giấc mơ
Bấy lâu ao ước mãi đợi chờ
Tình trao ngây ngất nồng hương sắc
Lịm chết hồn ta vạn ý thơ...

Phú Thạnh
28/2/2014
*Từ Ngủ Trong Vườn Mơ của Yên Dạ Thảo
CÁCH NHẬN BIẾT BỆNH ĐỘT QUỴ


CÁC BẠN CỦA TÔI HÃY BỚT CHÚT THỜI GIAN ĐỌC VÀ CHIA SẺ BÀI NÀY; TA CÓ THỂ CỨU NHỮNG NGƯỜI THÂN YÊU CỦA MÌNH QUA NHỮNG THÔNG TIN ĐƠN GIẢN SAU!!!
Chuyện kể rằng:

Trong bữa tiệc nướng, một phụ nữ tên Jane vấp ngã – rồi cô bảo mọi người rằng cô không sao (vì mọi người khuyên nên gọi bác sỹ)… cô nói cô vấp vào viên gạch vì đôi giày mới.

Mọi người giúp cô gột rửa quần áo và lấy đĩa thức ăn mới cho cô. Còn 1 chút run run, nhưng cô vẫn đi lại ăn uống cùng mọi người suốt bữa tiệc.

Rồi sau đó chồng cô gọi điện bảo mọi người rằng vợ anh đã phải đưa đi viện (Jane đã mất lúc 6h00 tối). Cô bị đột quỵ tại buổi tiệc. Nếu mọi người biết cách nhận biết các dấu hiệu của đột quỵ thì có lẽ hôm nay Jane vẫn còn ở lại với chúng ta. Có thể nói rằng một số người không chết, mà họ chỉ kết thúc trong tình trạng không ai giúp đỡ, không ai có khả năng giúp đỡ.

Chỉ mất một phút để đọc phần sau.

Một bác sỹ về thần kinh nói nếu ông có thể gặp bệnh nhân đột quỵ trong vòng 3 tiếng thì ông có thể hoàn toàn đảo ngược tình thế. Ông nói, bí quyết chỉ là nhận biết triệu chứng đột quỵ, chẩn đoán, và sau đó chăm sóc y tế cho bệnh nhân trong vòng 3 giờ. Song bí quyết này không phải ai cũng dễ dàng biết.

CÁCH NHẬN BIẾT BỆNH ĐỘT QUỴ

Cảm ơn Đấng Tạo Hóa đã cho ta giác quan để nhớ được ‘3’ bước gọi tắt là CNG sau đây. 

Bạn hãy đọc và Nhớ!

Đôi khi các triệu chứng đột quỵ rất khó nhận biết. Thật vậy, việc không nhận diện được triệu chứng đó có nghĩa là hiểm họa. Nạn nhân đột quỵ có thể bị tổn thương não nghiêm trọng nếu mọi người xung quanh không nhận biết được các triệu chứng đột quỵ.

Các bác sỹ nói rằng ta có thể nhận biết bằng cách hỏi bệnh nhân 3 câu đơn giản sau:

C *Bảo người đó CƯỜI.

N *Bảo người đó NÓI chuyện và NÓI CHỮ A

     NÓI CÂU ĐƠN GIẢN (một cách mạch lạc)
     (Ví dụ: Canh cua cà, Món súp gà)

G *Bảo người đó GIƠ CẢ HAI TAY LÊN.

Nếu bệnh nhân gặp khó khăn với BẤT KỲ MỘT ĐIỀU NÀO trong số 3 điều đó, hãy gọi cấp cứu ngay và mô tả các triệu chứng cho người điều động cấp cứu.

Biểu hiện mới của Đột quỵ -------- Hãy lè lưỡi ra

Một ‘biểu hiện’ nữa của đột quỵ là: Hãy bảo người bệnh lè lưỡi ra. Nếu lưỡi bị ‘cong’, hoặc vẹo bên này vẹo bên kia thì đó cũng là dấu hiệu đột quỵ.

Một bác sỹ chuyên khoa tim nói, nếu mỗi người gửi thông tin này cho 10 người thì đảm bảo rằng ít nhất sẽ cứu được 1 người.

Hãy nhớ 4 chữ:       CNG L

Tôi đã làm phần việc của tôi. Còn bạn?

2014/03/02

BẾN HÀN GIANG

Này đây lời ngọc song song
Xin dâng muôn sóng tơ đồng chơi vơi
Xin dâng này máu đang tươi
Này đây nước mắt giọng cười theo nhau

Mới hay phong vị nhiệm mầu
Môi chưa nhấp cạn, mạch sầu đã tuôn
Ớ Địch ơi, lệ có nguồn
Hãy chia bớt nửa nỗi buồn sang tôi

Hôm nay trời lửng lơ trời
Dòng sông ánh sáng sẽ trôi hoa vàng
Tôi ngồi ở bến Hàn Giang
Khóc thôi mây nước bàng hoàng suốt đêm.

Hàn Mặc Tử
Diễn ngâm: Hồng Vân
KHÍ CÔNG Y ĐẠO VIỆT-NAM

Phần 01:


Phần 02 đến phần 08:



MỪNG XUÂN*

 Thả hồn nghe gió xuân sang
Nhìn mai hé nụ dịu dàng sắc hương
Tìm quanh dấu ái bình thường
Xuân ơi có biết ta mong em về

Để cùng hoạ lại cơn mê
Thơ mang nét rủ tình quê mát lòng
Như con nước vỗ dòng sông
Như là thiếu nữ mơ làm cô dâu ...

Trái tim chưa vướng giọt sầu
Trăng rằm soi sáng khay trầu , buồng cau
Thơ trinh nồng ấm đổi trao
Tâm tư ngọt lịm mặn mòi hương nhu

Ta còn sống kiếp lãng du
Dấu chân nặng nợ mây ngàn gió sương
Xuân ơi giữ nét mộng thường
Mai vàng tươi thắm trong vườn đừng rơi ... 

Đỗ Hữu Tài 

28/2/2014
*Họa MƯA XUÂN của YDT


MƯA XUÂN 

Đông tàn gió chuyển mùa sang
Anh đào chen nở, mai vàng khoe hương
Nắng vương lên đóa mộng thường
Quê hương vào hạ, viễn phương xuân về

Hồn thơ cư ẩn bến mê
Nửa say, nửa tỉnh, nhiêu khê trĩu lòng
Buồn như chiếc lá bên sông
Rơi trên bến mộng, xuôi dòng biển dâu...

Chìm sương khuyết mảnh trăng sầu
Vôi hồng nhạt vị, cay trầu, chát cau
Hỏi tu mấy kiếp được trao
Chữ duyên toàn vẹn ngọt ngào hương nhu?

Đêm ôm gối mộng phù du
Đường mơ trên lối giăng mù mịt sương
Xuân phong đi đến vô thường
Nhẹ lay hồn thức, giọt buồn rơi rơi... 


Yên Dạ Thảo 

2014/03/01

NỖI NIỀM*

Có ai biết mùa xuân ngày ấm áp
Ẩn bao đêm lạnh buốt cóng tê người?
Có ai biết ta vui bừng ánh mắt
Mà nỗi buồn dậy bão trái tim côi?

Có ai biết giữa "Xứ người" náo nhiệt
Dòng người đông như thác lũ, biển triều
Lòng vẫn thấy nỗi cô đơn dằn vặt
Nhớ quê nhà...nhớ đất mẹ thân yêu!

Huỳnh Hương

* Cảm tác từ Tự Thán của Anh Tú


TỰ THÁN

Cuối ngày ngắm ánh dương tà
Cuối năm nhặt cánh bạch hoa nhớ nhà
Hướng Đông đồng lúa xa xa
Phương Tây mút mắt giang hà thấy đâu?

Ngưu lang Chức nữ mưa Ngâu
Còn tôi viễn xứ đã lâu không về
Oải chân đường lạ lê thê
Cớ sao mình mãi bộn bề tháng năm?

Anh Tú
Ngày chót năm Quý Tỵ
January 30, 2014

2014/02/28


Đêm dài dong bước lối vườn mơ
Gặp gỡ người tôi những mng chờ
Tri kỷ tạo thành duyên bạn hữu
Bao năm tâm đắc bởi tình thơ.

Anh Tú
February 28, 2014
NGỦ TRONG VƯỜN MƠ

Em đang thao thức trong vườn mơ
Tìm đóa hoa xuân trải lối chờ
Đêm gối lụa êm chăn nệm ấm
Say hương thấm mộng ánh trăng thơ

Yên Dạ Thảo

2014/02/27

CẶP ĐÔI

Có một cố tạo thành hai
Điểm tô con số mỗi ngày xinh hơn
Chẳng may thêm chữ giận hờn
Thì rơi nước mắt chập chờn yêu thương.

Hờn đi… hạnh phúc tỏa hương
Thêm vài con số vấn vương cuộc tình
Thuyền đời lao lách nhục vinh
Vui buồn lót bước hành trình mẹ cha.

Đàn con tung cánh bay xa
Ngọt ngào còn lại là ta với mình
Chiều đi đêm đợi bình minh
Nắng sớm nung ấm cuộc tình thiêng liêng.

Một mai hai đứa mỗi miền
Đã đầy bổn phận tròn duyên hai người.
Em ơi hãy n nụ cười
Dù nắng có tắt vẫn tươi đêm về.

Anh Tú
February 27, 2014

2014/02/26

NHÌN LẠI

Viết tặng Trần Thị Mai
       (Người bạn đời)        
      
Hai bờ biển lấn eo sông
Chứa chan bao xiết cánh đồng lúa thơm
Em từ mùi rạ hương rơm
Bước ra gạo hóa thành cơm trắng ngần
Ta người thấp giọng, cao chân
Theo em suốt nửa đường trần trụi qua
Đất gần nên mặt trời xa
Cứ đen đủi kiếp phù hoa - Phận hèn
Ta về tối mịt mờ em
Bờ sương ướt đẫm dế mèn hụt hơi
Xin em mở cửa trần đời
Cho ta chạm đất, vén trời tạ ơn.


Phong Tâm
08.11.2005


VUI*

Tình đời dù lắm đắng cay
Niềm vui cuộc sống vẫn đầy trong tôi
Tương lai ta hãy mĩm cười
Dù cho sóng gió lòng người ngả nghiêng
Quyết tâm xóa hết ưu phiền
Đừng cho ân ái triền miên bùi ngùi
Nhìn đời cặp mắt tươi vui
Thảnh thơi buông thả mới vừa lòng tôi

Phú Thạnh
20/02/2014

*Cảm họa bài SAY của Khúc Giang

2014/02/25

HAI NƠI

Bờ này Đông bờ kia Xuân
Trời lạnh lùng …hồn lâng lâng
Thiết tha nhớ về bên ấy
Muôn ngàn kỷ niệm bâng khuâng.

Em dợm Hạ anh tàn Đông
Năm tháng với nỗi chờ mong
Mắt rưng rưng … mưa rào rạt
Hoa ngập ngừng đợi xuân hồng.

Sao không bên nhau ngọt bùi
Hai nơi nuốt những bùi ngùi
Mây chiều đợi chờ nắng sớm
Bao giờ nếm được niềm vui?

Khác nào cách trở âm dương
Thức ngủ chập chờn nhớ thương
Số phần đôi ta nghiệt ngã
Có ai chia sẻ đoạn trường?

Anh Tú
February 25, 2014

HƯƠNG ĐỒNG GIÓ QUÊ

Bên ngoài nắng sớm vừa lên
Mình ơi thức dậy, anh bên cửa buồng
Nước trong bồn ấm tỏa hương
Chờ em gội rửa mùi vương đêm tàn.

Khuya rồi ngon giấc trong chăn
Hay trăn trở với trăng rằm Nguyên Tiêu?
Hương xưa còn đọng ít nhiều
Bên bờ nhan sắc, đường yêu vào đời?

Ngoài kia sương vẫn còn rơi
Chén trà thơm thoảng, mình ơi ấm lòng!
Cho dù băng giá tan đông
Tìm đâu mùi rạ hương đồng lửa quê!

Một đời nửa tỉnh nửa mê
Vẫn thừa…, vẫn khát tỉ tê lời tình!
Nghiêng nghiêng câu hát ru mình
Ngủ đi em, mộng nguyên hình trái tim!
  
Phong Tâm
25.02.2914

MẠC CỬU VÀ VIỆC THÀNH LẬP TRẤN HÀ TIÊN

Hà Tiên ngày nay


Nói đến Hà Tiên, nói đến một vùng đất cực Tây Nam tổ quốc, không ai không nhắc đến Mạc Cửu như một vị khai trấn công thần, điều đó hoàn toàn hợp lý, bởi trên bia mộ của người còn ghi rõ dòng chữ “Khai trấn quốc công”. Ngay khi thành lập trấn Hà Tiên, Chúa Nguyễn đã phong cho ngài là Tổng binh và khi mất được truy phong Khai trấn thượng trụ quốc Đại tướng quân, tước Cửu Lộc Hầu, sau lại phong thêm là “Vũ Nghị Công”. Trên đất nước ta không phải nhiều người được phong như thế.Trong sách sử của triều Nguyễn cũng như các nhà nghiên cứu lịch sử sau này không ít người đã nói đến Mạc Cửu và những công lao của ông đóng góp cho đất Hà Tiên, cũng như là của cả vùng Hậu Giang, tôi xin không nói về vấn đế này vị sẽ được trịnh bày trong một tham luận khác. Ở đây, chúng tôi chỉ xin được đề cập về vai trò của Mạc Cửu trong việc khai mở vùng đất Hậu Giang và cụ thể hơn là việc xây dựng để Hà Tiên trở thành trấn lỵ của Tổ quốc Việt Nam, và là ải địa đầu trên một dãi biên thùy Tây Nam.
Hẳn chúng ta cũng biết rằng, từ sau khi vương quốc Phù Nam suy tàn, cùng với đợt hải xâm vào khoảng thế kỷ thứ 6, nguyên cả vùng đất Hậu Giang phần lớn đã bị chìm trong nước biển trong suốt mấy trăm năm. Chính vị thế mà các di tích còn lại của nền văn hóa Óc Eo đều bị phù sa vùi lấp. Các di chỉ khảo cổ trong tỉnh Kiên Giang và khu vực xung quanh cho chúng ta thấy rằng hầu hết các hiện vật đều có niên đại trên dưới 13 thế kỷ, như vậy có thể khẳng định rằng khu vực này đã vắng bóng người trong một thời gian dài. Mãi cho đến thế kỷ thứ 14, 15 mới có sự hiện diện của con người. Dĩ nhiên, chúng ta cũng không thể phủ định rằng, trong khoảng thời gian trống vắng đó cũng có thể có một bộ phận cư dân vãn còn sinh sống trên những vùng đất gò cao, nhưng chắc chắn là không nhiều lắm.
Qua một số sách du ký phương Tây của các giáo sĩ Thiên chúa và của Châu Đạt Quan, chúng ta cũng có thể hình dung là vùng đất thuộc lưu vực sông Cửu Long kéo dài đến Hà Tiên đã có con người đến đây sinh cơ lập nghiệp từ khoảng thế kỷ thứ 14 và đã có sự hiện diện của người Việt từ thời gian đó. Những con người ban dầu định cư trên vùng đất Tây Nam bộ này chắc chắn phải chọn nơi nào thuận lợi nhất, có nước ngọt, có điều kiện sản xuất và có cả đường giao thông thuận tiện. Chính vị thế mà đã hình thành những nhóm dân cư rãi rác dọc theo ven biển từ Cà Mau về đến Hà Tiên, họ khai thác sản vật thiên nhiên là chính, đồng thời cũng làm nông nghiệp, trồng trọt để bảo đảm lương thực, thực phẩm hằng ngày.
Trở lại chủ đề chính là vai trò của Mạc Cửu trong việc khai mở trấn Hà Tiên. Chúng ta cũng được biết rằng Mạc Cửu có mặt ở Hà Tiên từ năm 1670, lúc đó, Mạc Cửu còn rất trẻ, từ Trung Hoa, ông vượt biển cùng một ít quân gia đến triều định Chân Lạp lập nghiệp. Cũng trong thời gian đó, Trần Thắng Tài (Trần Thượng Xuyên) đã được Chúa Nguyễn bố trí cho ở đất Biên Hòa và Dương Ngạn Địch được ở đất Mỹ Tho. Khác với Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu đã chọn cho mình một con đường khác, đó là đi xa hơn về phương Nam. Với con mắt của một doanh nhân, một nhà chiến lược cùng với đức độ thiên bẩm, Mạc Cửu đã chọn Hà Tiên làm địa bàn dung thân lâu dài cho mình. Nơi đây, Mạc Cửu đã hội tụ đủ cả thiên thời, địa lợi và nhân hòa để chỉ trong một thời gian không lâu, Hà Tiên trở thành một thương cảng trù phú, nhân dân quanh vùng từ Cà Mau đến Kampongsom mặc nhiên coi Hà Tiên là thủ phủ của vùng đất này, bởi Hà Tiên chính là nơi mà họ mang nông thổ sản đến để trao đổi các loại hàng hóa khác với tàu buôn các nước, mà Mạc Cửu là người đứng đầu, cai quản cả việc doanh thương lãn an ninh cho họ.
Trên diễn đàn này, tôi cũng xin các nhà khoa học cẩn thận khi dùng từ Mang Khảm, vị thực chất nó không hề là một địa danh như nhiều nhà nghiên cứu hiện nay suy diễn. Nếu có điều kiện, chúng ta sễ trở lại vấn đề này sau.

Nhìn qua Tô Châu

Tất cả chúng ta đều biết rằng, khi Hà Tiên đã là một thương cảng, một nơi đô hội trù phú từ đầu thế kỷ thứ 18, Mạc Cửu vãn còn thần phục triều đình Chân Lạp. Tôi sử dụng từ “Thần phục” bởi Hà Tiên vẫn là một vùng đất độc lập, mối quan hệ giữa triều đình Chân Lạp và Mạc Cửu rất lỏng lẻo nếu không nói là họ không quan tâm đến Hà Tiên nếu Mạc Cửu không yêu cầu sự bảo trợ về an ninh cho Hà Tiên.
Qua nhiều tư liệu lịch sử, chúng ta thấy rằng khi Hà Tiên hưng thịnh thì triều đình Xiêm La dòm ngó, và trong giai đoạn đó, việc cướp đất, giành dân, xâm lược là điều diễn ra một cách bình thường. Chính vì thế, quân Xiêm đã không phải chỉ một lần qua xâm chiếm, cướp bóc Hà Tiên, thậm chí còn bắt cả Mạc Cửu và gia quyến mang về đất Xiêm. Trong khi đó, triều đình Chân Lạp không hề có động thái nào để bảo vệ Hà Tiên bởi họ rất khiếp sợ Xiêm La.
Mạc Cửu bị Xiêm La bắt đi, mặc dầu được đối xử khá trọng hậu, nhưng hình như số phận của ông đã gắn với Hà Tiên nên ông vẫn tìm cách trốn về đây để sau đó không lâu xin thần phục Việt Nam.
Trở lại tái thiết Hà Tiên, tổ chức lại các cộng đồng cư dân, làng xóm, và xin với chúa Nguyễn sáp nhập vùng đất này vào cương thổ của Đại Việt. Đó là một quyết định hết sức sáng suốt của Mạc Cửu. Tại sao ông không xin thần phục Thái Lan hay là xin triều đình Chân Lạp bảo vệ một vùng đất cận kề với vương triều của họ. Trong bối cảnh cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, chúng ta thấy rằng vương triều Chân Lạp không coi Hà Tiên là lãnh thổ của họ, chính vì thế họ không hề quan tâm đến những biến cố xảy ra trên đất Hà Tiên (Quân Xiêm tấn công), mà bản thân vương triều Chân Lạp lúc bấy giờ cũng không đủ sức quản lý một vùng đất xa xôi và hoang dã ấy. Trong lúc đó Chúa Nguyễn ở Đàng Trong đang phát huy những thế mạnh của mình, chiêu tập hiền tài xây dựng xứ sở Đàng trong để chống lại thế lực của Chúa Trịnh. Ưu thế đó đã làm cho thế lực của Chúa Nguyễn ngày càng lớn mạnh và vươn tới vùng đất cực Nam này. Mạc Cửu đã nhận ra việc gì mình phải làm để bảo vệ đất Hà Tiên. Và cả một vùng đất rộng lớn từ Kampong Som đến Cà Mau và các đảo, quần đảo trong vịnh Thái Lan đã thuộc về Đại Việt từ năm 1708 với tên gọi là Hà Tiên, là một đơn vị hành chánh cấp “Trấn” mà Mạc Cửu được giao quyền cai quản với chức “Tổng binh”. Sau này, người thừa kế Mạc Cửu là Mạc Thiên Tích cũng được Chúa Nguyễn phong là Tổng binh Đại đô đốc.
Ở đây, nếu so sánh Mạc Cửu với Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Địch, chúng ta thấy có sự khác nhau một cách cơ bản. Trong khi Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Địch xin với Chúa Nguyễn để được cư ngụ, nương nhờ và lập nghiệp thì Mạc Cửu lại tự mình đứng ra chiêu tập lưu dân, tổ chức doanh thương, lưu dân các nơi và khách thương các nước đã về Hà Tiên trao đổi, mua bán, biến một vùng đất hoang vu trở thành nơi đô hội. Nếu cho đến lúc này mà Mạc Cửu tự lập thành một tiểu quốc thì chắc không có gì khó khăn, nhưng cũng chắc rằng tiểu quốc ấy sẽ không tồn tại được lâu bởi sự dòm ngó của Xiêm La.
Chúng ta có thể lý giải vấn đề tại sao Mạc Cửu lại xin sáp nhập đất Hà Tiên vào Đại Việt như sau:
Trước nhất, Mạc Cửu đã tự nhận thấy thế lực của Chân Lạp không thể đối phó với Xiêm La. Trong khoảng thời gian này Xiêm La luôn dòm ngó và có ý đồ xâm lược Chân Lạp, triều đình Chân Lạp không có gì bảo đảm cho sự an ninh của Hà Tiên trong khi chính triều đình không thể bảo đảm an toàn cho chính mình. Như thế, nếu dựa vào Chân Lạp chỉ tự chuốc lấy phiền não mà thôi.
Xiêm La không xa Hà Tiên, lại là một nước hùng mạnh, và đã có lúc vua Xiêm coi trọng Mạc Cửu, mặc dù Xiêm mạnh nhưng lại cho quân đội của mình tổ chức cướp bóc, có ý đồ xâm lược Chân Lạp. Với bản chất trung hậu, ông không thể nào chấp nhận một nền văn hóa xa lạ mang tính bạo lực mà ông đã chứng kiến khi quân Xiêm tấn công, cướp bóc và đốt phá Hà Tiên. Có lẽ đó là lý do thuyết phục nhất để giải thích tại sao Mạc Cửu không đầu phục Xiêm La.
Trước sức ép tinh thần rất nặng nề, đó là việc phải chăm lo cho những người dưới quyền và nhân dân một khu vực đã từng xem ông là người thủ lĩnh, Mạc Cửu phải tìm một kế vẹn toàn cho họ. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh đến sức ép tinh thần chứ không phải kinh tế hay quân sự, bởi lẽ nếu từ chối trách nhiệm về tinh thần, Mạc Cửu có thể chọn cho mình một con đường khác để có thể làm kinh tế, kinh doanh, xây dựng cơ đồ riêng tư như biết bao người Hoa tha hương cầu thực khác. Biết bao người trên một dãi đất rộng lớn đã gởi gắm cuộc sống và sinh mạng của họ cho ông. Nếu không giữ vững Hà Tiên, phó mặc cho số phận thì những con người đó sẽ ra sao?. Là một người Hoa, Mạc Cửu thấm nhuần tư tưởng Nho giáo, lấy nhân, lấy đức làm đầu, và cũng cần phải nói rằng đối với những người như Mạc Cửu, cái nền văn hóa Trung Hoa là nền văn hóa tốt đẹp nhất, do đó, ông phải chọn cho mình và cho nhân dân trong khu vực một chỗ gửi gắm sao cho phù hợp với tư tưởng nhân văn theo kiểu Trung Hoa.
Chúng ta cũng cần phải thấy rằng, vào thời điểm đầu thế kỷ 18, các tụ điểm dân cư hình thành trên vùng đất Tây Nam bộ có một phần lớn là người Việt và người Hoa, và chính họ có vai trò rất lớn trong việc khai thác, mở mang vùng đất này. Điều đó đã khiến Mạc Cửu phải chọn cho mình và dân cư một chốn nương thân gần gũi với nền văn hóa gốc của họ, và Đại Việt với Chúa Nguyễn ở Đàng Trong lúc bấy giờ là phù hợp nhất kể cả về kinh tế, chính trị và văn hóa. Chúa Nguyễn có thể bảo vệ cho Hà Tiên khỏi sự xâm lược của ngoại bang, tác động để phát triển kinh tế, nhưng quan trọng nhất là nền văn hóa Việt rất gần gũi với nền văn hóa Trung Hoa mà đạo Nho là gốc, là nền tảng. Như vậy, khi xin sáp nhập vào Đại Việt, Hà Tiên hay là cả vùng đất Hậu Giang đã có cơ sở khá vững chắc về kinh tế và văn hóa, sự lựa chọn này chính là thể hiện ý chí và nguyện vọng của cư dân trong vùng chứ không phải chỉ có ý chí chủ quan của Mạc Cửu.
Hành động sáp nhập Hà Tiên vào Đại Việt có thể nói là sự lựa chọn tất yếu, khôn ngoan của Mạc Cữu và nhân dân ta lúc bấy giờ. Chính việc sáp nhập Hà Tiên vào Đại Việt thì vô hình trung nguyên cả vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu cũng chịu sự cai quản của triều đình Chúa Nguyễn. Công lao của nhân dân Hà Tiên mà người đứng đầu lúc bấy giờ là Mạc Cửu thật hết sức lớn lao để chúng ta có ngày hôm nay.
Ngay sau khi trấn Hà Tiên được thành lập, Mạc Cửu được Chúa Nguyễn phong làm Tổng binh, một chức vụ đứng đầu Trấn nhưng lại coi trọng việc gìn giữ, bảo vệ hơn các mặt công tác khác. Điều đó chứng tỏ tầm nhìn chiến lược của Chúa Nguyễn đối với một vùng đất xa xôi. Nhận được nhiệm vụ ấy, Mạc Cửu đã tổ chức các công trình phòng thủ, bảo vệ Trấn lỵ Hà Tiên mà các công trình lớn là xây dựng Phương Thành, đắp một số lũy phòng thủ như Bờ Đồn nhỏ, Bờ Đồn lớn, đồn tiền tiêu Giang Thành. . .
Trong những năm chính thức quản lý Hà Tiên, Mạc Cửu đã mở rộng việc kinh doanh làm cho Hà Tiên thật sự trở thành một cảng khẩu quan trọng trong khu vực, việc doanh thương ngày càng phát triển, nhân dân trong trấn đã tích cực khai hoang, mở đất sản xuất nông nghiệp (Chúng ta cần nhìn nhận sự kiện này trên địa bàn toàn trấn), lưu dân đến sinh sống trong trấn ngày càng nhiều để đến sau này Mạc Thiên Tích có điều kiện thành lập huyện Kiên Giang, Long Xuyên, Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (Bạc Liêu).
Nói đến vai trò của Mạc Cửu đối với đất Hà tiên hay là Trấn Hà Tiên, chúng ta không chỉ nhắc đến việc kinh doanh và bảo vệ, mà một điều hết sức quan trọng là dấu ấn của thời kỳ họ Mạc cai quản đã để lại một cách đậm đà trong mọi sinh hoạt kinh tế và văn hóa của người dân nơi đây, đặc biệt là người dân thị xã Hà Tiên hiện nay. Ta có thể nói một cách không sợ sai lầm rằng người dân Hà Tiên có tính cách khá đặc biệt, mà nổi trội lên là sự nhân ái, hiền hậu nên từ xưa đã có câu “Hà Tiên đất Phật, người hiền”, dĩ nhiên người Hà Tiên cũng mang tính cách chung và những truyền thống quí báu của cả dân tộc Việt Nam. Có phải chăng từ mấy trăm năm trước, Mạc Cửu và kế tiếp là Mạc Thiên Tích đã xây dựng nên một truyền thống văn hóa mà ta có thể đọc được trong sử liệu như xây dựng nhà Nghĩa học, lập miếu thờ Khổng Tử, lập chùa thờ Phật, kể cả việc đặt tên núi, tên sông cũng mang đậm nét văn hóa để cho đến hôm nay chúng ta vẫn còn có thể tự hào rằng vị Khai trấn quốc công của chúng ta là một nhà văn hóa chứ không đơn thuần là một vị quan đầu trấn. Trong “Hà Tiên trấn, Hiệp trấn, Mạc thị gia phả” đã có đoạn ghi rằng: “Ông có tính chất thuần hậu, yêu ghét công bằng, khoan hồng đại lượng, thương người cô bần, thân cận người hiền, xa lánh người gian, có uy đức, tiếng tăm nhân nghĩa đồn khắp xa gần. Ông cai trị Hà Tiên hơn 40 năm, đến ngày 27 tháng 3 Ất Mão thì ông bị bệnh mất, thọ 81 tuổi. Được tin ông mất, gần xa thương khóc như bố mẹ chết”.
Bàng bạc trong những nét sinh hoạt khác như tín ngưỡng, lễ hội, văn hóa ẩm thực, giao tiếp. . . đều mang dáng dấp riêng của vùng đất Hà Tiên, nếu cái chất riêng ấy không được hình thành và phát triển từ thời mở đất mà trong đó, Mạc Cửu đã có một vai trò hết sức quan trọng thì tại sao nó có cái riêng ấy. Ở đây cũng xin lỗi một số nhà nghiên cứu nếu chúng tôi có quá lời hay là chỉ nghiên cứu một cách phiến diện, nhưng quả thật là nếu có chú ý thì chúng ta sẽ thấy những điều nêu trên là có thật.
Nói đến vai trò của một vị công thần khai trấn không bao giờ là chuyện dễ dàng, nhất là trong khuôn khổ của một bài báo. Điều mà chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là:
- Mạc Cửu đã có một vai trò hết sức quan trọng nếu không nói là quyết định trong việc thành lập trấn Hà Tiên. Không có Mạc Cửu, chưa chắc gì chúng ta có mặt ở đây mà bàn chuyện lịch sử. Nếu Mạc Cửu và nhân dân Hà Tiên cách đây 300 năm không có quyết định sáng suốt thì không biết giờ này mảnh đất Hà Tiên sẽ ra sao.
- Vai trò của Mạc Cửu không chỉ dừng lại ở một ý tưởng, một quyết định, mà ông còn là người đi đầu trong công cuộc khai phá vùng đất Hậu Giang, hay là Hà Tiên nói riêng. Mặc dầu công lao khai phá là của nhân dân lao động, nhưng nếu không có Mạc Cửu thì lịch sử sẽ diễn biến theo một chiều hướng khác mà chúng ta rất khó đoán định.
- Cho dù có những thiên kiến khác nhau, nhưng không ai có thể phủ nhận rằng Mạc Cửu là một vị công thần khai trấn, là một vị quan đứng đầu trấn đầu tiên của lịch sử vùng đất Tây Nam bộ. Ông và hậu duệ cùng với nhân dân Hà Tiên đã xây dựng Hà Tiên một cách toàn diện để người cùng thời và các thế hệ sau này có thể tự hào rằng Việt Nam đã có một Hà Tiên cách đây trên 300 năm. Đồng thời, Mạc Cửu và con cháu ông cũng đã ra sức bảo vệ, mở mang bờ cõi nước nhà. Công lao ấy không bao giờ và cũng không thể nào phủ nhận được.
- Nhà thơ, vị tướng Huỳnh Văn Nghệ đã có câu: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi”, Tôi có dịp nói chuyện với nhà thơ Huy Cận về văn hóa Hà Tiên, Nhà thơ Huy Cận cho rằng nên nói là : “Từ thuở mang thơ đi mở cõi”, ý của nhà thơ là phải mở cõi bằng văn hóa mới trường cữu. Tôi rất đồng ý với quan điểm này và cũng thấy rằng, ngoài võ công thì Mạc Cửu và con ông là Mạc Thiên Tích đã ghi lại một dấu ấn văn hóa Việt đậm đà dù có mang thêm bản sắc riêng của một vùng đất biên cương, vùng văn hóa Hà Tiên.

Trương Thanh Hùng (GK)


Hòn Phụ Tử từ 2005